Phố cổ Hà nội xưa và nay
NGUYỄN HOẠT
Những người Hà nội hay du khách đã thăm viếng thành phố này thì không thể
quên được khu phố cổ ở trung tâm thành phố, gần hồ Hoàn kiếm. Đây là nơi tập trung
các hoạt động thương mãi, buôn bán sầm uất bậc nhất ở thành Thăng Long. Bên cạnh
đó khu phố là nơi sinh sống chủ yếu của cư dân thuộc tầng lớp khá giả trong xã hội
xưa. Thời xưa,khu phố cổ nằm ở phía đông của hoàng thành Thăng Long ra đến sát
sông Hồng. Bên ngoài khu vực là vòng thành Đại La có các cửa ô. Thời này, dân cư
từ các làng quanh đồng bằng Bắc Bộ tụ tập về đây sinh sống, tạo thành khu phố đông
đúc nhất kinh thành.
Khu phố cổ này được nhà văn Thạch Lam trong nhóm Tự lực văn đoàn mô tả
trong tác phẩm Hà Nội băm sáu phố phường như sau :
Người Pháp có Paris, người Anh có London, người Tàu (Trung Quốc) có
Thượng Hải… Trong các sách vở, trên các báo chí, họ nói đến thành phố của họ một
cách tha thiết, mến yêu... Chúng ta cũng có Hà Nội, một thành phố rất nhiều vẻ đẹp
vì Hà Nội đẹp thật và cũng vì chúng ta mến yêu. Yêu mến Hà Nội với tâm hồn người
Hà Nội cũng như người Paris chính hiệu yêu mến Paris...
...Để cho những người mong ước kinh kỳ ấy, và để cho những người ở Hà Nội,
chúng ta khuyến khích yêu mến Hà Nội hơn, chúng ta nói đến tất cả những vẻ đẹp
riêng của Hà Nội, khiến mọi sự đổi thay trong ba mươi sáu phố phường đều có tiếng
vang ra khắp mọi nơi.[1]
Ca dao xưa cũng có câu: “Hà Nội băm sáu phố phường. Hàng Gạo, Hàng
Đường, Hàng Muối trắng tinh”.
Họa sĩ nổi tiếng Bùi Xuân Phái tạo ra các bức tranh nổi tiếng về khu phố này
và được mệnh danh là tranh phố Phái cùng nhiều họa sĩ Pháp đã ghi lại hình ảnh của
các hàng phường ngày xưa. Các tranh vẽ phố này với màu sắc rực rỡ ngày nay rất
̣được ưa chuộng.
Năm 1995 của Bộ Xây dựng xác định phạm vi khu Phố cổ Hà nội có: phía Bắc
là phố Hàng Đậu; phía Tây là phố Phùng Hưng; phía Nam là các phố Hàng Bông,
Hàng Gai, Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía Đông đường Trần Quang Khải và đường
Trần Nhật Duật, thuộc quận Hoàn Kiếm trên diện tích khoảng 100 ha, có 76 tuyến
phố thuộc 10 phường: phường Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Buồm, Hàng Bồ, Hàng
Bông, Hàng Gai, Hàng Mã, Đồng Xuân, Cửa Đông, Lý Thái Tổ.
Phố này chỉ là một phần phố của kinh thành Thăng Long, được lập nên theo
thuyết phong thuỷ. Kinh thành này có sông hồ bao quanh : sông Hồng Hà phía bắc
sang đông; phía tây nam có hồ lớn: hồ Tây, Bảy Mẫu,và có sông Tô Lịch, Kim Ngưu.
Khi thành Thăng Long còn mang tên là Đại La, phố Hàng Bè đã thành một chợ
lớn của lưu vực sông Hồng, dân cư tụ họp buôn bán, lập thành các làng nghề, mở đầu
cho việc thành hình các phố phường nghề sau này, buôn bán hàng hóa đổ về đây, như
câu thơ :
Nhị Hà qua Bắc sang Đông,,
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này
Vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Đại La lập ra kinh đô mới, đổi tên thành
Thăng Long, là vùng đất thuận tiện cho việc phát triển lâu dài, thì nơi đây trở nên tấp
nập. Để đáp ứng nhu cầu , Triều đình đã cho mở thêm hàng loạt các bến như Triều
Đông, Thái Cực, Thái Tổ, Giang Tân, Thiên Thu, Đại Thông, ... Khi các bến được mở
ra thì chợ cũng thành hình. Khu chợ Đông Bạch Mã liền với sông Hồng Hà là nơi
trên bến, dưới thuyền, buôn bán sầm uất là một thương cảng cổ.
Thăng Long chưa có phố. mà mới chỉ có nhiều làng, rồi dần dần biến đổi
thành phố rất nhanh, do sự đô thị hóa.
Các phố nghề tập trung theo từng khu vực. Các thuyền buôn có thể vào giữa
phố để buôn bán trao đổi, khiến cho các phố nghề càng phát triển. Và sản phẩm được
buôn bán trở thành tên phố, với chữ hàng phía trước, chuyên buôn bán một thứ hàng
đó. Sử cũ ghi chép thời kỳ này cho thấy thuyền buôn nước ngoài theo sông Hồng Hà
đến thẳng Thăng Long. Vua Lý Anh Tông cho lập thương cảng Vân Đồn , các tàu
buôn nước ngoài có thể dừng lại ở đây.
Năm 1230, nhà Trần đặt ra 61 phường cho khu vực kinh tế của dân chúng
ngoài hoàng thành Thăng Long,cho đến nay chỉ có tên một số phường còn được biết
như: An Hoa, Cơ Xá, Giang khẩu, Tây Nhai,Phục cổ...Nhà Minh gọi Thăng Long là
Đông Quan.
Đến thời nhà Lê, triều đình chú trọng phát triển nông nghiệp, hạn chế dân cư
các nơi khác nhập cư đến Kinh đô, 61 phường chỉ còn 36 phố phường, dù thế nhưng
36 phố phường rất sầm uất, buôn bán phát triển, sau này người Hoa cũng đến đây
buôn bán hình thành các khu phố Tàu.
Nguyễn Trãi viết: Nhà Trần lấy Thăng Long làm Trung-kinh. Hồ thiên đô sang
An-tôn lấy Trung-kinh làm Đông-đô. Thái-tổ định thiên hạ đổi tên là Đông-kinh.
Thượng-kinh là kinh đô của vua. Thời Ngô, quận-thú là Sĩ vương đóng đô ở đấy.
Thời Đường, đô-hộ là Cao-vương đắp thành Đại-la ở đấy. Từ Lý đến nay, cũng đóng
đô ở đấy. Có 1 phủ lộ, 2 thuộc huyện, 36 phường.
Phủ là Phụng-thiên , 2 huyện là Thọ-xương (xưa gọi là Vĩnh-xương) và
Quảng-đức , mỗi huyện đều có 18 phường.[2]̉
Ông có nói đến các phường của phủ Phụng-thiên như: phường Tàng Kiếm làm
kiệu, áo giáp, binh khí, võng, lọng...phường Yên Thái làm giấy, phường Thụy
Chương, Nghi Tàm dệt vải nhỏ và lụa, phường HàTân nung đá vôi, phường Hàng
Đào nhuộm điều,phường Tả Nhất làm quạt, phường Thịnh Quang có long nhãn,
phường Đường Nhân bán áo diệp y...Các phường cổ truyền đó đã có từ thời Lý Trần
và chỉ có đổi tên theo thời đại và tồn tại cho đến cuối đến thế kỹ XIX.
Trong thời kỳ này phần lớn của huyện Thọ Xương, hầu hết các phố đều là nơi
buôn bán, rất nhiều đền và chùa cũng được xây vào thời kỳ này.
Năm 1446, vua Lê Nhân Tông đặt ra phủ Trung Đô gồm 2 huyện là Quảng Đức
và Vĩnh Xương. Năm 1469, Lê Thánh Tông đổi phủ Trung Đô thành Phụng Thiên.
Nhà Lê đổi Thăng Long thành Phủ, trực thuộc trung ương và suốt ba thế kỷ chỉ
gồm có 36 phường.
Từ thời này đã có một số Hoa kiều buôn bán ở đây, lập thêm các phố người
hoa. Bấy giờ, giữa khu phố cổ Hà Nội có một số đầm hồ, lớn nhất là hồ Thái Cực.
Chính sách cấp đất cho dân ra đời từ đầu thời Lê, đến cuối triều đại này thì
công điền bị thu hẹp,các tư điền lớn ra. Vì các chúa Trịnh đã ban hành những chính
sách thuận lợi hơn như: giảm thuế chợ, nới rộng buôn bán và tự do sản xuất thủ công
nên các làng nghề chung quanh Thăng Long đổ ra buôn bán ở kinh đô. Những chính
sách đó đã thúc đẩy kinh tế phát triển, lưu thông hàng hóa giữa các vùng với Thăng
Long mở rộng. Theo thời gian, Thăng Long trở thành những nơi vừa sản xuất vừa
bán sản phẩm, đồng thời cũng là nơi đặt hàng của các thương gia, rồi lập thành khu
Phố Cổ ngày nay.
Theo Nguyễn Trãi thì phường không chỉ là đơn vị hành chính mà còn là nơi
tập hợp những người cùng nghề như phường chèo, phường thợ. Các cửa hàng kéo dài
trên các con phố thường bán chung một mặt hàng,gọi là phường về sau biến thảnh
phố gọi là Hàng. Những người bán cùng một thứ hàng thường tập họp với nhau tạo
thành các khu phố nghề chuyên môn.
Những người ngoại quốc đến Việt Nam rất ngạc nhiên khi thấy những người
trong khu phố cùng bán một thứ hàng, hiện tượng này không thể có ở tây phương
nhưng ở nước ta thì có thành ngữ buôn có bạn, bán có phường.
Vì thế phường không những là tổ chức nghề nghiệp ở Thăng Long mà còn là
đơn vị hành chính như làng xã ở vùng quê. Các nghề sau đó phát triển ở Hà Nội là
nghề nhuộm, dệt, làm giấy, đúc đồng, rèn và gốm và còn có nghề đúc tiền (sắt và
đồng), đóng thuyền, làm vũ khí và xe kiệu.
Theo Đại Việt sử ký tục biên thì 36 phường được lập ra từ thời vua Lê Hiển
Tông,nhà Hậu Lê (1740-1786),với mục đích giữ gìn an ninh, trật tự: vào tháng 12
năm Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) triều đình hạ lệnh chia bên trong
kinh thành làm 36 khu, mỗi khu đặt một quan coi giữ việc tuần phòng, khám xét. Lại
định phép ty tộc đoàn (liên kết các gia tộc ở gần nhau cùng giữ an ninh). Tiếp đó lại
chia làm 9 điện, mỗi điện có 4 khu, mỗi khu đặt một viên chánh khu.[3]
Nhà văn Phạm Đình Hổ ghi lại :
Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường, mỗi phường đặt một người
phường trưởng. Lại đặt ra phủ Phụng Thiên có quan Phủ doãn, quan Thiếu doãn
kiêm coi cả việc tuần phủ và việc liêm sát, đốc suất hai huyện Thọ Xương và Quảng
Đức, mỗi huyện có quan Huyện úy cai trị. Toàn thành thì cử một quan trọng thần
sung chức Đề lĩnh tứ thành quân vụ, phân ra chánh phó hai dinh, chuyên coi việc
cấm phòng, xét hỏi...
...Đời Trịnh An Đô Vương Trịnh Cương, Nguyễn Công Hãng làm Thượng thư
cầm quyền chính, mới chia hai huyện ra làm tám khu, mỗi khu đặt một người trưởng
khu và một người phó khu; lại chia ra năm nhà là một tị, hai tị là một lư, mỗi lư cũng
có một lư trưởng; bốn lư là một đoàn, mỗi đoàn đặt một quản giám, hai quản điểm,
dưới quyền người khu trưởng và trực thuộc quan Đề lĩnh. Đó là phỏng cái ý cổ nhân
bảo trợ phù trì lẫn nhau...
...Theo lệ cũ, chốn kinh thành không phải chịu thuế dung, thuế điệu, chỉ tính
từng dãy nhà, không cứ nhà quan hay nhà dân, hàng năm mỗi nhà phải chịu một suất
đi sửa sang đắp lại nền cắm cờ tướng, dọn cỏ chung quanh cung đình, cung ứng các
việc kiến trúc…
...Phủ Phụng Thiên có hai huyện, thuở xưa là Quốc Oai trung lộ. Các huyện
trong phủ Quốc Oai là thượng lộ, còn Thanh Trì, Thượng Phúc, Thanh Oai là hạ lộ,
đời Lý đời Trần đều tóm gọi là Uy lộ. Huyện Thọ Xương khi trước là huyện Vĩnh
Xương, huyện Thanh Oai khi trước là Thanh Oai , huyện Thanh Trì trước kia là
Thanh Đàm ; chữ Thanh vì tỵ húy chúa Trịnh Thanh vương nên mới phải bớt nét đổi
là thanh; chữ đàm vì tỵ húy với vua Thế Tôn nên đổi ra chữ trì. Còn như trung lộ
sau đổi là Phụng Thiên hạ lộ, Thanh Oai sau thuộc về phủ Ứng Thiên, Thanh Trì;
Thượng Phúc sau đổi là phủ Thường Châu; Vĩnh Xương sau đổi thành huyện Thọ
Xương. Những cải cách ấy trong quốc sử đều bỏ qua không chép. Từ đời Lê trung
hưng trở về sau đều như thế cả. Sông Nhuệ Giang phát nguyên từ làng Tây Đàm,
huyện Từ Liêm, qua huyện Thanh Oai, Thanh Trì, phía nam hợp lưu với sông Tô
Lịch; những đoạn bờ khoảng giữa, nhiều chỗ nhọn hoắt như mỏ hạc, nên mới đặt tên
cái làng ở bờ sông ấy là xã Nhuệ Giang. Nhân thế cũng gọi tên sông là Nhuệ Giang.
Lại còn có tên nữa là Thanh Oai Giang, nên quanh vùng sông ấy gọi là Uy Lộ;
Thanh Oai huyện, tả hữu thượng hạ Thanh Oai xã, cũng đều bởi thế cả. Lại như kinh
thành khi xưa có phường Giang Khẩu, sau đổi thành Hà Khẩu tiếp giáp bờ sông
Nhị, liền với cái ngòi sông Nhị chảy vào sông Tô, hàng năm, bờ sông bị nước xói,
không thể giữ cho khỏi lở được. Đời Lê trung hưng mới đạc suốt dọc bến phường Hà
Khẩu, để cho Hoa kiều trú ngụ. Các hiệu khách liền làm đơn xin tải đá làm mỏ hàn
chắn phía thượng lưu, từ bấy giờ mới bớt nạn nước xói lở. Ven sông, về phía nam,
dần dần nổi bãi phù sa, người đến tụ họp đông đúc. Bởi thế, những phường Thái
Cực, Đông Hà, Đông Các , nhà ở hai dãy phố xen liền mãi cho đến vạn Hàng Mắm,
vạn Hàng Bè, bến Tây Long, đều trở thành phố phường đô hội cả.[4]
Khu 36 phố phường đã lập nên ở nơi có nhiều ao hồ. đến cuối thế kỷ 19 thì các
đầm hồ đó bị lấp, nhưng vẫn còn để lại dấu tích qua các địa danh: Hà Khẩu, Giang
Khẩu, Cầu Gỗ, Cầu Đông. Khu này có sông Tô Lịch bọc ở phía Bắc, sông Hồng ở
phía Đông và hồ Hoàn Kiếm ở phía Nam. Khu vực chợ và nhà ở đầu tiên được đặt tại
nơi sông Tô Lịch và sông Hồng gặp nhau. Cửa sông Tô Lịch là bến cảng và có thể có
rất nhiều con kênh nhỏ nằm rải rác trong khu Phố Cổ.
Cuối thời Lê, sông Hồng, sông Tô Lịch, cùng các hồ lớn ở phía Đông và phía
Nam Thăng Long vẫn thông với nhau bởi các con kinh. không chỉ là đường giao
thông thủy quan trọng mà tại các bến sông, hồ còn là nơi tập trung dân cư đông đúc,
họ vừa sản xuất hàng hóa vừa buôn bán.
Đầu thế kỷ XVII ở Thăng Long bắt đầu có người Tây phương đến cư trú và
buôn bán. Đông nhất là người Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Anh, dần dần là người Tây Ban
Nha, Pháp... Những công ty thương mại Hoà Lan và Anh đã lập thương điếm tại bờ
sông Hồng. Các tiệm buôn Trung Quốc, Nhật Bản cũng xuất hiện nhiều.Nhờ có hệ
thống sông ngòi thuận tiện nên quan hệ kinh tế giữa Thăng Long với các địa phương
ngày càng chặt chẽ. Thuyền buôn từ Thanh Hóa - Nghệ An và Đàng Trong, cũng như
thuyền buôn từ mạn ngược về kinh thành luôn nhộn nhịp. Thương gia S.Baron có cửa
hiệu ở Thăng Long khoảng cuối thế kỷ XVII nhận xét về sông Hồng như sau: “Đối
với kinh thành sông này cực kỳ thuận lợi: Tất cả các thứ hàng hóa đều đem tới đây,
đây là nơi thâu tóm mọi hoạt động trong nước với một số lượng thuyền bè vô tận, đi
đi lại lại khắp nước để buôn bán”. Sông Tô Lịch cũng tấp nập thuyền bè ra vào.
Phường Hà Khẩu (phố Hàng Buồm hiện nay) ở ngã ba sông Tô, sông Hồng tập trung
nhiều hiệu buôn của người ngoại quốc.
Có thể nói, 36 phố phường của Thăng Long thời kỳ này thương mại phát triển,
tựa như một cái chợ lớn,nên Thăng Long thời Lê-Trịnh được người phương Tây gọi
là Kẻ Chợ.
Alexandre de Rhodes có giải thích là tên Kẻ Chợ là những người ở trong chợ.
nghĩa là những người ở Đông Kinh, còn theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì Kẻ
Chợ chỉ nơi tập trung dân cư ở Đông Kinh, phân biệt với Hoàng thành là nơi các vua
quan ở.
Thương mãi phát triễn thì dân số tăng lên. Theo Alexandre de Rhodes thỉ dân
cư Thăng Long đầu thế kỷ XVII có thể đến 1 triệu người , còn thương gia W.Dampier
thì Kẻ Chợ ước chừng 20.000 nóc nhà.
Giáo sĩ Richard sống vào thế kỷ XIVII, trong sách Lịch sử thủ đô Hà Nội, đã
mô tả Kẻ Chợ : “Số lượng thuyền bè lớn lắm, đến nỗi rất khó mà lội được xuống bờ
sông: những sông, những bến buôn bán sầm uất nhất của chúng ta , ngay thành phố
Venise nữa với tất cả những thuyền lớn thuyền nhỏ của nó cũng không thể đem đến
cho người ta được một ý niệm về sự hoạt động buôn bán về dân số trên sông Kẻ
Chợ”.
Các thợ thủ công của từng ngành nghề thường cùng quê, lập thành nơi buôn
bán gọi là phường. Kẻ Chợ đã có đến 61 phường thành lập vào thời nhà Lý. phố cổ
đã có nhiều phường.
Trong một số sách như : Các tổng, trấn, xã danh bị lãm, Hoàng Việt dư địa
chí…có kể tên của 36 phường như ở huyện Thọ Xương có 18 phường gồm: Yên Thọ,
Hà Khẩu, Báo Thiên, Đông Hà, Đồng Xuân, Đông Tác, Đông Các, Cổ Vũ, Xã Đàn,
Đồng Lạc, Thái Cực, Diên Hưng, Khúc Phố, Phục Cổ, Phúc Lâm, Kim Hoa, Hồng
Mai, An Xá.
Mười tám phường khác thuộc huyện Vĩnh Thuận là: Bích Câu, Quảng Bá,
Thuỵ Chương, Yên Thái, Hoè Nhai, Tây Hồ, Nghi Tàm, Nhật Chiêu, Trích Sài, Võng
Thị, Bái Ấn, Yên Lãng, Công Bộ, Thạch Khối, Hồ Khẩu, Thịnh Quang, Yên Hoa và
Quan Trạm.
Theo kinh tế thì phố là chỗ bán hàng , cửa hàng, cửa hiệu.Tên phố là tên
phường nghề, tên của các sản phẩm bày bán...Trong sách Lịch sử Hà Nội sử gia
Philippe Papin,đã viết: danh từ phố theo chữ Nôm là nơi mua bán, là khu dân cư tập
trung quanh khu vực bến thuyền. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc thì phố có
nghĩa là chỗ bán hàng và phố có thể là một nhà bày bán hàng. Dần dần phố có nghĩa
là nơi có nhiều cửa hàng.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi lập ra nhà Nguyễn, định đô ở Phú Xuân,
Thăng Long không còn là Kinh đô nữa. Lúc này các thương cảng lớn như Phố Hiến,
Vân Đồn không còn, vì thế mà Kẻ Chợ vẫn giữ được vị trí quan trọng trong kinh tế.
Thương nhân và thợ thủ công sống rải rác trong tất cả các phố phường. Phố
giàu có như Mã Mây tập trung khá nhiều nhà buôn lớn, nhất là thương nhân Hoa
Kiều. Đường xá ở đây được lát sạch sẽ.
Các phố được ngăn với nhau bởi những chiếc cổng lớn xây như bức tường mà
bề rộng chiếm cả mặt đường, ban đêm được đóng một cách nghiêm ngặt. Bên trong
khu phố cổ còn có các cổng ngăn cách giữa các phố với nhau, được bác sĩ Hocquard
mô tả chi tiết: “Các khu phố khác nhau của Hà Nội hoàn toàn được tách rời bởi
những cánh cổng lớn. Những cổng này rộng bằng cả bề ngang của phố và người ta
đóng lại vào ban đêm. Trên mỗi cánh cổng có dán những quy định về an ninh của
thành phố và những tờ sức của Tổng đốc”.
Hầu hết các cánh cổng của khu phố cổ ở Hà Nội đều “có một kiểu đóng rất độc
đáo”, như theo mô tả của bác sĩ Hocquard: một bức tường bằng đá được xây ngang từ
bên này sang bên kia của con phố, bức tường đó được đục thủng một cánh cửa lớn
hình chữ nhật được giới hạn bởi một cái khung chắc chắn bằng gỗ, tạo nên bởi 4 cây
gỗ đẽo nhẵn. Hai cây gỗ phía trên và phía dưới được khoan những lỗ cách nhau đều
đặn, chúng được lắp vào ở hai đầu một loạt các cây gỗ lớn tròn đặt song song với
nhau. Các lỗ ở bên trên rất sâu, đến mức người ta có thể mỗi lần nâng cao lên đủ vừa
cho người ta tháo cây gỗ ra khỏi lỗ phía dưới để cho việc đi lại qua cửa được dễ dàng.
Hệ thống này cho phép lúc thì mở rộng cánh cửa bằng cách tháo tất cả các cây gỗ,
hoặc chỉ để vừa một chỗ qua lại hẹp, đơn giản bằng cách tháo ra một hoặc hai cây
gỗ.
Theo tài liệu cổ vào thế kỷ XVII-XIX, ở các khu phố của người Hoa , lòng
đường đều được lát đá hoa lớn, còn các con phố trong khu người Việt thì không được
lát đá, không có vỉa hè và đầy bùn mỗi khi có mưa xuống, rất khó khăn trong việc đi
lại.Nhà cửa ở Hà Nội xưa đều lợp bằng tranh, thấp, gian trước thường để bán hàng,
có tấm phên cột chặt ở bên trên ban ngày thì chống lên bằng hai cây sào, ban đêm lại
chụp xuống. Cũng vì toàn nhà lá, dùng đèn dầu nên thường xuyên xảy ra hoả hoạn.
Trong mỗi phố là những dãy nhà san sát làm theo kiểu chồng hộp quẹt mà hiện
nay người ta còn thấy ở các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Hàng Ngang, Hàng Đào...
Các dãy nhà này vừa là nhà ở lại vừa là cửa hiệu, tất cả các loại hàng khác nhau đều
được bán và mỗi phố bán một loại hàng riêng, hoàn toàn theo kiểu các hãng lớn hay
các hội phường phương tây.
Năm Tân Mão (1831) vua Minh Mạng thi hành cuộc cải cách , trong đó có việc
phân chia và đặt tên mới theo địa giới hành chính cấp tỉnh; lúc này Thăng Long xưa
được sáp nhập với một số khu vực khác thành tỉnh Hà Nội với diện tích rộng hơn,
gồm 4 phủ, 15 huyện so với Thăng Long xưa,và có 239 phường, thôn, trại, thời Tự
Đức có 153 phường, thôn, trại.Số phường có thay đổi theo thời nhưng tên g̣ oi 36 phố
phường từ thời nhà Lê vẫn còn tồn tại ngày nay
Trong số 15 huyện của Hà Nội thời Minh Mạng,vẫn có 2 huyện Thọ Xương và
Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức, 36 phố phường đều nằm trong địa phận hai huyện
này. Sách “Hoàng Việt dư địa chí” in vào năm Quý Tỵ (1833) cho biết như sau: “Phủ
Hoài Đức, xưa là phủ Phụng Thiên có hai huyện, 13 tổng, 249 thôn phường. Huyện
Thọ Xương: 18 phường. Huyện Vĩnh Thuận (xưa là huyện Quảng Đức): 18 phường”.
Vào cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX việc đô thị hóa phát triễn nhanh.
Khu phố cổ được mở rộng tập trung theo hướng trung tâm của khu phố. Các ao, hồ,
đầm, dần dần bị lấp kín để lấy đất xây dựng.
Đặc điểm chung của các phố cổ Hà Nội là nhiều tên phố bắt đầu bằng từ Hàng,
tiếp đó là một từ chỉ một nghề nghiệp nào đó như: Hàng Đào, Hàng Đường, Hàng
Mã, Hàng Thiếc...Đến giữa thế kỷ 17, các phố có tên Hàng xuất hiện như Hàng Cót,
Hàng Hòm, Hàng Chiếu, Hàng Mã, Hàng Gà. Một người phương Tây là Filippo de
Marini từng đến Thăng Long thời gian này có viết: “Ở đầu mỗi phố đều treo một tấm
biển gỗ trên đó có ghi tên mặt hàng”.
Từ đời Lê , nhiều người Trung Quốc được phép cư trú ở Thăng Long từ thế kỷ
XV, họ đến buôn bán ở phố Hàng Ngang (tên này đặt ra vì ở hai đầu phố có hai cái
cổng chắn ngang đường, tối đến đóng lại).
Như tên gọi Hàng Đường có rất nhiều cửa hàng bán đường, mứt, bánh, kẹo. Sát
với chợ Đồng Xuân là phố Hàng Mã - chuyên bán các mặt hàng truyền thống làm từ
các loại giấy màu.
Từ đầu phố Hàng Mã đi thẳng sang phố Hàng Chiếu (nơi bán chiếu, thảm bằng
cói) là đến Ô Quan Chưởng (cửa Đông Hà) di tích khá nguyên vẹn của một trong 36
phố phường Thăng Long xưa hay phố nghề rất điển hình: Hàng Thiếc.
Ký giả Pháp Paul Bourne đến Hà nội năm 1884 có miêu tả về phố cổ như sau:
...Khu này rất đông đúc, mặt trước các căn nhà chật hẹp san sát...Các cánh cổng vĩ
đại ở đều và cuối phố với các câu chữ Hán như:Dân chúng được yên ổn trong phố
này...Nếu phố được yên ổn thì không cần đóng cổng lại.
...Các cửa hàng thường do thương nhân nắm giữ, họ ngồi xổm trên chiếu trước
cửa hàng nhai trầu chờ khách. Khách hàng cũng ngồi trên chiếu bên cạnh chủ cùng
nhau khảo sát hai ba hòm hàng bán.Chủ sai thằng ở mời trầu khách và cùng nhau
thong thả chuyện trò , thương lượng.
...Thợ thủ công, thương nhân làm việc trước cửa hiệu,họ bào,dũa,cưa,cắt,đục,đập
búa,vẽ,sơn, thêu,dệt...dưới cái nhìn của công chúng. Xưỡng làm việc lớn như cái hộp,
một người Âu châu dang hai tay có thể làm bay các tường ngăn.Các thợ dẻo dai, nhẹ
hơn, cùng ngồi trên chiếu làm việc không khó khăn. Từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều cả
phố là một xưỡng và cửa hàng mênh mông...các gánh hàng rong rao bánh,kẹo. Cu li
đi lại không ngừng...[5]
Mỗi nghề còn giữ lại trên tên phố Hà Nội nay đã qua bao thay đổi, đến nay đã
có hơn sáu mươi phố bắt đầu bằng chữ Hàng như Hàng Đào, Hàng Tre, Hàng Sắt,
Hàng Mành, Hàng Bún, Hàng Bè... một số phố nghề ở khu phố cổ vẫn còn giữ
được sản phẩm truyền thống như phố Hàng Mã, Hàng Tre,Hàng Chiếu, Hàng Thiếc.
Tuy nhiên có nhiều phố trong khu này không mang tên có chữ hàng như: Bát
Đàn, Bát Sứ, Cầu Đông, Cầu Gỗ, Chả Cá, Chợ Gạo, Đương Thành ,Gầm Cầu, Gia
Ngư...
Bây giờ nhiều phố không giữ nghề, không sản xuất thứ hàng như tên gọi
xưa ,nhưng cũng chuyên bán một loại hàng hóa , như phố Hàng Hòm không sản xuất
Hòm nữa. phố hàng Khoai không bán khoai nữa,mà bán bát đĩa, phố Hàng Đường
nổi danh với Ô mai, phố Hàng Gà thì in thiệp cưới, phố Hàng Quạt bán đồ thờ, phố
Mã Mây chuyên dịch vụ du lịch…
Một vài phố còn giữ được mặt hàng truyền thống: Lãn Ông bán thuốc bắc
thuốc nam, Hàng Ngang Hàng Đào bán tơ lụa, quần áo may sẵn. Hàng Trống vẫn
nhiều thợ may. Mấy hàng bánh kẹo, ô mai nổi tiếng cách đây nửa thế kỷ ở Hàng
Đường lấy lại bảng hiệu cũ, đông khách.
Một số phố trở thành thương mãi chuyên môn : Lương Văn Can - phố đồ chơi ;
Thuốc Bắc - phố hàng sắt ; Bà Triệu - phố xe đạp ngoại ; Nam Đồng, Hàng Bột - phố
điện máy ; Hàng Buồm - phố bia rượu, đồ hộp và bánh kẹo ngoại ; Hàng Giầy - phố
thuốc lá ; phố Huế - phố phụ tùng xe máy xe đạp ; Phùng Hưng, Hàng Khoai, phố đồ
điện gia dụng.
Ngày nay,nhiều phố đã được đổi tên mới như phố Hàng Cỏ ( phố Trần Hưng
Đạo ), Hàng Đẫy (Nguyễn Thái Học), Hàng Giò (Bà Triệu ), Hàng Lọng (Đường
Nam bộ ,Lê Duẩn), Hàng Nâu (Trần Nhật Duật), Hàng Kèn (Quang Trung), Hàng Bột
(Tôn Đức Thắng)…
Giáo sư Dương Quảng Hàm có ghi lại ca dao về 36 phố phường như sau:
Rủ nhau chơi khắp Long Thành,
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai;
Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai,
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay,
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy,
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Ngang,
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng,
Hàng Muối, Hàng Nón, cầu Đông,
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè,
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre,
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà.
Quanh đi đến phố Hàng Da,
Trải xem Hàng phố, thật là cũng xinh.
Phố hoa thứ nhất Long Thành,
Phố dăng mắc cửi, đàn quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ,
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền”.[6]
36 phố phường Hà Nội đã được nói đến trong đoạn thơ trên một cách đầy đủ.
và còn phản ánh sự sầm uất, náo nhiệt và nên thơ của khu phố cổ ngày xưa.
Bản đồ Việt năm 1873 thời Tự Đức cho thấy sự kiến trúc cùa khu phố Cổ đã
thành hình trước khi người Pháp quy hoạch và xây dựng Hà Nội. Đại đa số các đường
phố không thẳng, vì xưa là những đường làng bằng đất và dần dần được lát gạch
nung theo đô thị hóa.Một vài ô phố đã có nhà vừa ở vừa buôn bán xây kín, trong khi
đó một số ô phố khác hãy còn diện tích trống, dạng ao hoặc sân trong. Hầu hết các ô
phố này đã được chia thành các lô đất dài và hẹp chạy dọc theo đường, nhà ở dạng
cửa hàng rất phổ biến và thông thường được xây cất hai tầng. Nhà vườn phân bố rải
rác dọc bờ sông và nằm phía ngoài các tuyến phố buôn bán tấp nập. Các công trình
tín ngưỡng như chùa chiền và đền phủ miếu được xây dựng khắp nơi trong Khu phố
Cổ. Tại đây cũng có một cộng đồng người Hoa sinh sống và buôn bán với người Việt.
Trước khi người Pháp sang, đường phố Việt Nam có chiều rộng khoảng 3m,
hai bên là những ngôi nhà, sử dụng để ở, để buôn bán hoặc sản xuất thủ công (làm
hàng gỗ, khảm...). Đây là kiểu nhà tượng trưng ở thế kỷ 19, nhà một tầng mái tranh
xen lẫn nhà gạch mái ngói, với chiều rộng khá hạn chế, thường không quá 3 - 4m, có
mặt bằng hình ống, phát triển theo bề sâu và có sân trong. Đặc biệt là ở phía đông của
phố có cổng, nằm ở vòng ngoài Thành Hà Nội, có hào sâu và xây cầu dẫn.
Tất cả những phố dạng này không còn nữa, bởi từ tháng 10 năm 1886 đã xây
thành các phố rộng đến 18m, mặt đường rải nhựa, hai bên phố là cửa hàng buôn bán,
là một số khách sạn đầu tiên của người Âu châu ở Hà Nội.
Trong thời này,Hà Nội chỉ có chợ lộ thiên, cũng không có nơi chỉ định để họp.
Cứ sáu ngày lại có một phiên chợ Hà Nội. Lái buôn và thợ thủ công đủ các loại từ
các làng mạc xung quanh kéo tới. Những người bán tơ lụa tới phố Hàng Đào, những
người làm cuốc xẻng tới phố Hàng Đồng, những người làm mũ tới phố Hàng Mũ,
tóm lại, thợ gì thì tới phố dành cho thợ ấy.Cả thành phố biến thành một cái chợ mênh
mông trong đó người ta đi lại, dạo chơi, chuyện trò,số người gấp bội số ngày thường
vốn đã đông như kiến. Việc họp chợ chẳng tốn kém gì, chỉ cần thời tiết tốt.
Những người nông dân bày bán hàng hóa của mình trong chiếc khăn vải hoặc
trong rổ, hoặc ngay trên mặt đất nếu hàng không sợ hư hỏng. Ngày xưa, mặt phố tràn
ngập người.
Khi có quan trẳy thì cảnh tương khác khẳn như Labarthe, ghi chép về chợ Hà
Nội trong thời kỳ lãnh sự như sau: “Đột nhiên ở đầu phố, theo bước chân chạy đều
của hai lính mặc quần áo đỏ và trong tiếng trống, người ta thấy dãn ra một lối đi.
Ngay lập tức mọi tiếng động ngừng hẳn. Những người bán hoa quả, thịt lợn, hàng
khô, thuốc tễ, đồ gốm, hàng cá... cùng với hàng hóa biến mất như có phép lạ. Mọi
người chen nhau vào những nhà xung quanh. Những người không tìm được chỗ thì
quỳ rạp xuống, hai tay chắp lại, đầu cúi gằm. Tất cả thể hiện sự khiếp sợ cùng cực.
Viên quan uể oải nằm dài trên võng theo bước chân chạy đều của phu khiêng.
Người ta có thể thấy trên nét mặt ông ta sự ủ ê buồn phiền, một vẻ mặt vờ vịt và che
giấu dường như tính cách riêng của những người cầm quyền. Viên quan đi qua rồi,
chợ trở lại bình thường’’.
Sau khi người Pháp chiếm Hà Nội, quy hoạch Hà Nội bắt đầu có sự thay đổi.
Công sứ Bonnal viết về khu phố cổ trong sách Au Tonkin- notes et souvenirs 1883-
1885 thì: "Phố rất hẹp, họ chỉ lát gạch rộng chừng 1m ở giữa đường và gạch thì bị
vỡ hoặc xô lệch. Hai bên là bùn bốc mùi hôi thối vì nước thải không có chỗ tiêu
thoát. Mỗi khi có kiệu hay người cưỡi ngựa qua, người đi bộ phải lội xuống bùn lầy
để tránh, có chỗ bùn sâu tới 30cm".
Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ đã ra lệnh cho trưởng phố dỡ bỏ những chái nhà lấn
chiếm và buộc các nhà buôn phải thu hẹp mái hiên và giá để hàng. Còn Jordany, ủy
viên Cảnh sát trưởng thành phố sử dụng tù nhân lấy gạch ngói vỡ ở các phố bị quân
Cờ đen đốt phá để san bằng các con đường, đào rãnh thoát nước. Thời kỳ này phố
trưởng ở một vài phố tự động cho treo biển tên phố bằng chữ Hán để thuận tiện cho
việc buôn bán.
Từ năm 1884, các phố Tràng Tiền và Hàng Khay đã trở thành một trục của
trung tâm buôn bán, mở đầu thời kỳ xây dựng khu phố Pháp ở Hà Nội.
Trong giai đoạn 1890-1902, khu phố Cổ bắt đầu thay đổi, một số đường phố
sửa thẳng lại thành những trục chính Đường phố có hệ thống thoát nước, có hè phố,
đường được rải nhựa và có hệ thống chiếu sáng, nhà cửa hai bên đường phố được xây
gạch lợp ngói. Bên cạnh những nhà cổ mái ngói xuất hiện các ngôi nhà có mặt tiền
được làm theo kiểu cách Châu Âu. Khu phố cổ hiện nay được thiết kế và quy hoạch
theo phong cách kiến trúc Pháp với mạng lưới đường hình bàn cờ. Đến thời thuộc
Pháp, các đầm và hồ được lấp lại, các khu phố được chỉnh trang.
Trong vòng 30 năm đầu tiên của thời kỳ thuộc địa (1885 – 1914), người Pháp
đã có những đóng góp quan trọng trong việc giữ gìn Khu phố Cổ: hu này vẫn còn
giữ trong trạng thái nguyên vẹn thời xưa. Nhưng nhiều di tích lịch sử ở các khu
chung quanh, một phần Hoàng Thành đã bị phá đi để xây dựng hai khu phố Pháp ở
phía Tây và ở phía Nam khu phố Cổ. Khu phố Cổ được cải thiện và phù hợp với số
lượng cư dân tăng lên.Trên các lô đất còn trống, hoặc tại những vị trí mà nhà ống
truyền thống đã mục nát đổ sụp, các nhà phố kinh doanh được được xây dựng theo
kiểu kiến trúc thuộc địa. Các nhà phố Pháp này tương tự nhà ống về mặt cấu trúc và
chức năng, chỉ khác biệt ở thiết kế mặt đứng và chi tiết trang trí, góp phần tạo nên sự
đa dạng về mặt hình khối và phong cách kiến trúc trong khu phố cổ. Với các lô đất có
chiều ngang 6 m, mặt tiền nhà kiểu kiến trúc thuộc địa được phân vị làm đôi, nhằm
làm ngôi nhà hòa hợp với nhịp điệu của cả tuyến phố.
Để đề phòng hỏa hoạn, tất cả các nhà ống và nhà phố kiểu thuộc địa được xây
dựng bằng các vật liệu không cháy như tường gạch, sàn hoặc nền bê tông và mái lợp
ngói. Trước đó, hỏa hoạn thường xảy ra với nhà lá trong khu vực.
Ở trong khu phố này,người Pháp đã thành lập nhà in đầu tiên (ở phố Hàng
Bông), trường học đầu tiên (ở phố Hàng Bè, sau đó ở phố Hàng Bồ). Các nhà buôn
lớn đều ở khu này vì gần bến tàu hàng.
Năm 1888 các chợ có mái bắt đầu được xây ở phố Hàng Tre (nay không còn),
phố Hàng Gạo (nay là chợ Đồng Xuân), phố Đường Thành (nay là chợ Hàng Da) và
đại lộ Đồng Khánh (tại đầu phố Hàng Bài, nay không còn)., cùng với các rạp chiếu
phim và nhà hát, chủ yếu dành cho người Pháp cùng với một số người Việt sống lối
Tây phương.
Ngày nay di sản kiến trúc nhà ở cổ truyền khu phố cổ Hà Nội là những "ngôi
nhà hình ống”, thấp, mặt tiền hẹp, chiều dọc lớn. Đó là di sản kiến trúc của thời xưa
mà theo quy định của các vua quan thì “nhà dân không được xây cao hơn chiều cao
của kiệu vua đi”; cũng do hoàn cảnh “phố phường chật hẹp, người đông đúc”, phải
dành mặt tiền cho thật nhiều cửa hàng san sát còn phía trong, ngôi nhà phát triển
theo chiều sâu để lần lượt từng ngăn làm nơi sản xuất, ăn ở, sinh hoạt của mỗi gia
đình.Những ngôi nhà ống như thế làm thành những dãy phố ven theo những con
đường đất, thỉnh thoảng cũng được lát đá hoặc gạch, chỉ đến thời cận đại mới trải
nhựa.
Tên gọi nhà ống là do kích thước khác thường, chiều dài đạt tới 40 đến 50 m ( đôi khi
lên đến 60 m) chạy sâu vào bên trong ô phố và chiều rộng thông thường chỉ từ 3 đến 4 m
(tối đa là 6 m). Đa số các ngôi nhà nguyên bản được xây hai tầng. Tầng một có chiều cao
khoảng 3 m, còn tầng trên cao tối đa 2,5 m. Một căn nhà điển hình thông thường được chia
thành ba đến bốn khối, phân tách nhau bằng hai đến ba sân trong.
Tầng dưới có nhiều phòng dùng như sau: Phòng ngoài là cửa hàng, không làm
tường vách mà mở thông ra phố để bày hàng, tiếp theo với một gian kho , một sân trong
được sử dụng làm xưởng gia công, một phòng khách ở giữa nhà, một sân trong nữa là chỗ
cho trẻ con vui chơi, một phòng ăn và nhà bếp, rồi đến một khoảng mở để giặt và phơi quần
áo, cuối cùng là một phòng tắm và một nhà vệ sinh.Giữa các lớp nhà có khoảng sân bày
chậu cảnh, tạo không gian trong lành, mang lại cảm giác gần gũi với thiên nhiên.
Tầng trên có hai đến ba phòng ngủ cho các người trong gia đình. Ở tầng trên của khối
nhà đầu tiên phía trước, phòng ngủ thường đặt dịch ra phía sau so với gian bán hàng dưới
tầng một. Cửa sổ của tầng trên chỉ được trổ khá nhỏ và không cao hơn phần đỉnh lọng che
đầu của viên quan khi đi ngựa dọc theo tuyến phố
Các phòng thông nhau bằng cách xuyên phòng, tận dụng khoảng trống để kê
đồ sát một mặt tường dọc làm lối đi. Nhu cầu người dân lúc đó còn đơn giản, họ chưa
cần những khoảng không gian riêng như ngày nay, vì vậy việc xuyên suốt từ không
gian phòng này sang phòng khác là đặc điểm của các nhà ống trong khu 36 phố
phường.
Di sản kiến trúc nhà xưa còn tồn tại ở phố cổ là ngôi nhà số 87 phố Mã Mây
được xây dựng vào đầu thế kỷ XIX theo kiểu kiến trúc truyền thống Việt Nam với
dùng để ở và bán hàng. Chủ nhà này trước năm 1945 ở đây và bán hàng gạo, sau đó
năm 1945 đã bán lại cho một gia đình người Hoa ở và bán thuốc Bắc. Năm 1954, gia
đình người Hoa di cư vào Nam, để lại ngôi nhà dưới sự quản lý của nhà nước. Năm
1954, Sở Nhà đất đã cho 5 gia đình đến sinh sống tại ngôi nhà này.
Cách kiến trúc, vật liệu xây dựng hoàn toàn bằng gỗ cho đến những vật dụng
sinh sống đều được giữ nguyên tình trạng xưa.
Hiện nay cỏn có những kiến trúc cỗ với mặt tiền chật hẹp chỉ vưà một người đi
vào như đền Hàng Bạc số 102 ở trong một con ngõ chật hẹp, rộng chưa đến 1m.
Hiện nay, là kiểu mẫu của ngôi nhà truyền thống trong khu Phố cổ Hà Nội
được bảo quản, dưới sự quản lý của UBND thành phố Hà Nội và được xếp hạng Di
sản quốc gia ngày 16/02/2004.
Đến năm 1990, khu này được gọi là khu phố cổ.nơi đăy không chỉ đã từng là
một trung tâm kinh tế mà còn là một trung tâm văn hoá đa dạng: văn hoá ẩm thực
phong phú với nhiều cửa hàng ăn uống nổi tiếng, văn hoá nghệ thuật tiêu biểu của các
đoàn Quảng Lạc, Chuông Vàng, Kim Chung, Kinh Phụng; hoạt động sôi nổi của các
rạp chiếu phim. Ở đây còn có các trụ sở làm việc của toà soạn các báo trong thời kỳ
Cận đại, như Trung Bắc tân văn, Hà thành Ngọ báo, Phong hoá, Tiểu thuyết thứ năm,
Tiểu thuyết thứ bảy, Tin tức Đảng Cộng sản Đông Dương, Nhà xuất bản Tân Dân, trụ
sở Hội truyền bá Quốc ngữ, Hội Khai trí tiến đức…
Năm 2004 có hơn 15.270 gia đình với hơn 66000 người sống trong khu phố
cổ. Trong đó có 14,9% sống ở đây từ trước năm 1950 và trung bình có 5,52 hộ gia
đình chung sống trong một số nhà. Cùng với dân cư đông đúc là sự xuống cấp của
nhiều ngôi nhà. Có tới 63,1% số nhà xuống cấp, 11,7% số nhà hư hỏng và 78 ngôi
nhà không đủ điều kiện sống. Nhà ở chật chội, cũ nát, môi trường bị ô nhiễm nặng.
Nhiều biệt thự, nhà cổ dựng lên từ đời Pháp thuộc không được trùng tu, sửa chữa nên
có thể đổ sập bất cứ lúc nào,nhưng vẫn có rất nhiều người đang cư trú ở đây hoặc làm
nơi buôn bán. Những nhà mặt phố diện tích 18-20 m2 không nhiều, chỉ độ vài chục
cái, phần lớn là những cửa hàng mua đi, bán lại, cho thuê với diện tích 7-8 m2. Số
người có tiền mua nhà ở khu phố cổ, đập đi xây khách sạn hay phá nhà cổ, xây nhà
bằng bê-tông tăng dần.
Nơi đây vẫn là nơi sầm uất của thủ đô với 453 doanh nghiệp, 419 chi nhánh,
cửa hàng, 5.243 hộ kinh tế , 294 hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp và 4.949 hộ kinh
doanh thương mại, dịch vụ.
Hà Nội đang có đồ án quy hoạch phân khu đô thị tại 4 quận Hoàn Kiếm, Ba
Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng.
Phố cổ Hà Nội về đêm trở nên rất sống động, nhất là vào những ngày cuối
tuần. Chỉ cần rảo bước trên các đường đi bộ, người ta sẽ thấy cuộc sống nhộn nhịp:
gia đình dắt trẻ nhỏ đi dạo, những nhóm bạn thi tài nhảy múa, du khách dạo phố,
chuyện trò...Mặt khác khách có thể thưởng thức ẩm thực phố cổ Hà Nội với phong
phú , đâu đâu cũng thấy hàng quán, từ vỉa hè đến hàng quán sang trọng. Những quán
cà phê cóc, bia vỉa hè, các hàng lẩu, đồ nướng, bún miến, cháo phở, và đủ các món ăn
vặt... xen nhau, tràn cả xuống đường phố.
Phố Tạ Hiện là khu phố đêm náo nhiệt nhất ở Hà Nộì , là phố đi bộ nối dài từ
Tạ Hiện-Lương Ngọc Quyến - Hàng Bạc thông sang Hàng Ngang -Hàng Đào,phố
quen gọi ngõ Quảng Lạc bởi ở giữa phố lcó rạp hát nổi tiếng là Rạp hát Quảng
Lạc.Phố nổi tiếng là phố bia.Giới trẻ Hà Nội ngày nay mê ngồi trà đá trên phố Tạ
Hiện, Lương Ngọc Quyến hay cà phê ở phố Mã Mây.
Vài món ẩm thực có tiếng như : chợ Đồng Xuân: thịt xiên nướng, cháo sườn
sụn, bún ốc, bún đậu mắm tôm, chè khoai dẻo...các hàng quán nổi tiếng ăn ngon như
phở gánh Hàng Chiếu, phở Bát Đàn, phở Lý Quốc Sư... Bún chả Hàng Mành.Kem
Tràng Tiền. Xôi chè bà Thìn,Bánh trôi tàu Hàng Bạc,chả cá Lã Vọng, đường Thành...
Khi các thành phố lên đèn thì nơi đây biến thành sân khấu ngoài trời cho các
nhóm nghệ sĩ tài năng biểu diễn, từ cổ truyền, dân gian, cho đến các tiết mục ca hát,
nhảy múa, hòa tấu nhạc đương đại...
Từ 1/10/2004 nhiều đường phố trong khu phố cổ được dành riêng cho bộ hành
và hoạt động vào các buổi tối thứ sáu, thứ bảy và chủ nhật hằng tuần
Nguồn gốc tên gọi Hà Nội 36 phố phường khó xác định rõ ràng,các sách sử
hay địa dư cổ không nói đến tên này. Hà Nội 36 phố phường không có trong lịch sử.
Hà Nội chỉ có 36 phường vào thời Lê và có hơn 50 phố bắt đầu bằng chữ “Hàng” ở
cuối thế kỷ 19.
Vào thập kỷ 1890 thế kỷ 19 đã có hai nhà thơ viết về Hà Nội 36 phố phường.
Bài 1 có đầu đề "Ba mươi sáu phố phường Hà Nội", tác giả khuyết danh, bài 2 có đầu
đề "Hà Nội 36 phố phường", tác giả Đặng Huy Thu.
Mỗi bài đều kể ra đủ tên 36 phố phường, có điều là tên phố trong hai bài khác
nhau khá nhiều và khoảng nửa số phố trong mỗi bài ta có thấy được tên trên bản đồ
Hà Nội năm 1890 do nhân viên Sở Lục lộ thành phố vẽ.
Sang thế kỷ 20, Trần Huy Bá có chép lại bài hát bản đồ Hà Nội trong sách
Đồng Khánh địa dư với đầu đề là "Hà Nội có 36 phố phường từ bao giờ?" song trong
bài không có tên phố nào mà chỉ có tên vài chục phường.
Tư liệu lịch sử tên các phố phường Hà Nội có thể tra cứu trong các sách dư địa
chí triều Nguyễn mà cuốn Đại Nam nhất thống chí do quốc sử quán triều Nguyễn
(đời Tự Đức) soạn và cuốn Đồng Khánh địa dư chí lược soạn vào đời Đồng Khánh
1886-1888 là đầy đủ hơn cả.
Sách Đại Nam nhất thống chí chép tên 21 phố, còn bản đồ Hà Nội trong sách
Đồng Khánh địa dư chí đã chép gần đủ tên 36 phường ở Hà Nội, không thấy chép tên
phố nào, nếu dùng cả sách Chuyến điBắc Kỳ năm Ất Hợi 1876 của Trương Vĩnh Ký
bổ sung thêm 2 phố thì cũng chỉ được 23 phố.
Vậy 36 phố mới tìm được 23 phố, còn 13 phố chỉ có thể tìm trong các tư liệu
của Pháp hay của người nước ngoài khác ghi chép để lại; tư liệu đó có thể là các bản
đồ, các bài báo, bài ký sự của các phóng viên, ký giả người nước ngoài.
Tất cả các tên phố khác, trước sau nếu trùng với tên phố đã liệt kê trước rồi đều
bỏ không dùng để tránh sự trùng lặp, chỉ dùng những phố mới không trùng với các
tên cũ.
Năm 1883, sau khi đánh chiếm xong thành Hà Nội,người Pháp đã cho sĩ quan
Lai Nay vẽ một bản đồ Hà Nội để có thể khai thác được tên phố mới, một bài báo
của một nhà báo Pháp thường trú ở Hà Nội năm 1883 đã mô tả lại các chợ phiên ở Hà
Nội, những người từ các vùng xung quanh đem hàng đến các phố Hàng Đồng, Hàng
Khoai, Hàng Nón bán hàng; trong ba phố đó thì phố Hàng Nón là phố mới không
trùng tên với các phố cũ.
Tên các phố ở Hà Nội bị cháy từ 1883-1888 do Claude Bourrin ghi lại đăng
trong sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ 20 - Nguyễn Văn Uẩn. Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội
của Trần Huy Liệu còn ghi thêm được tên ba phố mới không trùng tên với các phố
cũ(5). Những tư liệu trên giúp ta khai thác được tên 13 phố mới, cộng với 23 phố cũ
vừa đủ 36 phố:
1. Phố Hà Khẩu: Hàng Buồm (Đại Nam nhất thống chí);
2. Phố Việt Đông: Hàng Ngang (Phố Việt Đông, Trương Vĩnh Ký ghi là ph. Quảng
Đông, nên ghi chú là phố Hàng Ngang);
3. Phố Hàng Mã;
4. Phố Hàng Mắm;
5. Phố Báo Thiên: Hàng Trống (Phố Báo Thiên ở phường Báo Thiên .
6. Phố Nam Hoa: Hàng Bè;
7. Phố Hàng Bồ;
8. Phố Vàng Bạc: Hàng Bạc ( Đại Nam nhất thống chí ghi là phố Vàng Bạc);
9. Phố Hàng Giấy;
10. Phố Mã Mây;
11. Phố Đồng Lạc
12. Phố Thái Cực: Hàng Đào (Phố Đồng Lạc và phố Thái Cực sau này là phố Hàng
Đào;
13. Phố Đông Hà: Hàng Chiếu;
14. Phố Phúc Kiến: Lãn Ông;
15. Phường Phục Cổ: Nguyễn Du;
16. Phường Hàng Lam: phố Thợ Nhuộm
17. Phường Đồng Xuân;
18. Phường Thanh Hà;
19. Phường Hàng Gai;
20. Phường Hàng Đẫy;
21. Phường Hàng Chè;
22. Phường Hàng Muối (theo Trương Vĩnh Ký );
23. Phố Quảng Minh Đình,
24. Phố Hàng Đường,
25. Phố Hàng Mành;
26. Phố Hàng Hòm;
27. Phố Hàng Gà;
28. Phố Hàng Đồng;
29. Phố Hàng Nón ;
30. Phố Hàng Vai;
31. Phố Hàng Lược;
32. Phố Hàng Bông,
33. Phố Lò Sũ;
34. Phố Bắc Ninh (nay là phố Nguyễn Hữu Huân);
35. Phố Hàng Tre;
36. Sở Lục lộ: Hàng Vôi
Tất cả tên 36 phố kể trên đều thuộc huyện Thọ Xương (̀nay là quận Hoàn Kiếm
và quận Hai Bà Trưng hiện nay), không có một tên phố nào thuộc huyện Vĩnh Thuận.
Trên bản đồ huyện Thọ Xương (tỉnh Hà Nội trong sách Đồng Khánh địa dư chí
1886 đã ghi được tên 34 phường; nếu bổ sung tên phường Đồng Xuân và phường
Hòe Nhai ghi trong sách Tìm về cội nguồn thì vừa đủ 36 phường như sau:
1. Phường Nhật Chiêu; 2. Phường Trích Sài; 3. Phường Võng Thị; 4. Phường Yên
Thái; 5. Phường Hồ Khẩu; 6. Phường Thụy Chương; 7. Phường Bái Ân; 8. Phường Tây Hồ;
9. Phường Quảng Bá; 10. Phường Nghi Tàm; 11. Phường Yên Phụ; 12. Phường Thạch
Khối; 13. Phường Giai Cảnh; 14 Phường Vĩnh Hanh; 15. Phường Đông Hà;16. Phường
Đông Hà;17. Phường Diên Hưng; 18. Phường Ngư Võng; 19. Phường Hà Khẩu; 20. Phường
Đồng Lạc; 21. Phường Đại Lợi; 22. Phường Đông Tác 1: Hàng Bạc ;23. Phường Đông Tác
2: ở phía bắc hồ Bảy Mẫu (Phường Đông Tác 2: ở phía bắc hồ Bảy Mẫu, phía đông phố
Kim Liên và thôn Trung Phụng);24. Phường Thanh Hà; 25. Phường Hội Vũ; 26. Phường
Báo Thiên; 27. Phường Tự Pháp; 28. Phường Cổ Vũ; 29. Phường Kim Liên; 30. Phường
Phúc Lâm; 31. Phường Nhược Công; 32. Phường Thịnh Hào; 33. Phường Bạch Mai; 34.
Phường Phục Cổ; 35. Phường Đồng Xuân; 36. Phường Hòe Nhai .
Theo thống kê , khu 36 phố phường trước năm 1954 có 115 cơ sở tôn giáo tín
ngưỡng, tới nay hiện còn 54 ngôi đình, 6 chùa, 22 đền, 3 miếu, tổng cộng là 85 cơ sở
nằm trên khu vực gần 100 mẫu tây, mật độ các cơ sở tôn giáo tín ngưỡng ở khu phố
cổ thuộc loại cao. Nhiều cơ sở được khởi dựng từ thế kỷ XI cùng thời bắt đằu xây
dựng thành Thăng Long.
Các ngôi đình đã được Bộ Văn hoá thông tin xếp hạng: đình Thanh Hà (10Ngõ
Gạch), đình Yên Thái (8 ngõ Tạm Thương), đình Tú Thị (2A ngõ Yên Thái), đình
Thái Cam (44 Hàng Vải), đình Đức Môn (38 B Hàng Đường), đình Đồng Lạc (38
Hàng Đào).Một số đình khác đang chở xếp hạng như đình Lò Rèn, đình Trung Yên,
Đình Kim Ngân, đình Trương Thị…
Những khu chợ với đủ các mặt hàng , với lối mua bán đôi khi vẫn theo truyền
thống nói thách và mặc cả, như ở Chợ Đồng Xuân.
Ngày nay khu này có 76 phố, ngõ. Trên 50 phố và ngõ bắt đầu bằng chữ Hàng,
gồm có :
Hàng Bạc, Hàng Bài, Hàng Bè, Hàng Bồ, Hàng Bông, Hàng Bột (ngõ), Hàng
Buồm, Hàng Bún, Hàng Chai, Hàng Cháo, Hàng Chỉ (ngõ), Hàng Chiếu, Hàng
Chĩnh, Hàng Chuối, Hàng Cỏ (ngõ), Hàng Cót, Hàng Da, Hàng Dầu, Hàng Đào,
Hàng Đậu, Hàng Điếu, Hàng Đồng, Hàng Đường, Hàng Gà, Hàng Gai, Hàng Giày,
Hàng Giấy, Hàng Hành, Hàng Hòm, Hàng Hương, Hàng Khay, Hàng Khoai, Hàng
Lược, Hàng Mã, Hàng Mành, Hàng Mắm, Hàng Muối, Hàng Ngang, Hàng Nón,
Hàng Phèn, Hàng Quạt, Hàng Rươi, Hàng Than, Hàng Thiếc, Hàng Thùng, Hàng Thịt
(ngõ), Hàng Tre, Hàng Trống, Hàng Vải, Hàng Vôi.
Ngày nay Hà Nội không còn là thành phố xe đạp như xưa. Công chức đi xe gắn
máy đến sở làm, các bến giữ xe gắn máy hay mô tô choán cả lề đường gây khó khăn
cho bộ hành.
Khu phố cổ Hà Nội đã được Bộ Văn hoá và Thông tin xếp hạng di tích lịch sử -
văn hoá năm 2004.
Trải qua thời gian và biến đổi của lịch sử, phố phường Hà Nội xưa đã thay đổi
nhiều về tên gọi, nhưng một số phố phường vẫn giữ nguyên tên cũ như gợi nhắc
Thăng Long- Hà Nội thời xưa.
Tham khảo
[1]-Thạch Lam- Hà Nội 36 phố phường,nxb Văn Học
[2]̉-Nguyễn Trãi-Dư địa chí
[3]-Đại Việt sử ký tục biên
[4]- Phạm Đình Hổ -Vũ Trung tùy bút
[5]-Paul Bourne-Hanôi, nxb Magellan
[6]̉-Dương Quảng Hàm-Việt Nam thi văn hợp tuyển
[7]-Đồng Khánh địa dư chí 1886 .
Nguyễn Hoạt
=============