Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

nhà văn võ phiến [1925- 2015] :' văn chương 'lost memories'/ mất trí nhớ' / bài viết: lê thị huệ (gio-o.com)

võ phiến: 'văn chương mất trí nhớ' ...
source/ gio-o.com

                        nhà văn võ phiến :
            văn chương 'lost memories' ...
                                                           lê thị huệ


                                              (hàng sau, trái qua: 
                                                                             nữ văn sĩ Nhã Ca + Viễn Phố ( vợ Võ Phiến)
                                                                  (dưới : Võ Phiến  [i.e. Đoàn thế Nhơn 1925- 2015)
                                                                                           (ảnh: Internet)


-  ... tôi không biết; khi [võ phiến] gạt những tên người ra [khỏi] 'văn học miền nam ' có thể là sự trả thù lơi khơi --  trả thù là một trong những trạng thái vô thức của trí nhớ, của những 'stateless' ...

-   ... một người đã sáng tác, đã đánh đĩ với bi kịch; để tạo nên những bản viết -- giờ quay sang viết phê bình; mà, lại ôm đồm đòi phê bình to lớn, đến mấy nghìn trang sách trong một thời gian ngắn, võ phiến hơi bị quá chém chữ trong vai trò phê bình gia của bộ 'văn học miền nam ' ...

 -   ... võ phiến đã bỏ sót những tên tuổi trong bộ ''văn học miền nam' là lỗi của cơ quan 'the asia foundation' ( quỹ á châu- http://asiafoundation. org  của mỹ, trụ sở ở  new york), đã cấp tiền cho ông ta [võ phiến] viết bộ phê bình văn học này. ..


- ... đáng trách là:  võ phiến đã không bổ túc những thiếu sót, trong những lần tái bản sau --  vấn đề là, sách biên khảo phê bình cần sự chính xác ...      
        LÊ THỊ HUỆ


---
    Thời kỳ sau chiến tranh Quốc, Cộng; ở thủ phủ tỵ nạn Nam Cali, tờ Văn học nghệ thuật, do Võ Phiến thủ lĩnh, như ngọn cờ dương cao chính nghĩa văn chương hải ngoại.

     Văn chương hài ngoại.  Viết tiếng Việt.  Tiếng việt hải ngoại muôn năm! 

     Tôi [Lê thị Huệ] a-la-xô tiến lên đoàn hùng binh.  Viết cái chuyện Cánh hoa trước gió: bối cảnh, một phòng trọ ở đường số 4th DT San Jose.  Cô bán 'bar' Mỹ nhí nhảnh học ESL trên đường 5th Chúa Nhật , khu 'Japanese Town' , làm nguyên mẫu.  Tôi gửi cho tờ Văn học nghệ thuật của Võ Phiến, [vào] năm 1979.
    Võ Phiến đăng ngay.  Nhắn tin gấp.  Còn quảng cáo ngon lành trên tờ Văn học nghệ thuật.
    Nền văn chương hải ngoại ra đời trong tôi.
    Rồi; tôi nhận được 'cú' hẹn hò gặp gỡ ông [ta]. 

    Tôi gặp Võ Phiến và bà Viễn Phố ở nhà ông Trí Đăng, nhà xuất bản có bài sách đẹp ở sài gòn, khoảng thời gian trước 1975.  Lúc đó ông Trí Đăng tị nạn, vừa đến San Jose; cùng chung thành phố 'điện tử vàng ẹ', nơi tôi sinh sống.

     Lần khác, Nguyễn hữu Nghĩa,  đình đám tờ Làng văn  ở Toronto (Cannada) làm một số đặc biệt về Võ Phiến (1980) -- khi nghe tin nhà văn Võ Phiến mổ tim.  Lúc đó, tờ Làng văn thuộc loại nổ long trời hải ngoại; vì, tài làm báo giỏi giang cặp[đôi] Nguyễn hữu Nghĩa + Nguyên Hương.   Tác giả bản nhạc du ca bất hủ Anh sẽ về, viết thư kêu tôi viết giúp một bài về Võ Phiến --  thư Nguyễn hữu Nghĩa gửi tôi, cho biết -- đã hỏi Võ Phiến muốn mời những tác giả nào viết về ông ta -- thì; Võ Phiến kể tên 5 người:  Lê tất Điều - Võ Đình- Hồ Trường An - Lê thị Huệ .(một người nữa, tôi quên tên.) 
     Tôi không biết Nguyễn hữu Nghĩa nói thật hay không; [vậy] tôi đã viết gì trong số báo Làng văn ấy.
    
     Vào tháng 2/ 2001, Võ Phiến chủ động tìm cách liên lạc với tôi; sau chuyến tôi đi Việt nam cho 'Sabbatical Leave' ở Hà nội.  Ông [ta] nhờ nhà văn Nguyễn mộng Giác tìm địa chỉ nhà tôi; [rồi] gửi cho tôi một lá thư, hỏi thăm về kinh nghiệm ở Việt nam, ở thời điểm ấy.
     Tôi ngạc nhiên, và hơi áy náy.  Vì; giữa khoảng thời gian này, nọ; tôi không liên lạc.   Tính tôi ít [thích] liên lạc với mọi người.  Tôi trả lời thư ông [Võ Phiến] một cách thành thật ,và kính trọng đặc biệt. 

     Riêng tôi; đã chẳng đến thăm ông; trong quãng thời gian dài hơn 30 năm, ông ta  sống ở ngôi nhà 5621 Baltimore St., Los Angeles.
    
     Cuối trưa ngày 19/1o/2012; tôi ghé xuống Nam Cali thăm bạn bè. Tôi gọi điện thoại gặp được bà Viễn Phố, vợ ông [Võ Phiến] .

                                          nữ văn sĩ linh bảo (trái) +   viễn phố (vợ võ phiến)
                                                                        (chụp ở Cali 1994 / lê ngộ châu cung cấp ảnh)


     Bà làm tôi cảm động; khi nhắc lại cuộc gặp gỡ ở nhà ông Trí Đăng ở San Jose, lần đấu tiên ấy.  Bà Viễn Phố nói những điều: ngắn, linh hoạt, sắc sảo; và chứng nhận nhiều người nhận xét về bà. [Là] bà đứng sau, điều động sự nghiệp nhà văn Võ Phiến.

    Tôi nhắc bà lúc xưa : có dạo tôi bị nhà văn [nữ] Túy Hồng và Lai Hồng rủ làm báo Phụ nữ ngày nay ở Seattle, vào khoảng những năm 1980. Tôi soạn ra câu hỏi, muốn phỏng vấn bà Viễn Phố; chứ không phải phỏng vấn ông Võ Phiến.  Tôi tò mò về bà.  Nhưng bà tìm cách nói 'Không'

     Bà Viễn Phố trả lời mấy câu hỏi  của tôi qua điện thoại. 

     Rằng: việc in sách Quê hương tôi (2012) với tên Tràng Thiên, thay vì Võ Phiến -- bà [có] biết và đồng ý; để cho Nhã Nam [Việt nam] làm -- khi tôi hỏi 'tại sao bà không đề tên Võ Phiến', bà nói:  ' vì Việt nam không muốn đề tên Võ Phiến.  Ông Võ Phiến, lúc viết ở 'Bách khoa' có tên Tràng Thiên, Thu Thủy, Võ Phiến' . (...)

     Khi tôi hỏi tiếp bà Viễn Phố : có những thư gửi đến <gio-o.com>, nhờ hỏi nhà văn Võ Phiến một số điều ; thì bà trả lời thế nào ạ.

     Bà Viễn Phố nói:' bây giờ chúng tôi ở tuổi hạc. Nhà tôi bây giờ đã 'lost memories'; vậy nhờ cô [Lê thị Huệ] nói lại với các bạn trẻ, muốn tìm hiểu gì, xin các bạn tự tìm hiểu lấy.' 

     Bà Viễn Phố cho biết: 'toàn bộ các tác phẩm của nhà văn Võ Phiến đã được đưa vào di chúc, ủy thác lại cho một người con. [thời điểm này,ủy quyền cho thứ nam Đoàn thế Phúc, trước khi Thu Tứ 'tố khổ' cha.]' 

     Tôi nói [Lê thị Huệ] muốn đến thăm [Võ Phiến]; nhưng bà [vợ]'nói' không thuận tiện',
   ' Võ Phiến giờ đã 'lost memories'!

    Tôi trở lại Bắc Cali suốt buổi chiều , ngồi ở phi trường Long Beach- San Francisco, chờ chuyến bay 'Jet Blue'-- trễ 3 tiếng đồng hồ.  Tô ôm cái < gio-o.com> qua ghế này ghế khác nọ; muốn viết một cái gì về' Mất trí Nhớ' của nhà văn hải ngoại ' Người Việt đan xen' (hyphen) : ' A hyphen Vietnamese- American'.


                                                            ***

    Hội chứng 'Dementia' . Quên  được là một thứ 'thủ dâm tự sướng'. Về già; tôi mong sẽ lãng quên đời;  vì chứng 'Mất trí Nhớ.  Tôi mong chết đi trong bệnh ' Alzheimer'.

    'Lost Memories/ Mất trí Nhớ' là mối tò vò; và loại từng chữ lãng mạn. Và. Tuyệt!

    Tôi không thể thực hiện; nhưng tôi tưởng tượng được gặp nhân vật tiểu thuyết Võ Phiến; trong trạng thái của một kẻ mất trí nhớ. Và; tôi có thể ngồi ngắm nhìn ông ta pha một tách cà-phê, và viết hối hả, viết xối xả, về một cõi văn chương; mà, tôi gặp qua một chiếc lọc  'lịch sử Lớn'.  Tôi có cảm tưởng thích lại gần một 'nhân vật văn chương hải ngoại' mất trí nhớ' như ông [ta].

    Võ Phiến.  Tôi không biết ông gạt những tên người ra [khỏi] quyển'Văn học miền Nam '.  Có thể là sự trả thù lơi khơi.  Trả thù là một trạng thái vô thức của trí nhớ, của những người 'stateless'. Khi mà sức mạnh; kể cả vai vế 'lịch sử đã phát triển', bóp nát sự đau đớn của một 'cá nhân Nhỏ'

    Sự bị tước đoạt quê hương như thế này; thì cái lổ hổng nhớ nhớ, quên quên là cái bi kịch tất yếu; để trả thù' lịch sử tán ác', vứt quẳng 'cá nhân Nhỏ' ấy ra khỏi ' quê hương chào đời'. 

     Ám ảnh trả thù trí nhớ, thứ hệ quả tất yếu của đời sống tỵ nạn chính trị trên đất thù
' lịch sử Lớn'.

     Bất lực trước 'kẻ thù lịch sử Lớn'; hẳn lại tìm ra 'bựa' với' cá nhân Nhỏ' một cách may rủi.  Ai trúng đạn , rán chịu.
     Có thể vì thứ kinh nghiệm này mà Võ Phiến đã viết, quên tên; và viết 'chám'(?) vài tác giả quan trọng trong bộ sách tham vọng 'Văn học miền Nam ', trong thời gian ông ta lưu vong tỵ nạn.
    Tự do [đối với] người viết hải ngọai, cái phởn phơ muốn viết gì thì viết. Nhớ nhớ, quên quên; hay thủ thuật 'chơi 'game trí nhớ', như là bàn cờ 'defensive' của 'văn chương hải ngoại.'

     Mất trí Nhớ. Nhớ nhớ, quên quên; hay 'bôi quét nhạc đen vào mảng tên' những người quen trong quá khứ; là một cá tính khốn nạn, nhưng là gia tăng nồng độ tiểu thuyết tình. Một thứ ám ảnh khó lọt; mà lọt sàng của đầu óc những kẻ đã viết tiểu thuyết.

    Một người đã sáng tác, đã đánh đĩ với bi kịch; để tạo nên những bản viết-- giờ; quay sang viết phê bình; mà, lại ôm đồm đòi phê bình to lớn đến mấy nghìn trang sách trong một thời gian ngắn --  Võ Phiến hơi 'bị' quá chém chữ trong vai trò phê bình gia của bộ 'Văn học miền Nam'.


                                                 văn học miền nam / võ phiến
                                                                             (nx  văn nghệ/  cali : bìa sách: Internet)


     Nguyên tắc hơn.  Đáng lẽ một bộ văn học lớn như tham vọng của tác giả [Võ Phiến]; thì, nên có một bộ phận đọc; và, sửa chữa những thiếu sót, lỗi lầm nghiêm trọng. 

     Việc Võ Phiến bỏ sót những tên tuổi trong bộ 'Văn học miền Nam' là lỗi của cơ quan'The Asia Foundation' ( quỹ Á châu - < http://asiafoundation.org> của Mỹ, trụ sở ở New York, đã cấp tiền cho [Võ Phiến] viết bộ phê bình văn học này.  

     Với tôi; [Lê thị Huệ] đây là một lỗi lầm  khách quan của cơ quan tài trợ cho cuộc nghiên cứu của Võ Phiến.  Đáng lẽ 'The Asia Foundation'; phải có một bộ phận chủ biên đọc kỹ; và,xét các chi tiết trong sách. 

      Tôi [Lê thị Huệ] ngạc nhiên về sự làm ẩu tả của một tổ chức lớn như 'The Asia Foundation'. Vì; với sách do các đại học lớn như Berkeley, Princeton, Columbia ở Mỹ, in ấn [thì] bộ phận chủ biên của học đọc kỹ vô cùng.  Họ xét từng câu, chữ, từng chi tiết; và, đòi hỏi sự chính xác, đến gần như tuyệt đối.

    Đáng trách  là; nhà văn Võ Phiến đã không bổ túc những thiếu sót trong những lần tái bản sau.  Vấn đề là sách biên khảo phê bình cần sự chính xác.  Khác vời sách sáng tác; có yếu tố ghét, thương ở 'trỏng'.

     'Cú' ngoạn mục khác của vở diễn' văn chương'Mất trí Nhớ' của nhân vật chính Võ Phiến, là mới đây ;' sách của thủ lĩnh 'quờn' trở lại quê hương cũ; mở đầu của việc tái bản sách của 'văn chương 'Mất trí Nhớ' ở Việt nam.

   Và; quyển sách đầu tiên đăng đàn vai chính 'Võ Phiến' lừng danh; [lại mang] tên vai phụ 'Tràng Thiên'.  Có thể hành động cho in lại sách ở Việt nam, với cái tên Tràng Thiên là việc của người khác làm thay ông. [ có tin việc giao dịch này, do thứ nam Đoàn thế Phúc, bút danh Thu Tứ lo liệu.]  

     Vì; khi tuyển tập 'Quê hương tôi do Nhã Nam  [đầu tư in ấn, phát hành] tại Việt nam (tháng 9/ 2012) -- thì; ông ta [ Võ Phiến] đã 'Mất trí Nhớ' --  lảm sao ông ta còn [phân biệt đâu là] Võ Phiến, Tràng Thiên, Thu Thủy -- 'quê hương' hay 'đất nước' tên nào lại [là] tên nào. 

     ' Cho nó bi kịch đời lên bi kịch nữa lên, nhân vật tiểu thuyết của tôi ơi !"


                                                             ***

     Tôi mời gọi các thân hữu viết về 'tác phẩm+ tác giả Võ Phiến', khi ông [ta] đã 'lost memories';ông ta không còn đọc [được] nữa ; [kể cả] những điều người khác viết về ông ta [đi] nữa.

     Lời cảm ơn dịu dàng của vợ ông, bà Viễn Phố ngỏ lời [có người cho bút danh Võ Phiến Viễn Phố đảo chữ] , khiến tôi ngậm ngùi.

     Cám ơn sự đóng góp của các tác giả: Túy Hồng [nữ văn sĩ], Hồ đình Nghiêm, Đặng đình Túy, Hoàng xuân Sơn, Nguyễn Tà Cúc [nữ], Chu Ngạn Sơn , cho <gio-o.com>.  

    Tôi mời 14 tác giả, sự hợp tác của 9 vị, 8 người đã gửi bài.

     Bài viết Nguyễn Tà Cúc [mà]  <gio-o.com>  giới thiệu lần này, có những luận điệu nặng nề, dễ gây tranh cãi -- nhưng; tôi [Lê thị Huệ] vẫn vinh dự cho [đăng]lên. 
   []

                                                          lê thị huệ


                                                           lê thị huệ

                                                                     - sinh 1953 tại Hà tĩnh (Trung bô)
                                                     - đã  theo học đại học Văn khoa (Saigon)
                                                    + đại học Sư phạm+ đại học Dalat [1971-75]
                                                     - tỵ nạn sang Hoa kỳ từ 1975
                                                     - tốt nghiệp MA, Pyschology
                                                     - giáo sư hướng dẫn tại đại học công đồng
                                                       Evergreen Valley College San Jose, California
                                                      -tự nhận [là] ' nhà văn hải ngoại', điều hành
                                                       trang văn chương, dich thuật Gio 0, từ 2001.
                                                           (tiểu sự tự bạch trên <Gio-o.com>
                                                           




                                                    (trích lại từ  <TVan & Bạn hữu>)

Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

THICH NHAT HANH WON PACEM IN TERRIS AWARD 2015/ Thích Nhất Hạnh được giải Pacem In Terris 2015 / bài viết: trần kiêm đoàn (california)

thiền sư Thích nhất Hạnh:
hình giả bắc nhịp cầu tâm linh Đông- Tây'
(art2 all.net>


                   THÍCH NHT HNH WON PACEM                        IN TERRIS AWARD 201/ 
                  THÍCH NHẤT HẠNH ĐƯỢC GIẢI PACEM IN TERRIS AWARD 2015

                                                       bài  viết:  trần kiêm đoàn

- ... đã có 6 trong 42 người đạt giải thưởng Pacem In Terris, cũng nhận được giải Nobel Hòa bình; như Martin Luther King, mẹ Teresa, Desmond Tutu, Leach Valesa ... trong những năm qua.  Giải thưởng PACEM IN TERRIS  năm 2015 được trao tặng cho thiền sư Thích Nhất Hạnh, vào ngày 31/10/2015 .

 - ... báo chí phương Tây trong những ngày này nhắc đến thiền sư Thích Nhất Hạnh như là một người'bắc nhịp cầu tâm linh+ tạo sự hiểu biết ở tầm cao. đi vào chiều sâu giữa 2 thế giới Đông, Tây. 


                                                thích nhất hạnh     [i.e. nguyễn xuân bào  1926-     ]
                                                                                                    (ảnh : kèm theo bài)


    Thiền Thích Nhất Hạnh  được nhận giải PACEM IN TERRIS AWARD 2015 ; giài 'Hòa bình Thế giới' hàng năm phổ biến nhất của Thiên chúa giáo toàn cầu -- đã trực tiếp; hay là gián tiếp, gởi một thông điệp hòa bình, an lạc, hiệp thông của  2 tôn giáo có đông tín đồ nhất Việt nam.
     Thiền sư Thích Nhất Hạnh được vinh danh; do thành quả 'công phu xây dựng được nhịp cầu tâm linh nối liền giữa phương Đông + phương Tây'.

     Lịch sử 'Giải thưởng Hòa bình Thế giới' của Thiên chúa giáo; trao hàng năm, kể từ 1964, do đức giáo hoàng John XXIII đề xướng, với sự xác định tiêu chuẩn rằng,
     " Đây là giải thưởng vinh danh các nhân vật tạo được những thành tựu về 'Hòa bình + Công lý' ; không chỉ riêng cho đất nước họ; mà cho toàn thế giới." ( to honor a person for their achievements in Peace & Justice, not only in their country but in the world.)

     Đã có 6 trong 42 người đạt giải thưởng Pacem In Terris, [cũng] nhận được giải Nobel Hòa bình; như Martin Luther King, Me Teresa, Desmond Tutu, Leach Valesa ... trong những năm qua.   Giải thường Pacem In Terris năm nay sẽ được tổ chức vào 31/10/2015; đúng vào thời điểm kỷ niệm 50 năm ngày mục sư Martin Luther King Jr. được vinh danh nhận giải thưởng này.

    Hai nhà lãnh đạo tôn giáo: mục sư Martin Luther King và thiền sư Thích Nhất Hạnh; đã có nhiều lần hội kiến cùng nhau tại Hoa Kỳ, để chia sẻ lý tưởng tìm kiếm một nền hòa bình công chính + tinh thần đấu tranh bất bạo động cho 'Hòa bình + Công lý'; có tầm ảnh hưởng tới không khí chính trị vào những năm cuối thập niên 60.  
     Đầu 1967, trong bài phát biểu nổi tiếng ở nhà thờ Riverside (New York); mục sư Martin Luther King đã đề cử thiền sư Thich Nhất Hạnh cho giải Nobel Hòa bình; và, đã gọi thiền sư là, " môt tông đồ của hòa bình + bất bạo động."

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh được thế giới công nhận như người sáng lập của phái 'Phật giáo Xã hội Nhập thế'; đồng thời là người khởi phát của 'pháp tu chánh niệm' (Mindfulness) trong văn hóa phương Tây.

    Chân lý đầu tiên trong 'tứ diệu dế' Phật giáo, với cuộc đời là 'khổ'.  Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã chuyển hóa khái niệm 'khổ' sang một bối cảnh phương Tây thời hiện đại.  Muốn ứng dụng lý tưởng cứu khổ xã hội vào thực tế; thì cần phải để cho các hành giả giúp đời bớt khổ trước [tiên]; chính họ phải có kinh nghiệm trực tiếp về đau khổ, trong thời đại của mình; qua các công tác dấn thân tiếp cận với những môi trường khốn đốn, bất hạnh của con người.

    Từ đó, hành giả thiện nguyện mới có thể định hình con đường diệt khổ, thích ứng với hoàn cảnh và căn cơ của từng đối tượng nhân sinh cần giúp đỡ
.  
    'Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội', các khuynh hướng 'Phật giáo Ứng dụng', 'Phật giáo Nhập thế', 'Dòng Tiếp hiện'; mà thầy Nhất Hạnh đã khai sinh, hoạt động; đều là những phương tiện thiện xảo nhằm thực hiện con đường cứu khổ.

    Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã phối hợp nguồn kiến thức riêng về các trường phái Thiền : 'Phật giáo Đại thức', cùng các ngành' Tâm lý học', 'Luận lý học', kể cả 'Thiền học phương Tây'; để xây dựng một con đường tu học tươi mới, thích ứng với khuynh hướng ứng dụng, dấn thân; từ căn bản truyền thống Phật giáo.

    'Thiền phái Làng Mai'; trường được mệnh danh là 'Thiền Làng Mai'; hay là 'Phật giáo Ứng dụng' ( Applied Buddhism), 'Phật giáo Nhập thế' (Engaged Buddhism.)

    Với những tác phẩm văn chương tôn giáo triết học đã được phát hành; và, đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ, cùng với sự đóng góp liên tục trong hơn nửa thế kỷ qua cho Phật giáo, những phong trào vận động nhân đạo cho hào bình thế giới -- hãng thông tấn AFP đánh giá thiền sư Thích Nhất Hạnh: một nhân vật lãnh đạo của Phật giáo, có tầm ảnh hưởng lớn thứ 2 tại phương Tây, chỉ sau Đạt-Lạt-Ma của Tây tạng.

    Sự kiện Hội đồng quản nhiệm giải thưởng Pacem In Terris; Thiên chúa giáo quyết định vinh danh trao giải 'Bình an dưới thế', 'Hòa bình+ Tự do thế giới' (The Pacem In Terris and Freedom Award) cho một tu sĩ Phật giáo Việt nam; như trường hợp thiền sư Thích Nhất Hạnh là một biểu tượng nhân văn, liên thông tôn giáo rất đáng trân trọng.  Nó tạo ra được tác dụng tinh thần, xã hội + hiệp thông -- mà; các nhà lãnh đạo tôn giáo hàng đầu trên cả hai thế giới Đông,Tây thường rao giảng.

    Nhân dịp này; mạng lưới xã hội toàn cầu lại có dịp nói đến thiền sư Thích Nhất Hạnh một cách hòa ái, trân quý , nhiệt tình -- kể từ sau ngày thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết não, vào ngày 11 tháng 11 năm 2014. 

    Nguồn thông tin về sự suy diễn; có thể đứng ở nhiều góc cạnh; và, sự suy diễn,  đạt ở nhiều tầm mức cao, thấp khác nhau -- nhưng tựu trung có  đại ý khái quát. Là :

    - con đường tu học và hoàng đạo của thiền sư Thích Nhất Hạnh không xuôi dòng, dễ đi; như những bậc tu hành đạt ẩn; hay, các hành giả tịnh tu tại các nước sống trong hòa bình trọn vẹn trên toàn thế giới. 
    - con đường hành hóa đạo Phật của giới tăng sĩ Việt nam,nói chung; và, nói riêng, của thiền sư Thích Nhất Hạnh,  là con đường 'trọn vẹn trong biển lửa'.   
     - đó là con đường gian nan; mà, chư tổ dùng làm biểu tượng cho công hạnh tu trì miên mật trước gian nan + thử thách cuộc đời + chính mình -- trong những hoàn cảnh dầu sôi, lửa bỏng.  
     - trước hiện thực xã hội ngày nay bị điên đảo; với quá nhiều Giu-đa bán Chúa, và  Đề-Đạt-Đa hại Phật -- những hoạt động về tôn giáo, văn hóa, xã hội của thiền sư Thích Nhất Hạnh + tăng thân Làng Mai đều có một tác dụng tích cực cho thế hệ sau; dù ở bất cứ tôn giáo; hay hoàn cảnh xuất thân nào -- đều có cơ hội ươm mầm niềm tin tâm linh trong sáng + trung thực.

     chính vì vậy; báo chí phương tây trong những ngày này nhắc đến thiền sư Thích Nhất Hạnh, như là một người 'bắc nhịp cầu tâm linh + tạo sự hiểu biết ở tầm cao, đi vào chiều sâu giữa 2 thế giới Đông, Tây.

     Một nhà văn + nghiên cứu thần học Thiên chúa giáo, Katia Kiley; đã viết trên 'The Catholic Messenger':
    ' Kể từ buổi lưu vong của thiền sư Thích Nhất Hạnh từ Việt nam; cuộc sống của ông đã được dành riêng cho công việc 'Transformation Inner' ( chuyển hóa nội tâm) -- vì  lợi ích cá nhân + toàn xã hội.  Chuyển đổi bên trong, theo quan niệm tác giả -- bắt đầu với sự dốc tâm mở khóa năng lượng của chánh niệm. Các điểm chốt thực hành chánh niệm là từng lúc, từng lúc nhận thức về các phép lạ của hơi thở vào và hơi thở ra.  Hơi thở chánh niệm, đi bộ chánh niệm, ăn uống lưu tâm; đó là cánh cửa để mở nguồn tâm. Thực tập chánh niệm nuôi dưỡng sự tự hiểu biết + tha thứ, gây nên tâm thức sâu lắng + hành động từ bi; vì lợi ích tất cả đối tượng, bao gồm cả kẻ thù + trái đất.  Chánh niệm được biểu hiện chân thật nhất; khi thực hành như một sinh hoạt mang tính cộng đồng, cống hiến đại chúng." 
            (...)

    Giải thưởng Pacem In Terris [trao] cho thiền sư Thích Nhất Hạnh, [như] một cái bắt tay đầy khích lệ giữa 2 phía -- không phải là đạo hữu, thân hữu  -- mà là trí hữu của nhau,
" nghĩa là đón nhận nhau như bạn, không phải vì đồng đạo, cũng chẳng phải tình thân; nhưng bởi sự hiểu biết + tôn trọng lẫn nhau  ..." 
              (...)
      Xin chúc mừng thiền sư Thích Nhất Hạnh + chia vui với tăng thân Làng Mai.
     []

    trần kiêm đoàn
     THIỀN VIỆN QUY NGUYÊN (Texas)
      PRINCETON MEDITATION CENTER,
              tháng 10, 2015.

           ( tựa bài  tác giả' Thiền sư Thích Nhất Hạnh: hình giả bắc nhịp cầu tâm linh Đông- Tây'                                   
             trích từ < art2all.ne t>)

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

phần đời còn lại : tạp văn hoàng vũ đông sơn (di cảo )

di cảo của hoàng vũ đông sơn

                                       phn đi còn li
                                                   hoàng vũ đông sơn



                                                                 ( trong bài có hình bóng của anh về'hệ thống quân giai')
                                                                       (thủ bút+ chữ ký hoàng vũ đông sơn [1939-2014)


- ...' em cũng có một ông đàn anh, nhà văn 'thứ thiệt'; ông ưa chọc quê thiên hạ, ưa quậy tưng lên cho đỡ buồn.  Ông nói, 'văn, thơ cũng phải chiếu theo'hệ thống quân giai'. để lượng giá 'hay' hoặc 'dờ'.   Đành là huynh đệ chi binh; nhưng phải nhớ : 'thơ của binh nhì' phải kém cạnh'thơ của binh nhất, hạ sĩ'.  Còn văn của thượng sĩ phải thua văn  thiếu úy . Văn, thơ của đại tướng, tất phải trùm cả chư quân ...'

 - ... 'thế thì' ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới/  đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên'


     Người khách đập cửa kình kình; rồi vào nhà lúc quá trưa, cứ như công an xét hộ khẩu, hay 'Tây nhà đèn' nội hoá đi kiểm tra đồng hồ điện đột xuất, ở cái thời mới giải phóng từ mấy mươi chục năm qua.  Đã quen sống với cái cảnh thường xuyên bị xúc phạm; bị lăng nhục, không còn thắc mắc,'sao vậy cà?' -- tựa hồ  cái không khí truyện The Gulag Archipe-
lago' của A.I. Solzhenitsyn -- một tác giả mà Ngọc Thứ Lang đã chuyển ngữ sang việt ngữ. Thế mà tôi vẫn thót tim, vẫn 'teo teo' làm sao ấy.  Cảm giác thật khó tả.

    Tiếng thằng con tôi, " Thưa bác, bác lá bác ... con nhớ ra rồi!  Bác mới về ạ".  Khiến tôi yên chí rằng ; cái ông viễn phương, lại là người quen; và, biết đích thị ông là ai? 

    Chỉ có âm lượng bây giờ rổn rang cao, tự toát ra vẻ sung mãn.  Ông ta hỏi con tôi một tràng dài,
   " Mi là thằng Cún phải không / Lâu quá rồi hỉ. Học cái gì, xong chưa, cao nhỉ,thước bẩy mấy, đi làm chưa , đã có' mèo' chưa? Thằng cha mi đâu, còn ngủ hả. Cái thằng Tây nó đô hộ mình có gần một thế kỷ thôi; mà tác hại nhiều quá. Vui cũng ngũ, buồn cũng ngủ; chẳng ra cái 'thống chế' gì cả ."

     Tôi vội quơ quần áo mặc rồi; bước ra phòng ngoài gặp ông, vừa đi vừa nói,
    "Sao lại không ra cái' thống chế' gì?! Ngủ để mơ ' làm người Quang Trung'.  Ngủ còn để mộng kiến cố nhân; may ra có cụ ngứa miệng, ban cho lời dạy dỗ để sống hết phần đời còn lại, cũng hay lắm chứ !" 

     Sau khi chủ khách đã phân ngôi; con tôi đem nước sôi; và, ấm chén cho tôi tự làm 'trà ' tiếp khách.  Ông nhìn cái hộp Longjing Tea ; rồi vồ lấy, lắc lắc, ngắm ngía; phán,
 " Mừng chú qua cảnh 'ấm trà góp lá bàng, lá vối'; pha mùi chát chát, chua chua.  Không còn cảnh' đồ chuyên trà ấm đất 'sứt vòi' nữa."

    " Cám ơn anh đã mừng cho em; trà' Long Tĩnh', thật ra chỉ còn cái hộp không thôi. Còn ruột nó hết từ khuya rồi; ấy là nhờ một đàn anh Việt kiều Mỹ gửi biếu. Ông ấy 'nhị không'; nên gửi về cho em, đó là thứ trà Tàu thứ thiệt, ngon lắm anh ạ."
    " 'Nhị không' là cái gì chứ? 
    " Thưa anh, anh có nghe bài thơ cổ, có những câu :

                                       Một trà một rượu một đàn bà
                                  Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
                                  Chừa được thứ nào hay thứ ấy
                                  Có chăng chưa rượu với chừa trà

    " Ừ nhỉ.  Tôi nhớ ra rồi, thơ cụ Tú Xương mà."
     " Chưa chắc đâu anh. Xưa kia ông thầy dạy em, khi giảng bài thơ này, cụ bào, " Thơ của vị cao tằng, đức cao vọng trọng ở vùng non Côi, sông Vị Trần kế Xương tự trào."  Người rất sòng phẳng với cuộc đời:

                                    Cao lâu thường ăn quịt
                                    Thổ đĩ lại chơi lường

     Trần thi sĩ tiền nhân chả thèm băn khăn, thắc mắc 'vớ vỉn' như rứa đâu!"

    " Còn bộ đồ trà này?"

    " Bộ đồ trà này cũng của Tàu, Tàu mới, Tàu Hoa lục bây giờ.  Đây là bộ quần ẩm, có tới 6 cái chén quần, một chén tống ; và, ấm để trên một cái lớn, như cái âu, cái chậu.  Nhìn 'quê quê' thấy mẹ; nên em tách ra, chỉ dùng chén tống, chén quần đối ẩm thôi.  Xa xa. có vẻ Thế Đức gan gà, phải không anh ?" 

     " Cái đó tôi không rành. Mua; hay là ai cho?"
    " Giá 50.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt nam. Cọ giáo 'vợ' mua tặng sinh nhật lần thứ 60 của 'đệ' đấy."
     " Trà gì? Uống cũng được lắm chứ ."
    " Trà Thái nguyên hay Bắc Thái gi đó. Người ta thường gọi là trà Bắc cho gọn ấy mà."


                                                               ***

   Ông đàn anh khách quí tới thăm; vào cái giờ oái oăm.  Vợ tôi ra chào ông; và, lấy bánh ra mời.  Nể lời; ông cầm một cái lên, nhìn nhìn, rồi bẻ một mảnh nhỏ đưa vào miệng, biều lộ vẻ 'vạn bất đắc dĩ'. 

    Ông khen, 
    " Khá nhỉ, sao cao sẵn cả bánh thế này?"  Vợ tôi thành thực khai báo, " Thưa bác, bánh hộp nguyên bằng sắt, vừa mới mở.  Đến hết tháng 12/ 2005 này mới hết 'đát'.  Đây là lộc của cô giáo già; học trò cũ biếu tết đấy ạ.  Cháu nó đã lớn; chúng em già rồi, ít ăn vặt.  Chỉ đợi mấy thằng cu cái tí con nào đến thăm thì làm quà cho chúng nó mừng."

    Kể như uống trà  mất cả buổi chiều; chuyện đông, chuyện tây, chuyện mới, chuyện cũ; nổ như pháo rang.  Cứ gọi 'tiệc tẩy trần' đi, cho nó sang,  Bác đi máy bay từ Mỹ về; 'sức mấy' mà co bụi bám vào được, mà 'tẩy' phải không ạ.  Ở 'bển' chắc vui, bác nhỉ?"

    " Tôi có ăn uống gì được đâu.  Cà-phê, thuốc lá, rượu,. mỡ màng; đều bị bác sĩ cấm hết.  Ở bên đó buồn quá; nên mới mò về đây.  Cả chục năm không về. Năm nay về ăn tết; xuống máy bay là tôi phải đi cấp cứu liền; rồi, ở miết trong nhà thương, mới ra được mấy bữa nay.  Hôm nay thấy khoe khỏe, qua thăm cô chú đầu tiên đấy."

     " Cám ơn bác; thế mà, có đứa nào bên nhà báo cho chúng em một tiếng đâu.  Thế bác sĩ nói bác bị bệnh gì; và đã chữa trị hết chưa? "
    " ...hết hẳn thì chưa.  Nằm qua 3 nhà thương; mỗi nơi 'phán' một bệnh chính + nhiều bệnh phụ.   Chả biết ra làm sao nữa.  Bác sĩ bên Mỹ nói là bệnh già; tim, gan, phổi 'tầm bậy' cả rồi.  Nhưng chắc chắn là chưa tới số.  Thôi; cô chú và thằng cháu thay đồ; rồi ta ra thịt vịt Thanh đa lai rai cho vui.  Cơm nấu rồi để mai ăn cũng được mà." 

     " Ấy thưa bác không được. Bác phải ăn kiêng; cả nước này đang bị cái nạn H5N1 làm hại.  Gia đình em cả 2 năm nay; đến hột gà, hột vịt, 'hột' chim cút, cũng sợ phạm húy; không dám đụng tới.  Bác cũng đừng có mà dùng; mà chuốc lấy tại họa."
   " Sao tôi đi qua vẫn thấy người ta tấp nập vô." 
   "  Đấy là những người tự cho là được miễn nhiễm; hoặc, can đảm lắm mới dám vô tư nhập khẩu đấy ạ.  Chúng em thì dứt khoát ;không". 
    " Thế thì đi chỗ khác, ăn món khác. Ở đảoThanh đa thiếu gì quán có bò, heo, cua, cá."
    " Cám ơn bác; chúng em đã nấu xong cơm chiều.  Chỉ chờ bác và nhà em uống nước xong; cơm bưng lên ngay.  Cơm rau mắm; chứ không  thịt thà, cá mú đâu mà bác sợ.  Mỗi tháng chúng rm có một tuần 'ăn mặn', còn 3 tuần 'ăn chay'.  Rất may cho bác đến thăm; lại gặp tuần chay, hợp với người ăn kiêng.

     Bố con tôi lặng ngắt; nhất định trung lập. phi liên kết.  Phe nào thắng là theo.  Nếu ông đàn anh khách quí thằng; thì bố con tôi thich lắm.  Chuyện còn đang dùng dằng chưa ngã ngũ; thi chuông điện thoại reo.  

    Cháu ngoại ông báo, 'nhà có khách, khách bà con từ ngoài Bắc, ngoài Trung vào thăm ông ngoại'.  Điện thoại 'réo' đến lần thứ 3; ông mới chịu ra về. Trước khi về; ông hẹn tôi, sáng mai qua sớm, 'có nhiều chuyện muốn nói'. "


                                                            ***

     Cả buổi sáng ngồi ờ sông Thanh đa; nhìn mây nước lên xuống, từng dề lục bình  cũng ngược xuôi, như mấy đoàn ghe thuyền -- phần lớn mang số L.A. ( số đường sông tỉnh Long an) đều chở khẳm những đất, đá, sỏi, trái cây, lá dừa nước, cấy giống ... chui qua cầu Kinh, cầu Bình triệu 1, Bình triệu 2. 

     Lượt về;  ghe cũng chở khẳm, chả biết họ chuyên chở hàng hóa gì, mà che phủ kín mít. Ghe xuôi tới đâu và ngược tới đâu?  Ghe là cái nhà của dân sống lưu động trên sông, nước.  Chữ nghĩa của người Nam Kỳ lục tỉnh; xưa gọi là 'dân thương hồ'; còn văn liệu thì có khắc ghi trong điệu lý, câu hò; ở từng khúc sông vào mỗi bình minh, hoàng hôn -- và nhất là, mỗi đêm trăng thanh, gió mát đầy bầu trời.

    Nam nữ 'nghệ sĩ'  hạnh ngộ bất chợt một thoáng trên sông; khi ghe vừa chạm mũi, hay 'đẹp nhất' là cùng xuôi một dòng 2 bên bờ sông Tiền, sông Hậu, Vàm cỏ Đông, Vàm cỏ Tây, Đồng nai, Bến nghé ... đều được nghe câu hò đối đáp.  Họ có nên duyên Tấn Tần hay không nhỉ?  Chắc là có nhiều thật nhiều mới hợp lý.

    Bây giờ; ghe thuyền xuôi ngược, không ai còn nghe được tiếng hò thanh thoát, trữ tình, bằng các điệu lý mang hồn dân tộc nữa.  Ghe thuyền nào cũng 'chạy' bằng thủy động cơ, cũng có radio, TV, hát băng, dĩa phát ra tiếng véo von.  Những bài hát tiếng Anh, Pháp, Nhật, Tàu ..., đủ các giai điệu, chẳng hợp với tâm cảm người sống trên sông nước, mà vẫn mờ mờ, ảo ảo. 

    Tôi rất mừng là : khoa học, kỹ thuật đã giúp cho việc chuyển vận ở nước tôi máu chóng, trọng tải được nhiều; đỡ phải dùng cơ bắp, hò khoan theo nhịp; đỡ phải phụ thuộc vào con nước, gió xuôi, gió ngược của thuyền buồm.  Nhưng; lại buồn buồn, nhớ nhung những điệu lý, câu hò nam nữ thương hồ; hay, chỉ ít cũng dùng một vài 'Con Bảy đò đưa' -- như nhà văn Sơn Nam tả: cô Bảy véo von đối đáp trong một chiều tím trên sông Cửu.

     Nhìn những dề lục bình trôi; tôi nói với ông đàn anh Việt kiều :
    "  ...  ba mươi năm một kiếp người; tất cả đã thay đổi rồi, anh ạ. Thay đổi từ trong  ra ngoài; chỉ còn những bình hoa tim tím kia thì vẫn như thế, vẫn dập dềnh theo con nước lên xuống.  Ở quê em; xứ Đông triều-Hải dương, gọi nó là 'bèo Tây' có nơi lại gọi là 'bèo Nhật bản'.  ' Di-cư dô Nam  ; em mới biết nó còn có tên nữa 'lục bình'.  Lại có một thành ngữ; nghe một lần, nhớ liền 'ăn như xáng xúc, làm như 'lục bình trôi'. "

    " ... tại sao lại gọi là bèo Tây, bèo Nhật bản? ; cái gì to lớn, đẹp đẽ; đều là của Tây, của Tàu; rồi  của Nhật nữa ?  Đất Bắc vẫn hãnh diện là cái nôi văn hoá dân tộc việt, chả lã lại như thế sao; vậy thì cần phải xét lại mới được. "

    " ... xin lỗi anh!  bộ đất Nam nhà anh bị kém cạnh, hay sao?  Nào là 'xà-bông', 'mã tà', 'đá bánh',n 'hủ tíu' ...; còn như có tên như thế là có ly do.  Thế rồi, vào năm 1945, ông Nhật lùn đá đít , véo tai ông Tây mũi lõ; thì có thứ gọi là 'bèo Tây' ấy trôi từ Thái bình dương vào sông ngòi Bắc việt.  Chả hiểu; vì cơn cớ làm sao, nó lại xuất hiện ở ao bèo Ta, thứ bèo nấu chung với cám cho lợn ăn; bỗng lợn lớn như thổi.  Còn bèo Tây hay bèo Nhật bản thì lợn lại chê.  Chỉ có lợn chê; vì, phải ăn để sống, nên được liệt vào loại 'tốt mẽ rẻ cùi'.  Nhìn thì mát mắt lắm; giống bèo to lớn xâm lăng, lấn lướt vóc dáng, có vẻ 'đại Phú- lang- sa' đến khai hoá văn minh; hay 'đại Nhật bản Đông Á' ấy ; đã làm cớm nắng trên mặt ao, dưới nước thì rễ cũng to, khỏe, dài thườn thượt, hút hết tính chất 'bùn -béo- Việt- nam' rồi.  Bèo ta vì thế teo tóp; lợn heo bị đói kêu la rên xiết. Muốn bèo Ta sống; chỉ còn cách phải tận diệt ' quí Anh, Chị bèo Tây, Nhật' ấy ngay.  Cứ 3 ngày; bèo che kín nửa ao; một tuần che kín mít ao.  Khi 'nước cạn, bèo đến đất'; thì bèo Ta yêu nên 'tịch' trước; bèo Tây, bèo Nhật còn lại phát triển cho tới khi nước cạn khô queo, ao nứt nẻ mới chịu 'tịch' , thế đấy anh ạ."

    " Người ở ngoài quê chú xưa kia có ý gì không; mà,lại kêu lục bình là bèo Tây, bèo Nhật bổn?  Kêu như rứa là để nịnh bợ hay lên án cái tàn ác, bất nhân của họ?"

    " Thưa anh; thế sao lại gọi là ' lục bình' ? Em đã phải 'phịa' ra; để cắt nghĩa cho thằng cu con em, lúc nó cỏn bé :' Lục là xanh, màu xanh - Bình là  cái 'thân cây' hình thuẫn, giống cái bình hoa, phía trên cắm hoa tím.'  Nó tin như sấm.  Em nói cho xong chuyện mà thôi.  Thế mà; em được cháu nó khen' Bố giỏi quá, cái gì bố cũng biết.'  Bảo rằng gọi tên; hay, đặt tên bèo Tây, bèo Nhật; để nịnh bợ, để hù dọa quốc dân, đồng bào; thì phải là quí quan phán, thầy thông ngôn sở Thuộc địa; hoặc,  quí vị người mình cộng tác với Nhật; cũng được gọi quan, làm ở sở Hiến binh Nhật.  Còn quan Mật thám thì' lận' súng sáu; quan Hiến binh Nhật đeo kiếm dài.  Họ đều có quyền bắn bỏ, đâm chém đồng bào ta; để tỏ dạ trung thành với đại Pháp, đại Nhật bổn.  Nếu bảo là lên án; thì tác giả ấy phải là các cụ đồ, các bậc nho gia; hay là các vị trong hội Kín từng chống Tây, chống Nhật bổn.   Còn loại 'dân ngu khu đen' chẳng khác gì bầy cừu; thấy con đầu đàn đâm đầu xuống vực, cả đàn nhảy theo; thấy con đầu đàn 'be be' là 'be' theo thôi.  Vả lại; năm 1945, em mới lên 6; biết gì những chuyện cũ rích xưa như trái đất ấy mà nói.  Chẳng qua; em biết một tí ti, do người lớn nói; và, qua vài tí sách báo cũ viết ra như thế.

    "Thế thì chuyện nay, chuyện bây giờ, chuyện mấy năm; tôi không có hoàn cảnh về; thì chúng sống ra sao ?  Kể cả buồn vui trong cuộc sống 'cơm nhà quà vợ' nữa.  Chú cỏn kém tôi cả chục tuổi;  mà tóc đã bạc phơ hơn cả tôi.  Ngày xưa; chú ngang ngược, nên bị chúng hét. Một thiểu số yêu thương chú; vì, cái  tật 'ngang cành bứa', lại ưa chọc quê những thằng cà- chớn chống xâm lăng nữa.  Phản ứng của chú là đúng thôi. Người thích chú; chỉ có hệ số rất ư nhẹ ký; ngoài chuyện ăn nhậu ra, thì chẳng giúp gì được chú. Những yêu ghét bây giờ chỉ còn là kỷ niệm.  Phải biết trang trọng ; để biến nó thành kinh nghiệm để răn con, dạy cháu.  Buồn thì vẫn phải sống và đời đâu có vui hết thảy. Chẳng thế,  Nguyễn công Trứ từng biểu:

                                         Mới sinh ra miệng đà khóc choé 
                                         Trần có vui sao chẳng cười khì

    ở trên nhà chú hôm qua; nghe chú nói tới cái khoản 'phần đời còn lại', khiến tôi suy nghĩ cả đêm.  Phần đời còn lại của anh em mình; hay ở dạng anh em mình, sao nhiều cay đắng, lắm nhiêu khê thế, không biết nữa.  Ở bên đây buồn; thì bên đó đâu có vui. Sống mà chẳng làm được gì cho đời; người xưa gọi là 'dư sinh', nôm na là 'sống thừa' trong quan hệ xã hội. Làm thế nào để không bị liệt vào hạng 'sống thừa' ?  Khó quá .  Những anh chị già, có bằng cấp lớn, có chí khí cao, đã phát minh , phát kiến ra  kế sách 'hộ quốc bảo dân', hay đáo để Tiếc rằng đàn gảy mỏi tay ; mà tụi ... ba bứa ' thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào'. Thì chẳng ra làm sao nữa.  Tôi tự biết 'bất tài vô tướng', nên đứng ngoài vòng luân hồi. Nhiều bạn ta có kiến thức, có văn tài -- nhưng từ khi đến Mỹ đã viết văn, làm thơ để ký thác tâm sự, trở thành nhà văn, nhà thơ có thế giá đấy, chú ạ. "

    "  Dạ,  thưa anh, em biết điều đó.  Người việt mình chưa có nghề văn sĩ, thi sĩ.  Văn thì không có cấp bậc như nhà binh; cũng chẳng có ngạch trật như công chức, đễ lĩnh lương, ăn tiền. Chỉ có nghề làm báo và viết báo.  Em còn nhớ; có một ông lớn, thật lớn; buồn tình, ông ta làm thơ, tự khẳng định mình.  Bài thơ có câu; ' Ngồi buồn gãi háng giái lăn tăn'. Ký giả 'thiệt' Minh Vồ- Nguyễn văn Minh, chủ nhiệm báo Con Ong, liền đặt ra mục 'Thơ Gãi háng'; câu thơ trên có ghi tên tác giả nó là 'Thi sĩ ...' .
      Em cũng lại có một ông đàn anh, nhà văn 'thứ thiệt', ông ưa chọc quê thiên hạ, ưa quậy tưng lên cho đỡ buồn.  Ông nói, ' văn, thơ cũng phải chiếu theo 'hệ thống quân giai' để lượng giá 'hay' hoặc 'dở'.  Đành là 'huynh đệ chi binh' đấy; nhưng, phải nhớ là 'thơ của binh nhì' phải kém cạnh 'thơ của binh nhất, của hạ sĩ' ; văn của 'thượng sĩ phải thua văn của thiếu úy'; còn văn thơ đại tướng tất phải trùm cả chư quân.  Cứ thế mà tính; từ trên xuống cũng được, từ dưới lên đều được cả.  Cứ thế mà suy ra; mà tôn cao theo hệ thống quân giai...'  Anh cũng viết văn, làm thơ đi; nhất định phải từ 'trung úy trở xuống đấy'. "

    " Theo chú nói, tức là:

                                        Ngói đỏ lợp nghè, lớp trên đè lớp dưới
                                    Đá xanh xây cống, hòn dưới nống hòn trên "

    " Dạ, đúng thế đấy ạ.  Thế mới biết ' biết thế nào là lễ độ' .  Vì 'Thơ Gãi háng' mà vẫn có cả những ông tai to, mặt lớn khắp thiên hạ 'kính phụng họa' ở trên báo chương-- và, viết bài ca tụng, ca ngợi thi tứ hàm súc, ý thơ mênh mông tới cả mấy từng trời."

    " Chú chơi tôi đấy à. Văn, thi tài thì tôi vốn không có.  Nếu có; thì đã 'mần ối' ra rồi.   Vì thế, nỗi buồn cứ nhân lên mãi.  Chú nói quanh co; rồi dẫn dụ người ta ra ngoài, cứ như đang họp báo không bằng."

    " Thưa anh, anh hỏi em toàn chuyện em mù tịt. Thứ 'cơm nhà, quà vợ'  như em, có khi cả tháng mới ra khỏi nhà; thì biết gì nhiều chuyện thời nay, mà bép xép.  Anh lại còn cao giọng bảo là' "chú chơi tội đấy à."  ... Anh ơi, đến như Nguyễn Du chưa thể tự khẳng định bản thân, nên thổ lộ: 

                                        Bất tri tam bách dư niên hậu
                                        Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?  

    mà thật ra, năm nay anh bao nhiêu rồi nhỉ?" 

    " 78, hơn chú cả một giáp đấy. ... Tôi sống thì Mỹ nuôi, chết Hoa Kỳ chôn; ốm đau thì chú Sam thang thuốc, chăm sóc... vậy đó chú ơi !"

      (...)  tạm lược khoảng trên 2 trang A4-  Bt


                                                               ***

      Ngoài trời nắng như dổ lửa.  Chẳng có tí gió máy nào từ sông thổi lên; vậy thì con rất lâu mới có mưa cho đồng ruộng .  Thành phố này; thỉnh thoảng;  bầu trời mới nhỏ giọt xuống vài giọt gọi là lác đác mưa rơi, gọi  là 'Mưa không ướt đất'  [ một nhân vật truyện của Trùng Dương  'làm tình cùng một chàng họa sĩ, vì yếu' sinh lý' , xuất tinh nhỏ giọt ]  ... 

     Chia tay trong oi nồng của mùa mưa lại không có mưa. 

     Tôi viết những dòng này đúng vào ngày hòa thượng Thích quảng Đức 'tự thiêu vì đạo pháp' đã qua 42 năm. 
     []
   
      hvđs
      SAIGON, 19/ 4/ẤT DẬU
             (26/5/ 2005)