Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

nhà văn tác phầm cuộc đời - thế phong - 8



                                 nhà văn tác phẩm cuộc đời     8
                                          tư-sự-kể : thế phong

                                                       4

     Tiền in do tôi lo liệu.   Nhưng bây giờ phái  có cái máy chữ để đánh stăng-xin 
 ( stencil ) .  Song, tiền ăn còn lo ,  nói  chi đến sắm nổi chiếc  máy chữ ?  Tôi lên tìm  Uyên Thao ,  ở nhà anh có chiếc máy chữ  cũ, hình như tuổi nó cũng đã vai chục năm - tôi nói đùa -  máy sản xuất  vào thời kỳ Tây hạ thành Hànội.   Cái  clavier máy chữ ấy mòn  tới mức độ  mất rất nhiều nét chữ-  thôi đành vậy ,  cứ đem về nhà trọ ờ Nhà thờ Bắc Hà đánh  tạm .    Có ngày, nó hư hỏng tới 2, 3 lần, tôi lại đem ra nhờ anh thợ sửa chữa đồng hồ sửa .  Còn giấy stencil  xin từng tờ; hoặc mua lẻ, nửa hộp, tùy theo số tiền có.   Vì vậy, cuốn sách ra mắt trong bao nhiêu nỗi khó khăn,  hàng ngày, tác giả ăn 3 đồng xôi ;  ngồi vào bàn làm việc đến trưa,  có khi chiều, rồi đợi hàng bún riêu rong đi qua ăn tạm 1 tô đỡ đói lòng, hoặc mua  bánh mì  vừa ăn vừa  tiếp tục làm việc tới 12 khuya.   Sợ hàng xóm la lối , tôi tháo trần chiếc máy chữ ra, đặt trên nó trên chiếc chăn nhà binh,  giảm bớt tiếng ồn .

     Một hôm,  hết giấy stencil, đi lang thang tìm cách có tiền  mua đánh máy tiếp  - thì gặp anh bạn già , anh ta đang theo học ở  đại học Văn khoa, theo lối auditeur libre.  Anh ta biết tiếng tôi, vì viết ở tạp chí Văn hóa Á châu mà chủ nhiệm là Khoa trưởng  văn khoa Nguyễn Đăng  Thục.  Anh ta rủ tôi về nhà anh để nói chuyện văn nghệ cho vui.   Tôi theo anh về ngõ  Bùi Viện , nơi đó anh ở  một mình , với chồng sách báo cũ.  Tôi biết anh có tiền  - sáng hôm sau, tôi định tâm dậy thật sớm để lấy.  Thực hiện xong, chuồn về nhà trọ, đồng thời , viết  mảnh giấy để lại.  Anh còn 500 đồng, tôi lấy hết, đi thẳng ra hiệu mua nguyên 1 hộp  giấy  xáp ( stencil ), bất chấp sự thưa  kiện , tôi chỉ cần có tiền để thực hiện bằng được  tập  sách kia xuất bản.  Tự nhủ rằng, lúc viết  bộ sách phê bình văn học  này, ngoài việc lấy trộm 1 số tiền   " nhà triệu phú Trần Hoài "  ở Cap Saint Jacques  , mà lần ra ngoài ấy - tôi còn nhớ rõ - anh bạn ký giả  Văn Nhân  cho tôi  ăn ngủ  tại nhà anh ít ngày, khi tôi thiếu nợ tiền ăn, tiền nhà ở Xóm Chùa - Tân Định - để yên ổn viết tiếp tập  Nhà văn khàng chiến trong bộ sách phê bình kia.   Tuy  bị vận sui, đứng, ngồi không yên ,  thiếu nợ, chưa biết đào đâu ra tiền.   Khi  nói với Văn Nhân,  tôi  sẽ đi Vũng Tàu, anh ta bèn giở cỗ bài tây xem bói,  cho biết,  tôi sẽ có tiền trong lần đi này.    Quả là  tôi có tiền thật,  đó là " đạo" món tiền để dành  triệu phú Trần Hoài .  Nghĩ tới chuyện này, tôi bụm miệng tự cười  mình  mãi.   Khi  có tiền rồi, tiếp tục ngồi đánh máy , đâu đó  ngoài 200 trang  giấy xáp, đánh xong, lại chẳng còn tiền mua giấy duplicateur  thuê in.   Nghĩ đi nghĩ lại,   liền chạy tới tìm thiếu tá  Phạm Văn Sơn , nhà viết sử, lúc đó anh đang là  chỉ huy trưởng trường Quân báo Cây Mai - gặp anh rồi, tôi  xin được  chục  rames giấy
duplicateur,   đưa ngay  giấy tới  nhà  in ronéo trên đường Nguyễn Thiện Thuật .  Chủ nhà in ronéo cho biết,  chưa đủ giấy in 100 cuốn cho tập Nhà văn hậu chiến 1950-1956 trên 200 trang, khổ giấy 21 x 33.  Và hiện tại tôi chưa biết xoay đâu ra tiền  trả nhà in  nữa.   Tiền bìa in ty-pô, Nhật Tiến cho 300 đồng, coi như  đủ.   Cũng rất may mắn,  cậu chủ nhà  in ronéo là  học trò cũ  nhà văn Nhật Tiến,  sẵn sàng cho in chịu, không phải đặt tiền trước, hình như tôi chỉ mới  tạm đưa  trước  được 300 đồng thì phải ? Cậu bảo tôi đưa nốt số giấy in còn thiếu , đâu đó  chục  rames .

       Tôi  lại tìm gặp thi sĩ Chế Vũ ( lúc sinh tiền ) để xin chi viện, nhưng anh cho  biết sắp ra thơ,  chẳng còn biết vay ai đây ?   Anh nhờ tôi  tìm nhà in  nào in đep, mà  rẻ, lại nhanh càng tốt, và  tất nhiên  sẽ phải đưa tiền  đặt cọc nhà in .  Rắp tâm,  có tiền đặt cọc kia, tôi sẽ mượn đỡ trước một khoản nhỏ để mua giấy duplicateur .  Và rồi,  anh ta không dại gì giao tiền đặt cọc nhà in cho tôi ; mà anh buộc tôi đưa tới nhà in  để anh giao thẳng  chủ.  Tôi đành chịu trận thất bại , định  chặn lai ít tiền đặt trước  như dự tính ban đầu.   

       Song lại có một may mắn  khác, khi Chế Vũ trao tiền tạm ứng  rồi,  chủ nhà in  bỏ vào ngăn kéo,  chưa kịp khoá lại,  đi ngay   xuống  xưởng  in.  Tôi  đang  ngồi  sửa   lại maquette  mẫu tập thơ ,  kịp  đưa cho nhà in.  Gặp cảnh này, nhìn trước nhìn sau không có ai, tôi mở ngăn kéo rút đại một ngàn.   Chủ nhà in đi ra  , nhận tập maquette, và cảm ơn  đã giới thiệu  tác giả đem thơ in  ở đây.   Tôi ra về,  mua thêm mấy rames giấy duplicateur ,  lại   thẳng ngay  tới nhà in ronéo. 

      Lần sau trở lại nhà in sửa bản  mo- rát , chủ nhà in  hỏi tôi, liệu còn nhớ,  buổi  Chế Vũ đưa tiền đặt trước ,  là 3, hoặc 4 ngàn đồng ?   Lắc đầu như không  biết , tiếp tục sửa morasse  tập thơ Khát Vọng  / Chế Vũ  .    Hẳn là chủ nhà in Thư Lâm ấn thư quán , nếu  sau này, ông ta  đọc tập  tự-sự-kể này,  hẳn  đã dược trả lời chậm về số tiền 3, hoặc 4 ngàn mà Chế Vủ đặt trước  , mà 6, 7 năm trước đây  đã hỏi tôi.   Cuối cùng, tập " Nhà văn hậu chiến 1950- 1956 " cũng  phát hành được,  sách bán khá chạy,   giá  đắt: 200 đồng / cuốn , so sánh lương công chức hạng thấp nhất ,  2000 đồng / tháng . 

    Tôi còn nhớ,  sách chưa phát hành, tạp chí Bách Khoa đã đăng quảng cáo 1/ 2 trang ủng hộ, nên , văn sĩ Triều Đẩu chạy tới  nhà xuất bản Huyền Trân,  ở 504 đường Hồng Thập Tự ( Saigon 3 )  đưa 200 đồng  mua 1 cuốn và muốn được gặp mặt  tác giả.  Cô Đỗ Thị Chi, em vợ nhà văn Nhật Tiến  thấy tướng tá  đọc giả kia   bậm trợn , hệt an ninh chìm ,  trả lời  sẵng giọng:

         "... ông ta đi vắng rồi, sách in có giấy phép Bộ Thông tin đàng hoàng, hai ba ngày nữa ông trở lại mới có sách ".   

       Cô Chi kể lại, một đọc giả khác từ  miền Trung  vào, hỏi , tại sao nhà xuất bản Huyền Trân in  sách  Thế Phong ?   Vì tôi, một người được  chính phủ lưu ý, còn viết sách chính trị *  , tất nhiên sẽ mang lại nhiều hệ lụy tới nhà xuất bản. Cô Chi là công chức,  không sợ sệt, trả lời, mua sách thì đợi vài ba ngày nữa; còn hỏi chuyện  lăng nhăng xin miễn , mời ông khách lạ ra khỏi nhà cho; nếu không  sẽ  gọi  cảnh sát.  Sách tuy in ronéo, nhưng có giấy phép   hẳn hoi;  tại sao chính phủ lại  phải  lưu ý tác giả ; vì nếu tác phẩm phạm đường lối chính trị , hẳn Nha Thông tin  Nam phần  đã chẳng cấp phép ?  
-------
*  Muốn hiểu chính trị hay Tổ chức chính trị thế giới  / Thế Phong /  Hà Việt  Phương 
( Nguyễn Đức Quỳnh ) viết Tựa / Thế Giới xuất bản, Saigon 1955 . 
--------
    Anh chàng lạ mặt từ miền Trung kia  đành xin phép rút lui.    Tôi đem " Nhà văn hậu chiến 1950- 1956" đi phát hành ở đường Lê Lợi,   lại đối mặt với  ông bạn già có cửa hàng bán bánh kẹo, học đại học Văn khoa theo lối auditeur libre kia,  người đã bị   tôi " đạo" 500 đồng "-   tôi đành  bấm lòng ký  tặng  1 cuốn và hứa sẽ trả lại anh, khi sách bán được.   Thâm tâm tôi không muốn ký tặng , nhưng không muốn  này, sẽ bị  làm khó dễ , thôi,  thà tặng  sách  là cách tốt nhất, cũng là tạ tấm lòng tốt  anh ta  .  Anh cũng như nhiều người khác , tôi chưa bao giờ trả  được nợ , ngoại trừ những dòng chữ bội bạc  này.

    Thấy sách bán khá chạy, tôi nhất định cho in tiếp toàn bộ Lược sử văn nghệ Việtnam , bất chấp có giấy phép hay không ?    Tôi lại ghi số giấy phép ma vào sách, vì khi tôi làm ủy viên Báo chí tổng trưổng thông tin , tôi đã xin phép sẵn một lô giấy phép, bây giờ  chỉ điền số kiểm duyệt vào cuốn nào  muốn  xuất bản.   Không có cách nào truy nã tôi cả, dầu ông Hoàng Nguyên  rất thủ đoạn, nhiều mánh lới  đi nữa !  Sách tôi xin kiểm duyệt chỉ nộp 1 bản , không có  bản thứ 2 lưu tại nha, sở ,thì lấy gì để  truy  ra nguyên bản ?    

    Khi xuất bản Nửa đường đi xuống,  giấy phép  mang số 300 TXB do Nha thông tin Nam phần cấp ngày 19 tháng 3 năm 1956 - thực ra , đó là  giấy phép cuốn truyện  mang tựa Hình ảnh một đám cưới.   Sách Nửa đường đi xuống lưu hành , bán ở ngoài phồ, ông chủ tịch Hội đồng Kiểm duyệt Hoàng  Nguyên đành chịu thua, chỉ còn cách yệu cầu  công an tịch thu sách ,  cùng buông lời  dọa dẫm  người bán mà thôi.   
  
    Nhạc sĩ Phạm Duy nhìn thấy Nửa đường đi xuống bầy ở tủ kính nhà sách Portail 
( Xuân Thu ) trên đường  Tự Do ,  chân dung ảnh tác giả ở   bìa 1,  chiếm khoảng diện tích 21 x33, giá 200 đồng / cuốn , anh ta  nói lớn " đại văn hào đây rồi ! "   ngay khi gặp, ở  trước quán La Pagode

      Một  ông  Tàu * chuyên mua sách cũa tôi  cho biết, công an  tới  tiệm   sách  hỏi giấy  - tôi đành biên cho  anh ta, sách  có  giấy phép của Nha  thông tin cấp , tôi  giao cho anh ta phát hành và  được quyền tàng trữ những tựa  sách, in   rô-nê-ô,  do Đại Nam  văn hiến  xuất bản.    Sau này, một nhân viên kiểm duyệt tại Bộ thông tin bị thuyên chuyển sang ngành khác, cho  biết, ông Hoàng Nguyên đề nghị bỏ tù tôi; nhưng , nếu vậy, chỉ  làm cho cộng sản  có đề tài tuyên truyền,còn  nếu đưa tôi ra tòa án, sách tôi có giấy phép,  tất  sẽ  bị vô hiệu hóa .  
--------
*    Ông Vinh, chủ nhà sách Đại Hưng trên đường Cao Thắng ( Saigon 3). 
-----
      Một buổi,  chủ nhà xuất bản  Nguyễn Đình Vượng *  liên lạc với tôi, họ  dự định in tự-sự-kể  Nửa đường đi xuống - như thiếu tá Lê Đình Thạch  chủ báo quân đội  cho biết, đó là do sự  đề nghị từ  văn sĩ Nguyễn Mạnh Côn  ( sau lần  tranh luận văn chương về cuốn sách  Hoàng  Trọng  Miên" đạo" sách Nguyễn Đổng  Chi ở Hànội ).  Tôi đến 38 Phạm Ngũ Lão,  gặp  ông  Vượng , tôi đồng ý  cho họ  xuất bản, vậy  nhà xuất bản  đứng tên  xin kiểm duyệt đi, được phép hãy báo tác giả  , rồi  sau đó sẽ  ký giao kèo .  Lẽ, tôi biết trước, sẽ chẳng bao giờ được cấp phép, bởi, trong tự-sự-kể kia lên án một xã hội no ấm trong sự phồn thịnh giả tạo.   Tới mấy năm sau, tôi vẫn không nhận được hồi âm  từ  chủ nhà xuất  bản Nguyễn Đình  Vượng.
------
*  còn là chủ  tạp chí  Văn, thuê Trần  Phong Giao, Mai Thảo, Nguyễn Xuân Hoàng  thay phiên làm thư ký tòa soạn.  Một điều lạ nhất  đối với tôi,   văn sĩ Nguyễn Mạnh Côn  , " thầy văn chương " của  
Trần Phong Giao , sao tay này  gợi ý cho nhà xuất bản Nguyễn Đình  Vượng in tự-sự-kể Nửa đường đi xuống của tôi ?   Làm vậy, anh ta sẽ không sợ phật ý " tay em văn chương "  còn là   nhân vật tiểu thuyết  qua vai" nhà triệu phú Trần Hoài ?" trong  " Nửa đường đi xuống "  ? 
-----
      Tiếp theo Nhà văn hậu chiến 1950- 1956  phát hành, báo Journal d' Extrême Orient   viết :  

    ":... Après "Việt Nam Văn Học Toàn Thư ", oeuvre  de longue minutieuses recherches de l' auteur Hoàng  Trọng Miên , la littérature vietnamienne  s' enrichit avec " Lược  Sử Văn Nghệ Việtnam "  par  Thế Phong.  Un abrégé d' histoire des lettres vietnamiennes commenté  par  les écrivains d' après guerre, utile à l'élite intellectuelle.  Cette ouvrage est tiré sur ronéo. "

       nhật báo Ngôn Luận,   báo Tầm Nguyên , tạp chí Bách Khoa, Văn hoá Á châu  nồng nhiệt giới thiệu  trên báo - còn  nhà văn học Nguyễn Hiến Lê,  có thư riêng :

       "...  nhưng đả mạnh là những người sung sức như anh.  Nên là chuyện thường (...) Những nhận xét của anh về Triều Sơn, Hoàng  Thu Đông [ Hoàng Trọng Miên ] đều đúng cả.  Đó là những nhận xét của tôi ... "   

         thừa thắng xông lên, tôi cho xuất bản tiếp  " Nhà văn tiền chiến 1930- 1945 " .

       Lần này có máy chữ  tốt   tòa soạn Văn hóa Á châu, tôi đánh máy đẹp hơn in rõ ràng, sáng sủa.   Sẵn tiền phụ cấp của Văn hóa Á châu đài thọ,  đâu đó 1000 đồng tiền trông coi nhà in + tiền bài mỗi số -  có tháng tôi được lãnh  4  nghìn đồng, cuộc sống khá thoải mái.   Tiện dịp, tôi  xin  trả lời chung , có người kêu ca , sách in ronéo lem nhem, chữ còn, chữ mất, mực in  chữ có chữ không  - những  đọc giả này làm sao biết được lý do kỹ thuật đớn đau được hòa bằng máu + mồ hôi mặn , chỉ vì  không đủ tiền in , phải chạy từng đồng bạc.   

        Khi cho xuất bản thi tập " Nếu anh có em là vợ "  không  đưa đi kiểm duyệt, không đề giấy phép ma nữa , song , nơi trang 4 ghi hàng chữ : " Phụ  bản đặc biệt của tạp chí " Sinh Lực" , và  câu chuyện khai chiến với chính quyền bắt đầu khởi sự.

     Trích  một đoạn  văn đã viết về giai thoại này , đã cho in trong một cuốn khác *  
khi đó   chẳng còn sợ hãi nữa, tôi  công khai in sách không kiểm duyệt, bất chấp  luật lệ  dân chủ pháp trị .  Cũng may, sách bán chạy, các hiệu, quán sách đều nhận cả .  Quán duy nhất  bán nhiều nhất- quán sách, báo  cô Nguyệt - ở góc đường Công Lý +  Lê  Lợi.

        Giai thoại đó bắt đầu  khi nhận công văn thượng khẩn :

-------
* trong cuốn MƯỜI NĂM VĂN NGHỆ / THẾ PHONG , Đại Nam văn hiến xuất bản , Saigon,  tháng 4- 1963- tr. 57. 58 và 59.
-------- 

VIỆT NAM CÔNG HÒA                                  
     BỘ THÔNG TIN                                    Saigon ngày 4 - 12 - 1959 
 79- 81 Phan Đình Phùng                            GIÁM ĐỐC NHA THÔNG TIN BÁO CHÍ 
      SAIGON                                                      
            *                                                          Kính gửi  Ô. Ô . -  VÕ VĂN TRƯNG
                                                                                                - THẾ PHONG 
    D.T. : 21696                                                Số 249 ,  Nguyễn Thiện Thuật 
Số  / 5411 / BTT / BCI                                                    ( Báo SINH LỰC )  
    THƯỢNG KHẨN                                                                 SAIGON 
        
                                                       Thưa quý Ông, 

                                   Trân trọng mời quý Ông đến  Nha tôi  vào hồi 9 giờ ngày 5- 12- 1959 để tôi được thưa
                                   chuyện về một av2i chuyện cần. 

                                                                                             Kính thư 
                                                                              K.T Giam Dốc Nha Thông Tin và Báo Chí
                                                                                            NG. V. N
                                                                                          ( đã  ký và dấu ) 

       Khởi đầu bằng công văn  thượng khẩn  này, tôi sẽ kể sơ lược  giai thoại  về cuốn thơ " Nếu anh có em là  vợ "  phát hành.  Thứ nhất,  cuốn thơ mang tên hết sức là  tình ái.  Chủ  nhà xuất bả  Thế Giới từng in mấy trăm tựa sách văn  nghệ có tiếng  từ  Hànội , rồi   Saigon , nay  muốn in thành sách, nếu có giấy phép - vì nhà xuất bản của ông chưa in 1 tập thơ nào.  Và " Nếu anh  có em là vợ " được in ra ,  sẽ là tập thơ bán chạy đấy " - ông Nguyễn văn Hợi nói vậy  !

     Vậy thì, ông nhìn theo nhỡn quan nào, chủ nhà xuất bản đầy kinh nghiệm , hoặc ,  ông tin  rằng  tập thơ sẽ bán khá chạy như cuốn Muốn hiểu chính trị của tôi mà ông đã in từ 1955.  Báo  pháp ngữ  dịch " Si vous m' aviez pour femme " - hình như đây,  câu nói từ người đàn bà với người đàn ông ?  Còn ý tác giả  lại khác  : lời  người đàn ông nói với người đàn bà  .  Cứ thử suy diễn ngược xem sao ?  Nêu  tác giả sai, vẫn được quyền nói, không ai dám cãi *  .   Và thiếu nữ Việt dưới triều đại  bà  Trần Lệ Xuân mặc áo  dài hở cổ rộng cũng chưa chắc dám nói :  " nếu anh có em là vợ "?  Ông Hợi nghĩ đến lối nói trao tình ái, ban đầu còn e dè, sao có thể nói  thành lời - theo ông - họ sẽ mua tập thơ này thay lời muốn nói, gửi  cho nhau ,   không cần nói gì cả, vẫn ý  nghĩa - hoá ra lại nói được nhiều hơn  điều cần nói : 

      " Si  vous m' aviez pour femme" tel est le titre évocateur d'un  florilège poétique, en tout une soixante  de poèmes dans lesquels le jeune auteur se plai^t à traiter  de thèmes fort varíés : l' amour, les songes et rêveries, la sottise et l' injustice humaines , etc ...avec beaucoup de  sensibilité, d' imagination et aussi avec une finesse, spirituelle d ' observation qui dénotent chez Thế Phong de louables efforts et une vaste culture.
      L' inspiration est plus varíée que dans des précédents ouvrages, prenant tour à tour le ton  d'une causerie et d' une confidence.
     Les noms de Nietzsche, Stendhal, Maxime Gorki inspirent l' auteur qui témoigne de son humanisme et de sa sensibilté. 
      JOURNAL D'EXTRÊME ORIENT  ( Saigon, le 3 Decembre, 1959) 

                                                                                 ( còn tiếp )
      Thếphong 

   

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

nhà văn hậu chiến 1950- 1956 - thế phong - 12



                                 nhà văn hậu chiến 1950-1956    12 
                                               thế phong

                                                   Tiết 4.
                                                 TIỂU MỤC

     1.- SONG NHẤT NỮ  ( 1927- 1977)
      Tên thật  Đặng Bá Ngữ.  Sinh năm 1927, qua đời 1977 tại Hànội.  Năm 1953,  đồng tác giả  cùng  Nguyễn Quốc Trinh, Nguyễn Ngọc Dương, Hoàng Phụng  Tỵ   trong thi
 phẩm Nhựa mới  " . Viết bài đăng trên tạp chí Quê Hương, Giác Ngộ, Cải Tạo, Liên Hiệp( Hànội) , tuần báo Đời Mới ( chủ nhiệm : Trần Văn Ân) , Nguồn sống mới (  Cn: Nguyễn Hữu Pha. Saigon ). Thơ truyền cảm, sử dụng nhiều bài lục bát, qua nội dung  tranh quê, hoặc tình cảm người thị thành .

    Trích thơ .
                                          QUÊ EM 
                                                          Chiều chiều lại lắng lòng quê
                                                                        Khói bay sóng vỗ ủ ê nỗi sầu
                                                                (TẢN ĐÀ dịch THÔI HIỆU )

                            Quê em tận cuối trời xanh thẳm
                            Cách biệt kinh đô những dặm đường 
                            Qua mấy con đò .. xa quá lắm !
                            Nhiều nhiều thôn nữ dáng thương thương 

                            Quê em náo nức cùng xuân mới
                            Lụa dệt thơm thơm tựa cốm vòng
                            Bao nhiêu cô gái xuân chờ đợi
                            Người về ... khăn thắm đón sang sông

                            Quê em dù nắng hè oi ả 
                            Bão táp phong ba vẫn đẹp bền 
                           Quanh thôn sông lượn hình con cá
                           Từ chùa xuống chợ cuối làng bên 

                           Quê em cứ mỗi mùa thu đến
                           Là hội chùa trên rộn  trống chèo 
                           Đoàn trai lao mình qua mấy bến
                           Reo hò cố giật giải làng treo .
                     
                                     SONG NHẤT NỮ 

          2.- HOÀNG PHỤNG TỴ  ( 1929- 197 ? Hànội)
           Sinh năm 1929 . Anh ruột của nhà thơ Hoàng Song Liêm, Như Song nhất Nữ, là  1 trõng tác giả tập thơ "  Nhựa mới "  ( Hànội 1953) .  Cuối 1953, cho xuất bản tập thơ 
riêng   " Hương thơ mùa loạn " .  Thơ phản ảnh đời sống quân nhân, có bước chân trên đường hành quân, hình tượng sống  dân đô thị .  Với Song nhất Nữ, đọc thơ ông , thì yêu  vườn khoai, nương sắn, chẩy hội chùa ,kéo co nơi đình hội - còn  thơ Hoàng Phụng Tỵ là thơ công thức, sáo mòn , và  thường  thấy đăng trên tạp chí văn học ở Hànội và Saigon : Quê Hương, Giang Sơn, Thẩm Mỹ .. đa số bài thơ  cũ  rích,  kể cả nội dung lẫn hình thức. 

         Trích thơ .-

                                      TƯƠNG BIỆT DẠ 

                            Say một đêm nay cạn rượu nồng
                            Ngày mai lên ngựa ruổi mông lung 
                           Cuộc đời quên nỗi niềm cay đắng
                            Nuôi chí trai vung lưỡi kiếm hồng 

                           Quen với trăm phương lạc hướng tình
                           Xóm làng vẫn những lũy tre xanh 
                           Những nàng quẩy nước qua thôn vắng 
                           Khuất bóng vào sau những mái tranh 

                           Say kiếp giang hồ say gió trăng 
                          Quê hương khắp nẻo nhớ muôn nàng
                           Rượu hồng ai uống đêm nao nhỉ  ? 
                           Ai chuốc men nồng, anh nhớ chăng ?

                           Say một đêm nay chăn gối ấm
                           Ngày mai người của núi sông rồi
                           Chiều nơi quan ải say trong quán 
                          Anh có buồn chi có nhớ tôi ?

                                          HOÀNG PHỤNG TỴ

    3. HOÀI VIỆT  .- Tên thật Nguyễn Hoài Việt.  Không rõ năm sinh.  Lớp  người cầm bút  sót lại từ  giao thời tiền-kháng-chiến, sống ở Hànội  vào thập niên 50 với Đinh Hùng, Trần Thanh Đạm, Huyền Quang, Trương Uyên ... Thơ đăng rải rắc trên báo chí thủ đô Hànội.   Đề tài thơ lấy từ nguồn cảm hứng nông thôn, và bản thân người thơ  gốc thành thị .   Thơ Hoài Việt, như một lối nói khác :  "  thơ đủ để được gọi là  thơ ", thơ chưa có gì nổi trội, đủ tạo  cho có một bản sắc riêng.

     Trích thơ .- 

                                       VỠ ĐẤT 

                             Hai đứa mình hẹn nhau 
                            Thuở còn xanh mái tóc
                            Sau này khi bỏ học
                            Trở về vun luống cày thơm
                            Cả hai từ giã nhà trường
                            Mỗi thằng đi một ngả 
                            Anh về cầy trưa bắc mạ 
                           Tôi đi cầm bút cùng người
                           Trán anh bóng giọt mồ hôi 
                           Tóc tôi bạc ròng năm tháng 
                           Ruộng lúa nhà anh đầy ánh sáng
                           Bốn mùa hoa cỏ reo vui 
                           Anh cầy vỡ đất,  anh hát yêu đời
                           Đất anh bàn tay anh giữ 
                          Anh bẻ bắp cây đuổi loài muông thú 
                          Thân anh cao đẹp lạ lùng 
                          Bỗng dưng tôi thấy sượng sùng
                          Bút tôi không buồn viết nữa 
                          Đất tôi không còn  để vỡ 
                          Luống cày nay đã cằn khô
                         Cỏ xanh rạp xuống quanh bờ 
                         Mạ còn úa thành cây lụi
                         Nhớ lại ngày xưa kề vai sớm tối.

                         Còn gì nói câu sư nghiệp 
                         Còn bận gì chuyện sới vun 
                         Ruộng tôi nay đã không còn 
                         Bài ca vỡ đất nghe buồn vô biên .
                 
                                HOÀI VIỆT  


     4.- HOÀNG SONG LIÊM  ( 1933 -       )

    Sinh năm 1933 ở Hànội. Bạn văn đồng lứa   Tạ Quang  Diễm ( Tạ Quang Khôi sau này ) , Nguyễn Thiệu Giang, Nghiêm Huy Giao .. .Năm 1954, xuất bản  thi tập "  T " cùng Nghiêm Huy Giao ( Hànội 1954) . Đó là tập thơ của  học sinh vừa rời  trườngtrung học, sửa soạn bước vào đời.  ( Quyển vở kỷ niệm ). và chẳng bao lâu, bước vào quân ngũ, hình ảnh chiến binh bộc bạch trong bài thơ " Tôi là anh lính chiến "  - loại hình thơ công thức, nội dung tâm lý chiến.    
     Bài   " Gửi ngưới chị phố phường"     một  bài thơ hay, đóng góp cho  thơ tự do  của nền văn học thời hậu chiến. 

           Trích thơ .-

                              GỬI NGƯỜI CHỊ PHỐ PHƯỜNG 
  
                         Phố phường khóc nhớ quê hương 
                         Quê hương nằm nhớ phố phường
                         Chị nhớ em 
                         Em nhớ chị
                         Xa nhau dài mấy thôi đường 
                         Thư nào kể siết niềm thương
                         Hỡi người em của chị 
                        Trời dịu 
                        Mây hiền
                        Làng xanh
                        Ruộng vàng 
                        Sóng trắng 
                        Lá đỏ sang ngang
                        Hai vụ chiêm mùa
                       Mấy tuần sương nắng
                       Gieo hạt  mạ đầy tay 
                       Đổ bao sức vóc trọn ngày 
                      Tát mấy đêm trăng thanh nước mắt 
                      Gặt vài buổi nắng đỏ sàn phơi
                      Ấm no bằng giọt mồ hôi
                      Nằm nhà tranh hát cuộc đời thôn trang 
                      Thị thành của chị
                      Một lần em qua 
                      Chao ôi !  Lửa điện sao  lòa chói
                      Xe cộ phồn hoa
                      Bụi cát mù
                     Chị ơi ! Son phấn đêm tàn lửa
                     Hướng cũ phai dần hoa tuổi xưa 
                     Những khách du nằm chờ tiễn biệt
                     Vội vàng yến tiệc
                     Ép duyên mơ
                     Kỹ nữ gương say hồng má đỏ 
                    Đàn ca nhịp mãi điệu giang hồ 
                    Tay trắng đổ nghiêng tiền bạc trắng
                    Cuộc đời  theo chuyện vu vơ 
                    Chị gối tay bao khách lạ lùng 
                    Ngỡ ngàng chị có đoái em không ? 
                    Em thường ao ước thường mong đợi 
                    Chị lại về đây với ruộng đồng
                    Thương chị bao nhiêu 
                    Chẳng gửi ai mà đưa tới chị 
                    Chị khi nào gặp lại em
                    Đêm nay ngồi ngóng về đô thị
                    Nghe gió xa về cũng đau 
                    Em lần giở tấm áo nâu 
                   Sờn vai sương nắng bạc mầu tuổi thơ
                   Bao giờ lại đến bao giờ ?
                   Chị về chiếc áo năm xưa quê nhà .

                              HOÀNG SONG LIÊM

     5.- TRẦN NHÂN CƯ

     Chưa tìm được  tên thật, năm sinh, lai lịch tác giả.  Chỉ biết  vào 1953, trên tập san
 " Nhân Loại "  (Saigon ) - thì Trần Nhân Cư xuất hiện  qua đôi bài, giọng hoài cảm quá vãng, hồn thơ ngọt ngào; như hơi hướng thơ Lưu Trọng Lư  qua  bài " Nhớ Mẹ" thời  tiền chiến.  Đưa phương danh Trần Nhân Cư vào văn học hậu chiến,  ý  nghĩa đầu tiên của tôi là nhớ đến trường hợp Xuân Tiên , chỉ cần một đôi bài  in trên báo  " Hànội tân văn "
 ( Vũ Ngọc Phan chủ trương) đã  tạo cho Xuân Tiên nổi tiếng.  Đó là bài " Lá rụng"  có những câu thơ đẹp, như :

                         " Một chiều ngồi nghỉ gốc bàng
                         Thấy chưa, gió mạnh, lá bàng đã rơi
                          Mênh mông buồn mãi lòng tôi
                          Vẩn vơ nghỉ ngán cho đời phù vân ..." 
                                  XUÂN TIÊN 

   với Trần Nhân Cư là bài " Nhớ quê"  trích dẫn dưới đây .  Cũng như  Yên Thao chỉ cần  một bài  thơ " Nhà tôi " , hoặc Hoàng Lộc , là bài " Viếng mộ " ; hẳn Trần Nhân Cư chỉ cần một bài cũng đủ  đi vào văn học sử.

     Trích thơ .-    

                                             NHỚ QUÊ 

                           Tôi nằm đọc sách  buổi trưa
                           Nắng hè vẫn đổ nhạt thưa trước thềm 
                           Mẹ già lặng lẽ chỉ kim
                           Trên giàn thiên lý con chim yêu đời 
                           Dưới nhà rộn tiếng trẻ cười 
                           Thầy tôi bên  kỷ mài thoi mực tàu
                           Hương trầm  quyện lấy hương cau 
                           Lắng nghe trầm bổng mấy câu thơ Đường.

                           Giờ đây biền biệt cố hương
                           Nằm nghe gió thổi bốn phương quê người 
.
                               Trích tập san" Nhân Loại " ( Saigon )
                                 TRẦN NHÂN CƯ  

     6.- HUYỀN GIANG ( 1932 -   )
 Tên thật Đào Đức Chinh.  Sinh 1932 tại Hànội, Thơ đăng rải  rác trên  các báo Quê Hương ( Hànội), Thầm Mỹ ( Saigon ) , Văn nghệ tập san (  Saigon),  nguyệt san Phụng sự 
(  báo  quân đội ) ...  Trưởng nhóm thơ  , văn " Hoa Phượng ' ở Hànội vào thập niên 50, quy tụ một số cây viết, như : Băng Sơn, Vân Long, Huyền Vân ( nữ ), Hương Huyền   
 ( Lê Thị Hồng Châu ) .  Huyền Giang sử dụng thơ 5 chữ qua nhiều bài, thơ ngọt ngào, rung động, nhận thức về đời sống thâm trầm .

     Trích thơ .-

                                               NGÀY MAI HOA NỞ 
                                                    ( tặng T.P.)

                                        Kề bên những đầu xanh 
                                       Anh quê rừng Việt Bắc   
                                       Tôi học trò kinh thành

                                       Mây trời thương đổ máu 
                                       Mùa thu nào hòa bình 
                                       Bến Hải nhìn u uất 
                                       Hồn gương xưa Sông Gianh 

                                       Bài ca sầu nức nở 
                                      Ai khóc những đêm dài
                                      Đã từng đêm vấy máu 
                                      Trời thương đất chia hai 

                                     Anh lìa rừng núi Lạng 
                                     Chị quê xa Đầm Hà 
                                     Thương mây trời Yên Bái
                                     Nhớ Cao Bằng núi xa 

                                     Tôi giã từ Hànội
                                    Thương hoài năm cửa ô 
                                    Chiều bên bờ Sông Lũy  (*) 
                                    Nghe gợn sóng Tây Hồ 

                                    Gặp nhau rừng đất đỏ
                                    Nghe gió núi Trường Sơn
                                   Chúng ta nhìn ngọn lửa 
                                    Nung nấu những căm hờn

                                    Những bàn tay chung góp
                                   Dựng đôi mái nhà tranh
                                   Chúng ta cùng tạm trú 
                                   Chờ qua ngày điêu linh

                                    Núi thôi hờn vấy máu 
                                    Sông nối đôi khúc cầu 
                                    Ngày mai hoa nở đẹp
                                    Đất trời ca bên nhau 

                                  Chúng ta về quê cũ 
                                  Chị mừng trông Đầm Hà
                                  Anh say trời Yên Bái 
                                  Tôi nghe sóng Tây Hồ

                                  Thôi hoài năm cửa ô  . (**)

                                      ( trích tạp chí Văn nghệ tập san, Saigon )

                                                   HUYỀN GIANG

 --------
(*)    thuộc Phan Rí, Trung Phần. 
(**)  xin phép tác giả, được ghi tên tắt người được tặng.  Năm 1955, tình cờ 2 người bạn quen nhau từ Hànội,  gặp lại nhau ở Sông Lũy, cồn  cát một doanh trại  quân đội  CID / Centre d'Instruction Divisionnaire / Trung tâm huấn luyện sư đoàn    .   Khi đó,   đại úy Henri Guilleminot ( Quân đội viễn chinh Pháp  , chỉ huy trưởng  mời tôi lên chơi  tại  Sông Lũy - và   gặp bạn cũ -   thiếu úy Đào Đức Chinh,  mới tốt nghiệp  Trường Võ bị Thủ đức  .  
        tác giả làm bài thơ " Ngày mai hoa n"   tặng tôi, và sau, đăng trên tạp chí Văn nghệ  tập san ( chủ nhiệm: Nguyễn Đăng Thục ) .  (TP) .


     7.- VÂN LONG ( 1934 -      )

     Tên thật Nguyễn Văn Long.  Thơ đăng trên các tạp chí Quê  Hương  ( Hànội, Đời Mới 
( Saigon) ... Ngoài thơ, còn viết truyện ngắn - một truyện  ngắn " Đói" rất đặc sắc , đăng trên tuần báo Đời Mới ( cn: Trần Văn Ân ) .  Thơ Vân Long không mới, hồn thơ
truyền cảm, thể hiện tâm trạng thanh niên sống lạc loài giữa một xã  hội tù túng thị thành, vào đầu thập niên 50 .

     Trích thơ .-

                                  CHIỀU ĐỒNG NỘI 

                          Quán vắng sầu nghiêng một dáng mây
                          Đồng không lạc lõng cánh chim gầy 
                          Lúa e dè thẹn thùng trong chiều nắng
                          Ta uống hương đồng say ngất ngây.

                          Đi trốn kinh kỳ trốn phấn hoa 
                          Về đây đón gió một thời xa 
                          Tâm tư quạnh quẽ mầu thơ úa
                          Ờ nhỉ đâu rồi những tiếng ca  

                         Mến quá đồng quê cùng dáng lúa 
                         Ai giam ta mãi với đô thành ?
                         Bao giờ đồng ruộng vang lừng nhỉ 
                         Khúc nhạc yên bình trỗi ý xanh .

                              VÂN LONG
                       ( trích tuần báo  Đời Mới,  Saigon ) . 


     8.    BĂNG SƠN  ( 1932 - 2010  Hànội ) 

     Tên thật Trần Quang Bốn.  Sinh 1932 tại Hải Dương . Còn  ký Mai Băng Phương dưới những bài tạp bút, như :  " Sông dài "đăng trên tuần báo Đời Mới ( Saigon ) , Mạch sống ( Saigon )  và đăng thơ trên báo Thẩm Mỹ ( Saigon ) , Quê Hương ( Hànội ).  Băng Sơn có bút pháp đặc biệt trong loại hình tạp bút.  Văn không giống  bất cứ một ai khác.  Thơ, văn phản ảnh tâm sự buồn chán, khắc khoải -  thơ của lớp thanh niên  sống ở thành thị.   Băng Sơn thường sử dụng loại thơ 4 chữ, ý thơ nồng nhiệt, lời thơ bao hàm ý nghĩa nhân sinh sâu sắc, có lập ý cao.

    Trích thơ.-

                                       MỖI ĐỘ THU VỀ 

                                      Mỗi độ thu về 
                                      Sương mù lê thê
                                      Lá đan mành gió
                                      Lòng ta não nề

                                     Ngoài sông nước rộng 
                                     Bao kẻ ra đi 
                                     Ở đây đô thành
                                     Lòng ta tái tê 
                                     Hỡi khách phương xa 
                                     Còn nhớ lời thề 

                                    Mỗi độ thu về
                                    Nắng nhạt  hồn quê 
                                    Mây bay tản mạn  
                                    Tràn ngập sơn khê

                                    Ai nghe nức nở
                                    Của kẻ phòng khuê
                                    Hồn đang trĩu nặng
                                    Lệ thảm tràn trề
                                    Người chinh phu đi
                                    Không hẹn ngày về 

                                    Mỗi độ thu về 
                                    Sương mù lê thê
                                    Lá đan mành gió
                                    Lòng ta não nề .

                                 ( trích tuần báo Đời Mới,  Saigon )
                                     BĂNG SƠN

     9.- SONG HỒ  ( 1932 -     )

      Tên thật Nguyễn Thanh Đạm.  Sinh 1932 ở Bắc Ninh.  Bạn văn đồng lứa: Hiệp Nhân, Dương Vy Long, Tô Hà Vân ( Nguyễn Đình Toàn sau này ), Nhật  Tiến ... Viết văn, làm thơ, bài đăng trên tuần báo Đời Mới, Nguồn sống mới ( Saigon ) , Quê hương,Tia sáng
( Hànội ) ... v. v.  Thơ Song Hồ có hình tượng mới, truyền cảm, sử dụng  ngôn ngữ tài tình, nói như Rimbaud :  " thơ phục vụ cho con người và  con người chưa là tuyệt đối ";  ông đóng góp cho "  thơ tự do  "của  văn học hậu chiến không nhỏ. 

     Trích thơ .-

                                   AI VỀ MIỀN QUÊ TÔI NHẮN 

                                Ai về miền quê tôi nhắn 
                                Cho bóng người áo vải 
                                Rằng thành đô đổ nát đến nơi rồi 
                                Say thú vui khóe mắt làn môi
                                Đổ ngày tháng cho hung thần khoái lạc 
                                Ai đã trông mà lòng không tan tác 
                                Trẻ già trai gái 
                                Trụy lạc như nhau 
                                Mặc súng ngoài xa nổ
                                Gục mấy hàng cau 
                                Gục người mẹ 
                                Người cha 
                                người anh
                                người em 
                                Họ hàng thân thích 
                                Đây Hànội ! 
                                Trời mưa tuôn rả rích 
                                Bê bết bùn lầy, nước đọng nhớp nhơ
                                Đèn nê-ông tỏa ánh điện xanh mờ 
                                Nhạc cuồng loạn 
                                Gót giầy đinh lắc ván 
                                Một và  hai, trăm ngàn
                                Rồi đến vạn 
                                Đèn nhạt, đèn xanh, đèn tím đèn vàng 
                                Nhạc điên cuồng vẫn réo rắt reo vang 
                               Mầu biến đổi là lòng người biến đổi
                               Mập mờ và yếu đuối
                               Hiện dần trong bóng tối
                               Có bóng người con gái miền quê
                               Khăn yếm bỏ đi rồi
                               Làn tóc xoăn xoăn 
                               Đỏ mọng đôi môi 
                               Chiều thứ bẩy
                              Giầy đinh vang hè phố 

                             Ai về miền quê tôi nhắn
                             Cho bóng người áo vải 
                             Rằng thành đô đổ nát đên nơi rồi.

                                                                1954 
                                   ( trích tuần báo Nguồn sống mới, Saigon )
                 
                                            SONG HỒ. 
                                           
                                                                   ( còn tiếp )