Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2024

Có gì đáng chú ý ở phim tài liệu " THE VIETNAM WAR" / Tô Hoàng / Tp. HCM -- trích: Lê Thiếu Nhơn Blog/ tphcm.

 

Có gì đáng chú ý ở bộ phim tài liệu The Vietnam War?



Với “The Vietnam War”, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy: chính nghĩa thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại?


 CÓ GÌ ĐÁNG CHÚ Ý Ở BỘ PHIM TÀI LIỆU “THE VIETNAM WAR”?


TÔ HOÀNG


Khi nhìn lại cuộc chiến 10 năm chống Mỹ (1964-1975), có một số người vô tình hoặc cố ý ngắt đoạn cuộc chiến tranh này với cuộc chiến tranh chống Pháp (1946-1954); ngắt đoạn cả với thời kỳ “tìm đường cứu nước” của các vị tiên liệt Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… Vì vậy, tính chất khách qua, “điểm son “ đầu tiên nên giành cho hai tác giả Ken Burns và Lynn Novick qua bộ phim “The Vietnam War” chính là ở chỗ họ đã nhìn ra được mối quan hệ khắng khít giữa 2 cuộc chiến ấy.

“The Vietnam War” là phim của người Mỹ. Dĩ nhiên, theo cách lý giải của họ, cuộc chiến 1964-1975 là làm theo “cây gậy” chỉ đạo của Moskva và Bắc Kinh. Nhưng ngay ở tập 1 và tập 2, bằng hình ảnh, bằng lời dẫn giải, thông điệp chuyển tới người xem là: chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và những người cộng sự của ông (chứ không phải ai khác) đã giành được chính quyền với một Bản Tuyên ngôn Độc Lập và một ngọn cờ đỏ sao vàng.

Khi Pháp muốn lập lại ách đô hộ như cũ thì cũng chính lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng sự của ông dám tiến hành cuộc kháng chiến với chiến thắng Điện Biên Phủ “chấn động năm châu, vang dội địa cầu” - đòn đánh chủ yếu và quyết định, kết thúc chế độ thực dân ở Việt Nam. Vậy với lịch sử, hai cuộc chiến tranh ấy là một sự liên tục, nhắm tới mục tiêu giải phóng dân tộc.

Ở tập 1 của “The Vietnam War”, Jonh Kennedy khi còn là nghị sỹ cũng đã le lói hiểu ra điều này: “Những người Cộng sản dưới quyền Hồ Chí Minh cho rằng họ đấu tranh cho độc lập còn Pháp thì cố giữ lấy thuộc địa. Vì thế tôi tin rằng trước khi Mỹ có bất kỳ can dự nào, người dân phải được hưởng quyền độc lập và phải ủng hộ cuộc đấu tranh đó”. Những cựu quân Nhân Mỹ, trả lời phỏng vấn trước máy quay “The Vietnam War” cũng gần như thống nhất một điều: dần dà nhận ra họ đang chống lại một dân tộc quyết giành giữ độc lập cho xứ sở mình.

Người viết những dòng này, tuổi nhỏ theo cha mẹ lên vùng kháng chiến của Bác Hồ. Trở về Hà Nội sau ngày Pháp rút quân, theo học cấp 1, cấp 2, cấp 3. Chiến tranh chống Mỹ nổ ra, nhập ngũ. Đã có mặt tại mặt trận Bắc Quảng Trị- Khe Sanh vào 2 năm 1967-1968 ác liệt nhất; bước sang thời kỳ “phi Mỹ hóa” thì chuyển vào chiến trường Tây Nguyên. Bằng vài dòng vắn gọn như vậy, tôi vừa là người xem cũng lại là nhân chứng của những gì được miêu tả trong “The Vietnam War”.

Còn nhớ, ngay những năm 1955, 1956 chúng tôi đã cất tiếng hát “miền Nam em dừa nhiều, miền Nam em dứa nhiều”, đã đọc thuộc lòng bài thơ “Quê hương” của Giang Nam. Vào những ngày chủ nhật được nhà trường tổ chức cho đến thăm các bạn cùng trang lứa ở các trường “Học sinh miền Nam”, thăm các đơn vị của “các chú bộ đội miền Nam tập kết”. Đến cuối năm cấp 2 đã tháo bảng đen ghi lên dòng chữ phẫn nộ phản đối Luật 10/59, việc giết người bằng thuốc độc tại nhà tù Phú Lợi, để tham gia các cuộc tuần hành trên đường phố…

Tất cả những việc như vậy giúp chúng tôi hiểu rằng “đường cách mạng mới đi một nửa”. Những năm sau này, tham gia chiến đấu, chúng tôi biết vanh vách những tướng lĩnh chỉ huy giỏi nhất trên chiến trường như Lê Trọng Tấn, Hoàng Cầm, Hoàng Minh Thảo, Chu Huy Mân, Nguyễn An…đều là những trung đoàn trưởng, sư trưởng tài ba, quả cảm của chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Còn những “Việt Cộng nằm vùng” tại miền Trung hoặc Nam Bộ không ai khác, đều là những học trò xuất xuất của Bác Hồ như các ông Lê Duẩn, Phạm Hùng, Võ Chí Công, Trần Văn Trà…

Với “The Vietnam War”, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy: chính nghĩa thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại? Nhiều cựu chiến binh Mỹ kể lại một ấn tượng giống nhau: Nghe nói “Việt Cộng” ở nơi này nơi kia, sục tới toàn là dân thường. Lính Mỹ thật khó phân biệt đâu là dân đâu là lính “Việt Cộng”, “Việt Cộng” tác chiến không dàn tuyến mà “xuất quỷ nhập thần”…

Chúng ta hiểu, chỉ với một cuộc chiến tranh chính nghĩa, dựa vào dân, được dân đùm bọc, chở che mới có thể tiến hành tác chiến như vậy được. “The Vietnam War” không muốn hay không thể gọi thành tên, nhưng chúng ta nhận ngay ra hình thái của một cuộc chiến tranh nhân dân quen thuộc.

Tiếp nối qua các tập sau, từ hồi ức và suy ngẫm của các cựu chiến binh Mỹ tham chiến ở Việt Nam đến băng ghi âm của các tướng 4, 5 sao của Mỹ, các cố vấn Mỹ, các chuyên viên cao cấp của Nhà Trắng, hoặc Lầu Năm Góc khi luận bàn về tình hình chiến trường… Thật thú vị khi chúng ta thấy như sáng bừng lên trước mắt các phương châm chỉ đạo chiến lược, chiến thuật, các bài bản tác chiến, những ứng biến để đập tan các âm mưu đối phương của “Việt Cộng” và Hà Nội.

Ra quân trong trận Ấp Bác là lần đầu đối mặt với chiến thuật trực thăng thiết xa vận của Mỹ, Quân Giải phóng tìm tới được phép giải con người là quyết định chiến thắng, chứ không phải là vũ khí, trang bị kỹ thuật. Với chiến thắng Bình Giã là bài học có thể đánh tan các đơn vị chủ lực lớn của đối phương. Sau các chiến thắng ở An Khê, ở thung lũng Iadrăng, ở Pleime... Quân Giải phóng rút ra ngay bài học bổ ích: Phải bám thắt lưng địch mà đánh, mới giảm thiểu được độ sát thương của bom địch, pháo địch…

Những phương châm chỉ đạo chiến lược, những quyết sách lớn như “2 chân, 3 mũi”, tiến công quân sự- chính trị- ngoại giao phải hỗ trợ cho nhau, lấy yếu thắng mạnh, tự lực tự cường, đánh địch kết hợp với địch vận, lấy nông thôn bao vây thành thị… từ cơ quan đầu não trên R (Trung ương Cục miền Nam), từ Hà Nội- diễn tiến qua từng tập trong “The Vietnam War” đều như là những minh chứng rành rõ.

Nói về sức mạnh các phương tiện kỹ thuật Mỹ huy động vào cuộc chiến, phim “The Vietnam War” kể tới trực thăng, giang thuyền, thiết xa, bom napal… Phim còn bỏ sót pháo bầy, máy bay B52 ném bom rải thảm, đạn pháo 403 ly từ các pháo hạm của Hạm đội 7 ngoài biển bắn vào đất liền…

Trong phim nói, Trung Quốc và Liên Xô viện trợ cho Hà Nội và “Việt Cộng” những thứ vũ khí hiện đại? Chúng ta biết ơn sự ủng hộ của những người một thời cùng phe phái. Nhưng cũng phải nói lên những sự thật cho công bằng. Trung Quốc chỉ giúp ta quần áo, tăng võng, lương khô, xe tải “Trường Xuân”… tuyệt nhiên không chi viện vũ khí. Liên Xô chuyển cho Việt nam máy bay Mig, tên lửa SAM chủ yếu để phòng thủ và bảo vệ miền Bắc.

Với bộ binh, hình như ông Cos, ông Bre không muốn “nhẩy vào cuộc” dễ biến cuộc chiến Việt Nam thành chiến tranh thế giới nên chỉ chi viện xe tăng T.54, pháo 130 ly… là những thứ họ đã sử dung trong thế chiến 2. Máy bộ đàm PC Nga vẫn chạy bằng bình ắc quy, mỗi lần đi sạc điện là một lần đánh đổi bằng xương máu anh em.

Trước và sau Mậu Thân 1968, trên các chiến trường xuất hiện tên lửa Nga-Xô. Thực ra đấy là loại Cachiusa bắn giàn cũng được lính Xô Viết sử dụng trong cuộc chiến tranh 1941-1945. Chuyển sang Việt Nam, bắn bằng dàn lập tức máy bay trang bị rada của Mỹ phát hiện ngay. Chúng ta nhấc quả đạn ra khỏi dàn, vác lên vai, vào trận địa, đắp ụ đất đo kỹ góc nivo và phóng đạn đi...

Đặt lên bàn cân những điều kiện bảo đảm chiến tranh quả là quá nghiêng lệch, nếu tổn thất về phía ta có lớn hơn cũng là điều dễ hiểu. Khi tướng Wesmolen báo cáo về Mỹ tỷ lệ tốn thất sinh mạng ta 10, Mỹ 1 thì người dân Mỹ gào lên “Họ chỉ cần biết tới số 1”!

Phía mình, biết bao nhiêu giọt nước mắt của các cấp chỉ huy chiến trường đã rơi trên các trang tổng kết trận đánh, hoặc sau này trên những trang hồi ký, nhưng tất cả đau khổ, xót xa ấy được an ủi bởi cuộc chiến đấu dữ dội, nhiều mất mát kia đã đạt tới mục đích cuối cùng: Độc lập và Thống nhất!

Ghi lại mấy đoạn từ “The Vietnam War”:

Thiếu tá Mỹ Charles A. Beckwith, “người hùng” thời chiến tranh Triều Tiên sang Việt Nam được đồng đội đặt cho biệt danh “Charles xông pha”. Nhà báo Mỹ Joe Galloway đi theo ông ta tham dự các trận Ia Đrăng, Pleime, sau trận đánh nhà báo có cuộc phỏng vấn nhanh:

-J. Galoway: Quân Việt Cộng mà ông đánh ở đây là loại lính thế nào?

-Charles A. Beckwith: Tôi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để có được 200 người lính như họ.

- J.Galoway: Tức là những người lính Việt Cộng?

-Charles A. Beckwith: Đúng đấy! Họ là những người lính giỏi nhất mà tôi từng thấy. Họ tận tâm và thuộc loại cừ khôi. Tôi chưa từng thấy lính nào giỏi như họ.

Merrill McPeak, khi lái máy bay tiêm kích đánh phá đường Trường Sơn, mang hàm thiếu tá. Sau khi rời Việt Nam, ông ta tiếp tục phục vụ trong quân ngũ lên tới hàm tướng, với chức Tham mưu trưởng Không quân Mỹ. Trong “The Vietnam War”, ông kể lại: Bằng phương tiện quan sát hiện đại gắn trên máy bay, ông ta có thể trông rõ từng vạt cây ven đường rừng phủ bụi, từng khúc đường ở suối lên ướt nước, chứng tỏ có xe vận tải chở súng đạn của “Bắc Việt” vừa chạy qua. Rằng, ông ta săn những chiếc xe ấy như săn “những chú thỏ chạy dưới ánh đèn rọi”. Bắn nhiều rocket, thả nhiều bom đến như vậy, nhưng không lực Mỹ không tài nào ngăn nổi sự vận chuyển trên Trường Sơn…

Cho đến nay, Merrill McPeek vẫn ức tới nghẹn cổ. Và viên tướng nghỉ hưu ấy đi tới kết luận: Ông đã ủng hộ nhầm phe. Nếu có thể được, lý ra ngày ấy ông phải chiến đấu cùng đội ngũ với các chiến sỹ can trường, quả cảm ở bên phía “Bắc Việt” 

“Kính chào Anh, những chàng trai chân đất/ Sống hiên ngang, bất khuất ở trên đời/ Như Thạch Sanh của thế kỷ 20”.

==========

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2024

văn học " ảo" cần có giá trị thực / Nguyệt Hà -- nguồn: Vă n nghệ Công an / trích: l Lê Thiếu Nhơn Blog/ tphcm.

 

Văn học 'ảo' cần có giá trị thực


NGUYỆT HÀ  05:51 27/04/2024






      ... 

Khoảng 20 năm trở lại đây, cùng với mạng Internet và các nền tảng mạng xã hội, tác giả - dịch giả có thể thoải mái tự đăng tác phẩm của mình lên và tự tìm kiếm độc giả mà không qua một nhà xuất bản nào. Văn học mạng thực sự đem đến "luồng gió mới" đối với cả người đọc và người viết, tuy nhiên nó cũng ẩn chứa nhiều nguy cơ, đồng thời là một thách thức đối với các nhà quản lý.

Lực lượng sáng tác đông đảo

Cho đến nay, khái niệm "văn học mạng" vẫn còn gây tranh cãi về hình thức sáng tác, tính chất, giá trị văn học của nó. Ở Việt Nam nhiều người vẫn nhầm lẫn "văn học mạng" với "văn học được đăng trên mạng". Sau các hội thảo về văn học mạng tại lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) - nơi khai sinh ra văn học mạng - và Trung Quốc đại lục - nơi có lực lượng nhà văn mạng lớn nhất thế giới hiện nay (ước tính khoảng 2 triệu người), người ta đều có quan điểm thống nhất cho rằng, tác phẩm "Lần đầu tiên thân mật" của Thái Chí Hằng (sáng tác năm 1998 tại Đài Loan) là tác phẩm đánh dấu sự ra đời chính thức của văn học mạng.

Làn sóng văn học mạng ban đầu lan đến Việt Nam qua những tác phẩm dịch của nhà văn Trang Hạ - vốn rất "thời sự" với văn học ở Trung Quốc một thời gây ra nhiều bàn tán, tranh cãi như "Xin lỗi, em chỉ là con đĩ", "Nắm tay và làm tình", "Mẹ điên", "Trôi dạt về đâu", "Lỡ tay chạm ngực con gái"... Dấu ấn về văn học mạng ở Việt Nam trở nên rõ nét hơn khi hội thảo về văn học mạng lần đầu tiên do Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật và Công ty Sách Bách Việt tổ chức vào tháng 3/2008 được nhiều tác giả - độc giả quan tâm và không lâu sau đã trở thành xu hướng phổ biến.

Có thể thấy, với văn học mạng ở Việt Nam hình thành một phần là do các tác giả viết trên nền tảng mạng xã hội, Facebook, trang web cá nhân, blog..., một phần là tác giả người Việt dịch văn học mạng nước ngoài sang tiếng Việt. Đến nay, ở Việt Nam đã dần hình thành một thế hệ các tác giả sáng tác văn học mạng và ít nhiều gây được ấn tượng đối với độc giả như: Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đặng Thiều Quang, Nguyễn Phong Việt, Song Hà, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Đăng Khoa, Phan An, Nhật Phi, Đức Anh...

Họ hầu hết là những người thuộc thế hệ 7X, 8X, 9X như Trần Thu Trang nổi danh với "Cocktail cho tình yêu", "Phải lấy người như anh", nhà thơ Phong Việt gây sốt với tập thơ "Đi qua thương nhớ", "Chuyện của thiên tài" của Nguyễn Thế Hoàng Linh, "Dị bản" của Keng, "Đoản khúc" của Phan Tuấn, "Giường ra đời" của Phan An... Một số tác phẩm của Anh Khang, Hamlet Trương, Gào... cũng đã trở thành những cuốn sách từ mạng xã hội xuất bản thành sách bán chạy nhất.

Không chỉ thế, một số tác phẩm ra đời từ văn học mạng sau khi được xuất bản thành sách còn đoạt một số giải thưởng văn học uy tín như: "Người ngủ thuê" của Đỗ Nhật Phi đoạt Giải Nhất giải thưởng Văn học tuổi 20 lần thứ 5 năm 2014; tác phẩm "Nhân sinh kép" của tác giả trẻ Đức Anh đã được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2023 ở hạng mục Tác giả trẻ. Những thành công được ghi nhận của các tác giả trưởng thành từ văn học mạng đã đem đến niềm hy vọng mới vào văn chương mạng và động lực cho người sáng tạo trẻ. Đồng thời, nó cũng tạo ra một không khí sáng tác tươi mới, tiệm cận với các trào lưu văn chương của thế giới trong các dòng văn học kỳ ảo, văn học trinh thám, văn học kinh dị...

Nhà văn trẻ Đức Anh cho biết, chính nhờ có không gian văn học mạng cởi mở mà anh đã có được các tác phẩm về sau đều đã được xuất bản thành sách và được ghi nhận như "Tường lửa", "Thiên thần mù sương" và "Nhân sinh kép". Tương tự là trường hợp của Hồng Sakura, sau khi đăng tải các tác phẩm trên mạng, tác giả này đã tạo được dấu ấn cho riêng mình sau khi ra mắt bộ truyện dài đầu tay gồm các tác phẩm: "Xu Xu đừng khóc", "Đài các tiểu thư", "Nếu em ở đây", "Bạch Mã hoàng tử" và "Lãng tử gió" do Công ty Sbooks và Nhà xuất bản Văn học phối hợp ấn hành.

Từ những thành công bước đầu này, đã ít nhiều cho thấy, văn học mạng có một ưu thế mạnh mẽ trong thế giới của người viết trẻ và độc giả trẻ hiện nay. Đến nay không chỉ các nhà văn trẻ trưởng thành từ đời sống văn học mạng mới quan tâm tới việc sáng tác trên mạng mà các tác giả thuộc thế hệ người viết đã trưởng thành như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quang Lập, Hồng Thanh Quang, Inrasara, Lê Thiếu Nhơn, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Văn Công Hùng, Trần Nhương... đều có trang web, những tài khoản cá nhân để bên cạnh việc đưa tác phẩm đã được xuất bản thành sách của mình đến với công chúng yêu văn, họ cũng đăng những sáng tác trực tiếp trên các nền tảng được số hóa. Đây cũng chính là một ưu thế lớn, một giá trị đặc thù của dòng văn học mạng khi tạo ra động lực để các nhà văn liên tục cho ra đời tác phẩm mới, liên tục tương tác và nhanh chóng nhận được các phản hồi từ độc giả.

Nhiều thách thức đối với nhà quản lý

Ở góc độ tích cực, tại buổi tọa đàm "Nhà văn với các xu hướng phát triển của văn học mạng" do Hội Nhà văn Hà Nội và CLB Văn học trẻ Hà Nội tổ chức hồi tháng 11/2023, nhà văn Nhật Phi đã chia sẻ chân thành: "Các bạn trẻ ngày nay đọc nhiều tiểu thuyết mạng của Trung Quốc hay truyện tranh của Nhật Bản - các tác phẩm chẳng bao giờ là ngắn cả. Đọc gì viết nấy, việc bước chân đầu tiên của các bạn trên đường sáng tác là truyện dài cũng là điều hết sức hiển nhiên. Bản thân tôi ban đầu cũng đúng là như vậy!".

Ngoài ra, theo ý kiến của một số nhà văn trẻ khác, việc theo dõi thường xuyên dư luận của công chúng về văn học mạng cũng là cách để các cơ quan quản lý nhà nước vừa nhìn thấu đáo về giá trị, điểm mạnh và mặt tích cực của tác phẩm văn học mạng, đồng thời đánh giá được thói quen tiếp nhận, xu hướng đọc của công chúng. Để từ đó có những điều chỉnh kịp thời cho phát triển văn học trong dòng chảy không biên giới của môi trường số.

Không thể phủ nhận rằng, sự xuất hiện - lan tỏa của các tác phẩm văn học mạng trong đời sống thực đã làm đảo lộn khá nhiều khái niệm cố hữu về văn chương và xuất bản truyền thống. Có thể thấy, văn học mạng đem đến với nhiều người cảm giác như viết văn thật dễ dàng, ai cũng có thể trở thành nhà văn và việc tiếp nhận các sáng tác mới chưa bao giờ dễ dàng đến thế... Tuy nhiên, chỉ cần gõ vài từ khóa đơn giản, rất nhiều website có lượng truy cập lớn hiện ra như: wattpad.vn, truyenfull.vn, thichdoctruyen.net...

Dạo một vòng qua những trang web và một số trang Facebook nổi tiếng, tiêu đề của các truyện được đăng tải hầu như đều muốn "điều hướng" người đọc đến các đề tài đầy tính "sốc, sex, sến" với những cốt truyện được quy ước theo đề tài như: tổng tài (nam chính lộng lẫy, giàu có), nữ cường (nữ chính mạnh mẽ, cá tính), tình yêu đồng giới (đam mỹ - đồng giới nam, bách hợp - đồng giới nữ), truyện viễn tưởng, truyện kinh dị...

Nhiều "nhà văn mạng" có thói quen viết hằng ngày, viết theo "đơn đặt hàng", viết theo thị hiếu, theo gợi ý từ các bình luận, phản hồi của người đọc. Chính sự dễ dãi trong khâu xuất bản của văn học mạng khi không có một cơ chế nào kiểm soát, thẩm định, đánh giá công minh, nghiêm ngặt như xuất bản truyền thống, đã góp phần tạo ra một bộ phận độc giả dễ dãi, hời hợt, dễ hài lòng ngay cả với những tác phẩm kém chất lượng.

Nhìn sang "thị trường" văn học Trung Quốc, từ lâu đã có các hiệp hội như Hiệp hội Văn học mạng tiếng Hoa, Hiệp hội Văn học mạng Trung Quốc, Hội Biên tập văn học mạng, Tuần lễ văn học mạng diễn ra thường niên, ngoài ra còn có một số giải thưởng về văn học mạng do các nhà văn và độc giả bình chọn... Còn ở Việt Nam, văn học mạng vẫn chỉ mang tính cá nhân - tự phát chứ chưa có tổ chức/hội nghề nghiệp nào được thành lập hay đứng ra làm "nhà bảo trợ" hay "người đỡ đầu" cho xu hướng sáng tác này.

Từ góc độ nhà quản lý, ông Nguyễn Nguyên - Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) chia sẻ: "Bên cạnh những mặt tích cực mà văn học mạng mang lại, đã và đang bộc lộ những "mảng tối" bởi sự tràn lan các sản phẩm có nội dung độc hại, đi ngược với thuần phong mỹ tục; nội dung đi sâu vào những tình tiết giới tính nhạy cảm, hay những câu chuyện về bạo lực, tác động tiêu cực đến văn hóa xã hội... Chúng tôi phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó vừa "xây" vừa "chống". Đối với phát triển, chúng tôi tập trung cao độ vào thực hiện chuyển đổi số, đẩy nhanh xuất bản điện tử cũng như mở ra một số thị trường sách mới như sách nói, sách tinh gọn... để đáp ứng nhu cầu của độc giả trong kỷ nguyên số hóa này...".

 

nguồn: Văn Nghệ Công An

- từ kẻ thù trở thành bạn hữu / Hà Hương -- Việt Dũng Sài Gòn -- trích: tuoitreonline/ tphcm.

 

09/03/2014 13:37 GMT+7

Từ kẻ thù trở thành bạn hữu

HÀ HƯƠNG - VIỆT DŨNG
HÀ HƯƠNG - VIỆT DŨNG

TT - Một ngày tháng 3-2014 ở Hà Nội, cơn mưa phùn giăng trên những xác máy bay nằm chơ vơ giữa sân Bảo tàng Lịch sử quân sự VN.

Những người khách tham quan hôm đó không ai hay biết về hai người đàn ông đứng giữa ngổn ngang những chứng tích của cuộc chiến tranh gần 40 năm về trước.

6LJcLa85.jpg
Phóng to
Cuộc hội ngộ giữa ông Nguyễn Hồng Mỹ (còn gọi là Mỹ cao bồi) với John Stiles tại Bảo tàng Lịch sử quân sự VN - Ảnh: V.DŨNG

Số phận của họ, tuổi trẻ của họ gắn liền với những chiếc máy bay chiến đấu. Cả hai người từng bay trên bầu trời Bắc VN, từng bị bắn rơi, từng trải qua những giây phút tưởng chừng như cái chết đã đến thật gần... Chỉ có một điều khác biệt, cuộc chiến đưa đẩy họ đi về hai phía khác nhau và chỉ có thể gặp lại nhau gần 40 năm sau đó.

Người từ hai chiến tuyến

"Bây giờ chúng tôi là bạn thân, tôi, John Stiles và cả Dan Cherry. Chúng tôi gửi mail cho nhau thường xuyên, đăng ảnh và nói chuyện với nhau qua Facebook. Năm nào tôi cũng quay lại Mỹ. Mẹ của John rất quý tôi. Bà nói may mắn là John thoát khỏi chiếc máy bay thì chúng ta mới có cuộc gặp ngày hôm nay. Năm nay tôi không thể đi Mỹ vì cháu nội mới ra đời nên John Stiles đã quyết định sang VN thăm tôi. Cậu ấy còn nhắn là đã mua quà cho lễ đầy tháng của cháu nội tôi nữa"

Ông Nguyễn Hồng Mỹ

Cả hai, một người Mỹ, một người Việt đã đứng rất lâu giữa những mảnh xác máy bay quân sự, những vỏ bom từ trường, bom bi, những khẩu pháo cao xạ hay trạm rađa được giữ lại làm kỷ vật chiến tranh. John Stiles đặc biệt quan tâm đến những khẩu pháo cao xạ, bởi suốt hàng chục năm sau khi chiến tranh kết thúc, ông vẫn ngỡ rằng chiếc F4 do mình lái bị pháo cao xạ bắn trúng. Đôi mắt vẫn không thôi ám ảnh, John miêu tả cho những người đi cùng cách sát thương của từng loại bom mà người Mỹ rải xuống miền Bắc những năm chiến tranh.

Đó cũng là ngày đầu John Stiles chính thức đặt chân trên đất VN. Người đón ông là Nguyễn Hồng Mỹ, người phi công đã bắn rơi chiếc máy bay F4 của John vào ngày 17-1-1972. Đó cũng là ngày bắt đầu của mối duyên nợ lâu dài giữa Nguyễn Hồng Mỹ và John Stiles, hai con người từ hai chiến tuyến khác nhau, từng chiến đấu sống còn trên cùng một bầu trời.

Trở lại những ngày đầu năm 1972 khốc liệt, sau khi trúng đạn từ chiếc MiG-21 của Nguyễn Hồng Mỹ, John Stiles may mắn thoát ra ngoài và nhảy dù xuống khu vực miền núi phía tây Nghệ An. John Stiles đã mắc kẹt trên cây trong suốt hai ngày liền, giữa một vùng núi thẳm, chỉ có chờ đợi và chờ đợi. Hoặc là tiếng trực thăng đến cứu, hoặc là cái chết. “Lúc đó, tôi chỉ nghĩ đến việc sống sót và trở về. Nhưng những giờ mắc kẹt trên cây cùng các đợt xuất kích ném bom khiến tôi luôn bị ám ảnh suốt hàng chục năm sau đó” - John Stiles kể lại.

Năm 2007, không quân Mỹ tiến hành tổng kết chiến tranh và muốn tìm lại người đầu tiên đã bắn rơi máy bay Mỹ tại VN năm 1972. “Bộ tư lệnh không quân VN lúc ấy chỉ có thể cung cấp cho phía Mỹ một cái tên là Nguyễn Hồng Mỹ, vì tôi đã chuyển ngành sang dân sự từ năm 1974. Sau đó tôi về hưu. Thế là những người tìm kiếm đã đến tận nhà. Năm 2008, tôi được mời vào Sài Gòn và gặp một người Mỹ, cũng là một vị tướng trong lực lượng không quân Mỹ. Một sự trùng lặp hi hữu, viên tướng không quân tên Dan Cherry cũng chính là người đã bắn hạ tôi vào tháng 4-1972” - ông Nguyễn Hồng Mỹ kể lại.

Năm 2009, người đầu tiên bắn rơi máy bay Mỹ năm 1972 được mời đến Mỹ để được trao chứng nhận đại tá danh dự của bang Kentucky. Đây cũng là lần đầu tiên Nguyễn Hồng Mỹ gặp lại người phi công lái chiếc F4 mà ông đã bắn rơi. Những nghi ngại, hoang mang, những ký ức ám ảnh mà John Stiles luôn canh cánh suốt hàng chục năm trời được hóa giải sau cuộc nói chuyện với Nguyễn Hồng Mỹ. Thậm chí John không tin rằng đấy là người đã bắn rơi máy bay của mình, bởi vậy để chắc chắn ông vẫn phải thử thách người đến từ bên kia chiến tuyến. “Trong 37 năm sau, tôi vẫn nghĩ tôi đã bị bắn bởi một chiếc tên lửa mặt đất, đến khi gặp Hồng Mỹ, chúng tôi có cơ hội để nói chuyện riêng, tôi mới biết mọi chuyện thật sự xảy ra như thế nào. Và không một ai có thể biết điều đó, trừ tôi và ông Mỹ” - John hồi tưởng cuộc gặp đầu tiên giữa hai người.

“John hỏi tôi đã bắn hạ F4 của ông ấy trong trường hợp nào? Làm sao tôi có thể phát hiện được chiếc máy bay của ông ấy và thời điểm lúc F4 rơi. Sau khi tôi trả lời, John vui sướng nói: 37 năm mới biết rõ thời điểm đó như thế nào. Tôi cũng phải giải thích với ông ấy rằng ở miền Bắc, khi không quân đánh thì lực lượng phòng không dưới mặt đất không đánh và ngược lại” - ông Mỹ nói.

Chúng ta là bạn

Cuộc gặp ông Mỹ năm 2009 đối với John Stiles như một cánh cửa giúp ông khép lại quá khứ nhiều ám ảnh của mình, đồng thời cũng mang đến cho ông một người bạn mới mà ông vẫn yêu quý gọi là “cao bồi”. “Hồng Mỹ là người bạn rất tốt của tôi, chúng tôi đã giảng hòa với nhau, và tôi đã không còn có kẻ thù nào, ông ấy là một người tốt. Cuộc gặp đầu tiên rất tuyệt vời. Chúng tôi đã cùng đến Vancouver, Washington, Học viện Không quân... Năm 2010, ông Mỹ trở lại Mỹ thăm gia đình của tôi ba ngày. Chúng tôi đã cùng đi dạo, tập nhảy với nhau và tôi rất quý ông ấy” - John Stiles chia sẻ.

Ngày 4-3-2014, John Stiles đặt chân đến Hà Nội. Kẻ thù của ông trong quá khứ và bạn của ông ở hiện tại đón John bằng món phở truyền thống của VN. Sau đó là cà phê bên hồ Hoàn Kiếm. Tự nhiên như những người bạn lâu năm, ông Nguyễn Hồng Mỹ chia sẻ với John về thành viên mới của gia đình, về cô cháu ngoại nghịch ngợm và cả những câu chuyện hằng ngày mình trải qua. John và ông Hồng Mỹ cùng xem lại ảnh qua chiếc iPad rồi bình luận rôm rả. Những chuyến đi về liên tục từ năm 2009, John Stiles trở nên quen thuộc với những thành viên còn lại trong gia đình ông Nguyễn Hồng Mỹ và ngược lại. John nhớ rất rõ tên con cháu của người bạn mình, cả những kỷ niệm mà họ đã có cùng nhau trong suốt năm năm làm bạn.

Hà Nội trời mưa nhưng John Stiles vẫn tỏ ra vô cùng hào hứng với chuyến tham quan nhà tù Hỏa Lò, Bảo tàng Lịch sử quân sự VN và Bảo tàng B52 bằng xe máy. Đối với John, đây không đơn thuần là chuyến đi chơi mà còn là chuyến ngược dòng trở về với quá khứ. Ở nhà tù Hỏa Lò, John Stiles đi rất nhanh qua những phòng giam của Pháp dành cho tù nhân VN và phòng giam dành cho lính Mỹ (chủ yếu là phi công bị bắn rơi). “Tôi không hề thích Hỏa Lò, nó làm tôi buồn” - John chia sẻ.

Ở Bảo tàng Lịch sử quân sự VN và Bảo tàng B52, nơi còn lưu giữ khá nhiều dấu vết của cuộc chiến đấu trên bầu trời, John Stiles dường như đã có những bước đi thanh thản hơn. Giữa những xác máy bay, bom đạn, John nói chắc chắn ông sẽ quay lại VN. Ông thích cả tiết trời ẩm ướt, cảnh tắc đường, những chiếc xe máy và yêu quý người bạn cao bồi của mình. “Tôi sẽ trở lại, dĩ nhiên rồi, tôi thích đất nước này, nơi có bạn của tôi” - John nói.

t05KHvkI.jpgPhóng to
Phi công Nguyễn Hồng Mỹ (ảnh trái) và phi công John Stiles (phải) ngày cả hai còn là kẻ thù trên bầu trời VN - Ảnh tư liệu

Cuộc không chiến

Ngày 17-1-1972, chiếc máy bay MiG mang số hiệu 5018 của Nguyễn Hồng Mỹ xuất phát từ sân bay Đa Phúc (nay là sân bay Nội Bài). Ông Nguyễn Hồng Mỹ hồi tưởng: “Hôm đó trên bầu trời Hòa Bình tôi phát hiện một chiếc F4 - đó chính là chiếc máy bay của John Stiles. Cuộc rượt đuổi của chúng tôi bắt đầu từ Hòa Bình, đến Thanh Hóa rồi Nghệ An.

Lúc đó tốc độ chiếc MiG của tôi đạt khoảng 1.500 km/giờ. Đến Nghệ An, tôi phóng nốt hai quả tên lửa cuối cùng vào chiếc máy bay địch trước khi quay đầu trở về. Cạn sạch nhiên liệu, tôi đành phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Thọ Xuân (Thanh Hóa)”.

Cuộc chiến đấu khốc liệt trên bầu trời khiến phi công Nguyễn Hồng Mỹ gãy tay và không thể phục hồi khả năng chiến đấu. Năm 1974, Nguyễn Hồng Mỹ xuất ngũ, khép lại quãng đời phi công của mình.

HÀ HƯƠNG - VIỆT DŨNG