Thứ Ba, 29 tháng 11, 2011

CAO MỴ NHÂN :" ĐÚNG MỘT KIẾP THƠ" * / NHẬT THỊNH viết.

Lời dẫn:

 Nhật Thịnh và Khuê Giung (  nay đổi  Khuê Dung) -  cặp vợ chồng dính liền  thư viện ,chữ nghĩa rất nhiều năm.     Khi  bà Giung làm ở  Thư viện Quốc Gia , còn  chồng theo vợ đi làm, bằng cách  mở  căng- tin  bán  cà phê  đưới  tầng 1 -  ngày ấy, tôi và Đàm Xuân Cận luôn   ghé qua  cà pháo-  cà phê , bù khú văn chương.  
 Nhật Thịnh, soạn già " Chân dung Nhất Linh" -  tư liệu nhiều, viết kỹ, giải thích đôi khi rườm rà , tay  này đọc nhiều, nhớ lâu , khoái trưng dẫn , cái này nằm  ở   tờ A, kia tờ B , chẳng thua  gì Nguyễn văn Tố   tiền chiến.!    
 Nhật Thịnh đồng soạn giả với Khuê Giung :   Tập  bút danh, sước hiệu  các nhà văn, thơ tiền, hậu chiến ( ?), in ronéo, không kiểm duyệt ,  khá dầy  , khổ sách 21x 27 cm , in ấn xong đâu đó - vào đầu năm 1975.   
Bà Khuê Giung  đánh mã số văn khố,  nhanh chóng đưa vào phiếu dành cho bạn đọc  tại  Thư viện Quốc gia  .
Chỉ vài tháng sau, sau ngày  30.4.75,   Trần Trọng Đăng Đàn,  một soạn giả  từ Bắc vào   tìm tòi tư liệu tại các thư viện - và tìm thấy trongThư Viện Quốc Gia ,cuốn sách  in rô- nê -ô ghi chép sước danh mỗi tác giả, kèm bút danh, ngày  sinh, tháng đẻ, năm ra đời rất chính xác, hoàn hảo  - bèn tùy tiện    sử dụng   trong sách " Văn hóa văn nghệ ... / Nam Việtnam....  .  ( bản in lần 1- Nxb Văn Hóa Thông tin / Nxb Long An, 1990) ).
  Cứ như  tôi biết  :  Phụ lục III  , từ trang 583-  616  sử dụng tư liệu  sách in ronéo của  Nhật Thịnh và Nguyễn thị Khuê Giung không  ghi xuất xứ  . ).

Lấy một thí dụ:                                   

                                          vần C 
                                        - Cao  Thế Dung                          Cao Xuân Dung ( 1933)                                        - Cao Thị Ngọc Ân ( 1941)           Cao Thị Vạn Giả
                                       -  Cao Tiêu                                    Hoàng Ngọc Tiêu ( 1930) 
                                       - Cao Văn Luận ( 1910) 
                                        -Cao Xuân Dung  ( 1933)           Cao Thế Dung
                                                  v.v....  
 hoặc :
                                         vần Đ
                                         -Đinh Thành Tiên   ( 1938)        Tô Thùy Yên
                                         -Đinh Văn Nam     (1920)          Thích Minh Châu
                                         -Đinh Xuân Nguyên  (1924)      Thanh Lãng
                                             (....)
                                         - Đỗ Mạnh Tường ( 1932)         Đinh Bạch  Dân
                                                                                             Đường Bá Bổn
                                                                                             Thế Phong
                                                                                             Tương Huyền
                                                
                                        (.............)


hoặc :  
                                         vần  T
                                       - Thanh Thương Hoàng               Nguyễn Thanh Chiểu  (    )
                                       -Thanh Tuyền                               Phạm Việt Tuyền ( 1926)
                                         (.........)
                                       - Thập Nguyên                              Vũ Mộng Long  ( 1935)
                                       -Thất Tiểu Muội                            Thái Thị Sửu ( 1914)
                                        (......)
                                       -Thế Phong                                     Đỗ Mạnh Tường   ( 1932)
                                       -Thế  Uyên                                     Nguyễn Kim Dũng ( 19350
                                       - Thế Viên                                      Hồ Thế Viên ( 1935)
                                         (     v..v...  )
 sẽ biết  tên thật, năm sinh, bút danh một tác giả " đầy đủ chi tiết" -  thì tôi đã đọc trước , ở sách Nhật Thịnh và Khuê Giung . rồi ! 
    
 Nói thẳng thắn :
 " Phụ lục III,  Bảng tra các bút danh, họ, tên thật và năm sinh" ( từ trang 583-616) chiếm đoạt  tư liệu văn học   Nhật Thịnh & Khuê Giung đã đưa vào văn khồ trước  ngày 30.4.1975  vài ba tháng. ( tôi đã  ghi mã số cuốn sách ,  sẽ bổ túc sau ).

 Sách Trần Trọng Đăng Đàn  dầy  856,  Đoàn Minh Tuấn + Trần văn Kính chịu trách nhiệm .      GP xuất bản  nhất thời BTT số 240/CQTT-BC cấp 10/10/1989, in 3000 cuốn lần thứ 1, kích cỡ 14, 20 cm., nộp lưu chiếu- tháng 4 / 1990.  Một cuốn sách duy nhất  có   lời  giới thiệu  Bộ Thông Tin  ( Việtnam  ) :

"... mỗi thư viện, mỗi trường học, mỗi cơ quan thuộc các ngành văn hóa, văn nghệ, giáo dục, mỗi hàng buôn bán sách và văn hóa phẩm,  mỗi gia đình, mỗi người quan tâm đến  đời sống văn hóa, văn nghệ..... nếu có tập sách này sẽ dễ dàng hơn biết được .... sách nào bị cấm , sách nào  được lưu hành..."( tr.7-8).
 đây  là cách  buộc khéo cơ quan, thư viện, nhà nhà, người người   phải đọc, phải biết -  lời khuyến cáo từ  một cơ quan nhà nước cấp Bộ- một chỉ thị thép bọc  đường .    Sách bán  chạy, phải nói " chưa từng thấy"  -   các cơ quan, các thư viện,  các nhà nhà,  các người người dân miền Nam   cóp nhặt tiền mua, đọc cho biết những  nhà văn miền Nam  có tác phầm bị cấm đọc, sách Mỹ ngụy nào  cấm lưu hành, v.vv... ".

  Tôi ,  Đỗ Mạnh Tường  - một công nhân,  phụ xe buýt , có biên chế , thuộc Sở Giao thông tp.HCM - chỉ số lương 256 -   bỏ 120 đồng (số tiền  khá lớn vào 1990  so với  lương  lĩnh ) mua  sách , để biết Thế Phong- một tác giả miền Nam  trong số  trăm -  toàn bộ  tác phẩm bị cấm, v.vv...-  huống hồ  ai khác - bởi vậy, sách   tái bản  rất  nhiều lần, tiếp diễn  sau  hàng chục năm" .

Trở lại  Nhật Thịnh bình  thơ   -   Thằng Phải Gió có điều bầy tỏ  - không  chắc  kẻ   sính thơ  chưa  hẳn  đã   hay khi bình -  hoặc ngược lại ... 
 Ở đây ,Nhật Thịnh  hì hục đọc thơ, tìm câu  thơ hay   Cao Mỵ Nhân  tương xứng  với lời bình:  
  " ... đó đây dư  âm của những khắc khoải, đợi chờ, những thao thức theo đuổi không ngưng nghỉ, kiếm tìm không chán chường, mệt mỏi cái đẹp,  cái thực của bản chất ý tưởng nơi người nghệ sĩ luôn luôn muốn vươn cao..: "   Thôi em, thương nhớ mỏi mòn / Có chi tồn tại trong hồn nữa đâu / Đừng cài mái tuyết bông lau  /  Ta không thấy được ngọn sầu khói sương  ) hay   " Ngày xưa chị nhỉ xa xôi  / Quê hương emtừng khơi chiến bào / Nửa chừng tơi tả giáp bào / Cười trong nước mắt hẹn nhau phục hồi ". 
..- chẳng lẽ  thơ Cao Mỵ Nhân   " cà mèng"    vậy sao -  lời thì trúc trắc lời  , ý tứ lại  vô hồn ?! 

 ....- góp ý mọn....-  câu văn dài lê tựa hồ   rễ rau muống  trong ao gặp mưa,  bình thơ  như viết   tạp văn, đuôi đầu bất luận,  đôi khi lời bình chẳng ăn nhập  tương ứng  câu thơ trưng dẫn  :"   thơ   Cao Mỵ Nhân  mượt mà ,  sóng đôi văn tạp chủng Nhật  Thịnh !" .    Nói vậy thôi , tôi  thừa nhận một điều 
"  ... hiểu  Cao Mỵ Nhân   qua sự đọc nhiều , viết  kỷ của   Nhật  Thịnh".

 - thường ra ,   "kém  sính thơ  lại ưa   sính bình " -  theo tôi,  Nhật  Thịnh thua xa  chàng Hoài Thanh  không sính thơ - bình lại  hay  -  chàng ta là tác giả  Thi nhân Việtnam  đấy !
....vậy thì tôi  "  chốt ": -  không  thấy điều đó ở Nhật Thịnh !   ngưng lại thôi -    bạn  hãy đọc bài Nhật Thịnh  viết  , xem có khác ý kiến  Thằng Phải Gió không ?    Nếu có , xin đa tạ ./.
 []

Thếphong

                                                     ... đúng một kiếp thơ
                                                          NHẬT THỊNH viết

Đúng thế thôi, môt con người* sống trọn với thơ, thơ in đã nhiều, thơ chưa in còn tràn ngập trong ngăn sách, và không phải thơ dở, xét xem từ thế giới thơ tới kỹ thuật thơ, ngươi ta thấy một phong cách riêng khác: .                            Đắng cay như thuở biết sầu
                            Một trinh tê tái  ngăn câu tự tình.
...con người thơ đó, tôi muốn nói tới Cao Mỵ Nhân mà tôi mới hội ngộ trưa chúa nhật 1.6. 2005 tại Stockton Business Center ( Trung tâm thương mại Stockton ) , thủ phủ của tiểu bang California - trong buổi lễ kỷ niệm 5 năm của bán nguyệt san Tiếng Vang .
 Vẫn tà áo dài lụa trắng văn hoa thướt tha, mềm mại của thời cắp sách ngày nào trong trưa hè đổ lửa - sinh tại Sapa*,* về suôi theo học Trường Nữ tiểu học Lệ Hải, Hải Phòng, tóc kết bím hai bên thả tới ngực - ấy vậy, mà cô nữ sinh duyên dáng nọ đã sớm có thơ chào đời trong quãng tuổi 16 mộng mơ, dạt dào cảm xúc, ký thác vào thơ những tâm , tư tình cảm trắng trong, e  ấp hương thầm. 
Người ta biết Cao Mỵ Nhân,  có thể nói, từ ngày Thế Phong* - bút hiệu của Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10.7.1932 tại Yên Bái, sớm theo kháng chiến, sau bỏ về thành, đi lính cho Pháp, chuyển sang phục vụ trong quân* chủng Không quân, viết cho nhiều báo - xuất bản và phát hành rộng rãi tập THƠ MỴ  năm 1961, trong Tử sách" Đại Nam Văn Hiến ".
Xin mở một dấu ngoặc  để nói thêm  về Thế Phong*, kẻo lại bị chê  trách  bàn ngang tán dọc- nhưng chính Thế Phong là người đã khơi mở cho người ta thấy nhiều nét  về con người Cao Mỵ Nhân   Khi ấy, Thế Phong chủ trương nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến từ 1959, hầu như lập nên chỉ để in sách của mình, hiếm có sách của người khác - thơ Cao Mỵ Nhân lọt được vào không phải  dễ.   Đa số tác phẩm đều được in dưới dạng ronéo, ấn phí thấp, không phải chờ đợi thương lượng với nhà xuất bản, và tránh được lưỡi kéo sắc gọn của Ty kiểm duyệt vô  cùng phiền phức.
 Về sau có một số đầu sách được tuyển chọn in theo dạng* typo cho rộng rãi phổ biến- một số tác phầm được Đàm Xuân Cận tốt nghiệp Đại học Su phạm ban Anh ngữ, hiện sống tại Úc châu chuyển ngữ sang Anh  ngữ.
  Thế Phong viết tương đối bao quát nhiều thể loại.
 Tiểu thuyết, tập truyện có*:" Nửa đường đi xuống"- " Người lính Casablanca"-" Khu rác ngoại thành,"(" The  rubbish tip outside the city and other stories*)",-  Người thương binh Liên khu"- Người đàn bà không tóc" -" Tình sơn nữ,"-" Đợi ngày chiến thắng, "-  " Cô gái Nghĩa Lộ "- "Truyện người của tình phụ",-   " Thủy và T6".
Truyện ký có *: " Tôi đi dân vệ Mỹ" ( The ordeal of an American militiaman" ký bút hiệu Đinh Bạch Dân, " Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh"-" Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời" ( Thephong by  Thephong :, the  writer, the work & the life "- " CV Gheorghiu qua " Lữ hành đơn độc" - "Mười hai nhà thơ mới nhất .hôm nay"- "  Thức giấc trong văn chương hiện đại Ba Lan"- " Jacques Perry và thế nào là phi lý ?"
Thơ có*: ' Nếu anh có em là vợ"-" Sai biệt"-," Trước mắt nhìn thi sĩ,-"" Đàn bà và tổ quốc,"-" Cho thuê bản thân" -,"Thơ làm lớn dậy con người",- "Việtnam vùng trời lửa đạn," ( Vietnam, the sky under fire and flames"- ,"Nam Việtnam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ,"( South Vietnam, the baby in the arms of the  American nurse,"- ," Vương miện Mai A ".
Phê bình văn học có*: " Lược sử văn nghệ Việtnam" 4 tập ":  1) Nhà văn tiền chiến 1930-1945, 2) Nhà văn kháng chiến chủ lực 1945-50 + Nhà văn miền Nam 1945-50," 3)  Nhà văn hậu chiến 1950-1956,"  4) : Tổng luận 60 năm văn nghệ Việtnam 1900-1956 "( A  brief glimpse at the Vietnamese literary scene, from 1900-1956."* -, " Hiện tình văn nghệ miền Nam 1957-1961"-, " Friedrich Nietzsche và Chủ nghĩa đi lên con người"-, "Muồn hiểu chinh trị,"-" Sinh hoạt chính trị Nhật Bản,".
Dịch thuật có*: "  Khúc bi ca nàng tiên nhỏ" của Maxime Gorki,"-" Chiếc roi ngựa " của C.V Gheorghiu,"-" Maiaikovski, thi sĩ Nga "của Elsa Triolet-," Tuyển thơ kháng chiến Pháp 1939-1945" của Jean Paulhan vá Dominique Aury," -" Việtnam bi thảm Đông dương" của Louis Roubaud", ký bút hiệu Đường Bá Bổn.

Về phê bình văn học Thế Phong* đôi khi không giữ được sự tự chủ trong cảm quan, có nhiều điểm cần phải điều chính - cụ thế  mới đây trong năm 1999, khi cho xuất bản tập" Bốn nhà văn Saigon"- Thế  Phong khi trích dẫn Vũ Hoàng Chương ( 1915-1976)  người  ta thấy nhiều tam sao thất bổn***, không những  nhà thơ Hoàng Hương Trang- bút hiệu Hoàng thị Diệm  Phương, sinh ngày 3.1.1938  tại Huế, tốt nghiệp Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật, giáo sư hội họa các trường trung học, tác giả nhiều tập thơ, truyện xuất bản từ 1964 - mà ngay hiền thê của Vũ Hoàng Chương là Đinh Thị Thục Oanh, chị ruột của nhà thơ Đinh Hùng ( 1920-1967) đã phải lên tiếng trách cứ ***!.
Trờ lại vấn đề cũ, trong tập tự sự kể* "  Nhà văn, Tác phẩm, Cuộc Đời" -Đại Nam Văn Hiến Saigon 1966, " Đại Ngã" tái bản năm 1970 -  Thế Phong đã nhắc tới nhiều đời người của Cao Mỵ Nhân- khi đó đa rời miền Bắc di cư vào Nam 1954, theo học Trường Nữ Trung học Trưng Vương Sàigòn  -   chào đời tập thơ đầu tay mang tựa dề" Hoa sao" in  1000 ấn bản không bán, dành tặng các thân hữu  trại Họp bạn Trảng Bom năm 1958.
 Tham dự khóa học Nữ cán sự xã hội* tại" Centre Caritas" . thuộc dòng Nữ tu Bác ái, tham gia các hoạt động thanh niên, làm công tác xã hội gia đình Phật tử, Hội Con Đức Mẹ, Nữ Hướng đạo Việtnam.   Giữa thời chinh chiến, Cao Mỵ Nhân dấn thân nhập cuộc theo nhịp bước quân hành, sánh vai với nam nhi,  phục vụ tại Bộ Tư Lệnh  Quân Đoàn I, Quân Khu I  - đảm nhiệm chức vụ Trưởng phòng Xã hội trong Khối Chiến tranh Chính trị từ năm 1962 cho đến ngày Hoa Kỳ bỏ rơi miền Nam, phục vụ gia đình binh sĩ từ Bến Hải đến Sa Huỳnh- cấp bậc cuối cùng Thiếu tá Nữ quân nhân.
 Sau ngày 30.4.1975,* Cao Mỵ Nhân bị tập trung  gọi là " cải tạo" tại H.T - 7590-T20, bị 5 năm   đi cải tạo **và 2 năm  lao động vùng kinh tế mới tại Nông trường Bến Sắn Đồng Xoài.   Trở lại Sàigòn làm huấn luyện viên  thể dục Dưỡng sinh cho các người già và người bệnh tại Viện Y  Dược Học dân Tộc.   Cuối tháng 8, 1991 tới trại định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO, số HO8-724, rồi** Tổng thư ký Trung tâm Văn Bút Tây Nam Hoa kỳ, nhiệm kỳ 1994-1996.
Trước năm 1975*, Cao Mỵ Nhân có thơ và truyện ngắn in trên các báo ở miền Nam, như: " Phụ Nữ Diễn Đàn," " Văn Nghệ Học Sinh", " Văn Nghệ Tự Do,"" Công Đàn Tuổi Xanh,"" Văn Nghệ Tiến Phong,"" Thời luận"," Chỉ Đạo,""  Hỏa Tuyến," , các báo quân đội.   Qua Hoa Kỳ, cộng tác với các báo" Saigon Times," "Chân nguyên,"" Hội Ngộ,"" Phụ Nữ Việt,"" Dân Ta,"" Cỏ thơm,"" Chiến sĩ quốc gia".
 Trong suốt cuộc đời cầm bút, thơ dường như nghiệp dĩ đối vơi Cao Mỵ Nhân, thủy chung với thơ và có thể khắng định sự nghiệp của Cao Mỵ Nhân chủ động là thơ, mà không phải văn, tương tự trường hợp của Hoàng Ngọc Liên.   Vũ trụ thi ca của Cao Mỵ Nhân bát ngát đa dạng, hơi thơ cuốn hút theo, khi nhã nhạc trầm mát, lãnh đãng phong vị của môt người thích đắm mình trong mộng mơ, khi sâu lắng, u hoài nặng mang tâm tư trầm mặc, khi chua chát, cười cợt với đời  lắm ngã rẽ và tâm địa con người thì muôn ngả, khó dò tìm !
Phong thái ung dung nhàn tản đó của Cao Mỵ Nhân trên hành trình thơ, tính đến nay, căn cứ theo lời đề tặng của Cao Mỵ Nhân gửi cho tôi từ Lawndale 22.8.1997:

" Thân tặng báo" Đất Đứng"  101 bài " Thơ Mỵ"  xuất bản năm 1997 ở bên trời lưu lạc.   Sau 37 năm" Thơ Mỵ"  1960 đang ở tuổi học trò."  

Đã xuất bản*: " Hoa Sao," ( 1958)- ," Thơ Mỵ" ( 1961- ," Thơ Mỵ 2 " ( 1997),-" Áp màu xanh" ( 1999)-," Lãng đãng  vào Thu" ( 2001)-,"Đưa người tình đi tu" ( 2001)" và tập ký " Chốn bụi hồng"  ( 1994).
Ngoài ra đã đóng tập bản thảo trên 4000 bài từ ngày 19.3.1953 tới nay.   " Hương phấn ngày xanh" ( 1953-1956),"- " Cuối một đường vòng" ( 1957-1958)'-," Trạm, ngừng" ( 1959)-," Ga xép" ( 1959,"-" Cuối một đường vòng" ( 1960),"-"  Mùa Phục Sinh" ( 1960," -"Hoa dại " ( 1961)"- ," Tươờng giang" ( 1961)"-," Sóng dội chân tường" ( 1962"- ),"  Thợ Mỵ sau cuộc chiến"( 1978-1979)"-," Thơ gửi  Uyển Đình" ( 1982),"-  " Mùa xuân của anh " ( 1985-1986),"- " Thơ xướng họa luật Đường" ( 1980-1990),"- "  Em còn không Mai A ( từ 1960 tới nay và tiếp tục mỗi năm
 ngày 25-3 )-,"  Thơ cải tạo" ( 1975-1980"-  " Thơ dưỡng sinh" ( 1984-199"- )-," Thơ viết ở Hoa Kỳ" ( 1991-1993.

Tập" Thơ Mỵ" *( Văn Hóa Ngày Nay, 1997- gồm 110 bài, dày 120 trang - vừa vặn cho một tập thơ để đọc - được coi như tập thơ đầu tiên của Cao Mỵ Nhân xuất bản tại hải ngoại.   Cao Mỵ Nhân tỏ ra sở trường trong nhiều thể loại thơ, bất luận thơ lục bát, bảy chữ, tám chữ hay năm chữ- và đôi khi là thơ văn xuôi ( poésie  en prose ) , nhạc tính truyền cảm, sâu đậm tính mỹ học mà Jakobson nhận định : " Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó", do đó  khi ngâm lên, để tạo được những xúc động trực tiếp.

  Nói thế, tưởng không thể quên giọng ngâm thơ* của Cao Mỵ Nhân cũng rất mạnh mẽ và truyền cảm.
 Dư luận nhận định nhiều về dòng thơ Cao Mỵ Nhân- nào thoáng đãng phong cách của dòng thơ trữ
 tình lãng mạn đượm tân cổ điển của Thế Lữ, Nguyễn Bính, Xuân Diệu- nào phảng phất nét cổ kính, trang trọng, cầu kỳ của Tản Đà, Ngân Giang, Vũ Hoàng Chương.   Thực ra nguồn thơ của Cao Mỵ Nhân xuất phát từ chính tâm hồn  mình, cái hồn thơ bàng bạc như sương thu lãng đãng ẩn chìm những xúc  cảm chân thành và sâu sắc của con người, nói riêng cuộc đời của một người đàn bà  đa cảm, đa tình, chững chạc và trang trọng:
                                               Sự thực thì xuân chưa trở về
                                               Bởi vì mầu trắng của hoa lê
                                               Không gây xúc động trong tiềm thức
                                               Bằng một cành mai nở trước hè.
                                                                   ( Một lúc chờ xuân)

Người ta cho rằng dòng thơ * của Cao Mỵ Nhân mng dáng nét quen quen nào đó, dễ dàng phát hiện, thực ra phải nhận rằng thơ Cao Mỵ Nhân có những nét riêng rẽ, không giống nơi một số ngói bút khác, kế thừa khuynh hướng chung của dòng thơ trữ tình, tân cổ điển, đuợc những nhà thơ tiền chiến đẩy lên đỉnh cao của thi ca.   Thành công này cho dù có với tới,  chẳng qua là cái dĩ vãng vàng son, trừ một vài trường hợp, họa hoằn  nơi một vài đối  tượng hiếm hoi, tất cả  vương vấn những nét đẹp xưa không tạo được vóc dáng hôm nay.   Cho nên muốn  đi vào vĩnh cửu, thơ không thể đi bên lề mỹ quan và hành trang tư tưởng thời đại, đó chưa nói tới sự thử lửa của thời gian xem độ bền vững ra sao.   Theo Jakobson: "  Thi ca nhắm vào thể cách diễn đạt :                                              
                                              Anh về yêu lại mầu hoa cúc
                                               Rực rỡ bình minh, lộng lẫy xuân
                                              Cúc đỏ, cúc vàng chen chúc nở
                                              Phương trời như thiếu cúc tri âm.
                                                                    ( Cúc cố nhân)
Đọc thơ Cao Mỵ Nhân dàn trải đó đây*,  dư âm của những khắc khoải, đợi chờ những thao thức theo đuổi không ngưng nghỉ, kiếm tìm không chán chường, mệt mỏi cái đẹp,cái thực của bản chất lý tưởng nơi người nghệ sĩ luôn luôn muốn vươn cao, trực tiếp đi vào thực tại của đời sống, phô diễn bằng mọi biến thái của tâm hồn, sự hoài cảm, phẫn nộ, bất mãn, lời thơ lắm khi bi thiết, lạnh lùng.   Cao Mỵ Nhân thực với mình, can đảm đi tới, dấn sâu vào cảm quan, không dụt dè, e ngại như nụ hoa muốn bung nở mà còn e ấp, ngại ngần:
                                                 Rồi mỗi lúc lòng em như có sạn
                                                 Đãi bao nhiêu nước mắt vẫn chai lì
                                                 Em muốn khóc  cho tan mầm chán nản
                                                 Để yêu anh chan chứa đến si mê
                                                                  ( Mùa xuân trở lại)
hay:
                                                 Thôi em,  thương nhớ mỏi mòn
                                                 Có chi tồn tại trong hồn nữa đâu 
                                                 Đừng cài mái tuyết bông lau
                                                 Ta không thấy được ngọn sầu khói sương.
                                                                   (Những  sợi tóc phai)

Cao Mỵ Nhân đến với nàng Ly Tao* không, hay khác những người đồng hội đồng thuyền , nhưng có cả bản sắc riêng - loài hoa quỳnh vương giả không thể chỉ một loại quỳnh một hương sắc chung cùng -  cho nên  thơ Cao Mỵ Nhân đã cống hiến cho đời nhiều hương sắc.   Đóa hoa hư ảo tạo cho dáng thơ Cao Mỵ Nhân một cái gì lung linh huyền ảo, phải chăng Cao Mỵ Nhân muốn chôn kín thứ tình đạo đầy thơ mộng, đẹp tựa dòng thơ chuyên chở:
                                                 Bởi vì, mình cứ lặng thinh
                                                 Nên thiên hạ vội đinh ninh tận tường
                                                 Thì thôi, tất cả vô thường
                                                 Mai sau có kẻ tìm đường... viếng thăm...
                                                                ( Tất cả vô thường)
Tình đạo* đó, Cao Mỵ Nhân không thể chỉ ngưng khai thác nơi lẽ vô thường, bâng khuâng lãnh đãng, mường tưởng những ảo ảnh của đời người, xong, chôn vùi dĩ vãng.   Nhưng tựa mây trôi trên bầu trời, biến đồi sắc mầu theo tiết trời, tình đạo giấu kín một thuở nào, ái nịch vấn vương, đ6i khi chập chờn như áng mây trôi, khi có một động cơ nào khơi gợi, chỉ cần đủ nhẹ của một chiếc lá rơi đã động hờ, một ngọn gió heo may lùa qua khe liếp.
  Phải  chăng đây cũng là tâm trạng của Lan trong tiểu thuyết " Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng ( 1896-1947):
                                                  Chuông  chùa bứt sợi tơ vương
                                                  Xôn xao ánh mắt hoang đường quá thôi
                                                  "Nam mô" còn đọng trên môi
                                                  Thoáng nghe... như gọi tên người cố nhân.
                                                                 ( Ướ vạt cà sa )
Ngoài tinh vương lụy đó, người ta còn bắt gặp* nơi  Cao Mỵ Nhân    thứ tình cao vọng đầy lý tưởng kế tục truyền thống hào hùng của dân tộc, đã có lịch sử trải dài trên 4000 năm.   Cao Mỵ Nhân cảm thấy hãnh diện của thời vàng son, con cháu của nhiều  anh hùng liệt sĩ làm chùn vó ngựa của đoàn quân viễn chinh phương Bắc từng dày xéo cỏ cây nhiều vùng.   Nay chiến bại ê chề , nhưng đăng cay nơi xứ  người  , Cao Mỵ Nhân thấy khó có thể giấu  kín cảnh ngộ tù đày ngày nào, thầm kín đớn đau, bàng bạc không nguôi:

                                                   Nằm  nghe cảm giác trong tâm thức
                                                   Ta thấy  đời ta chẳng an tâm
                                                   Nằm nghe cảm giác qua thân xác 
                                                   Ta thấy đời ta ta lắm lỡ lầm.  
                                                               ( Đêm mất ngủ  đọc thơ người )

Cuộc sống điêu linh nhiều ngã rẽ* đó, những đắng cay va chạm thực tại cuộc sống thoát thai sau những biến cố ,  hy vọng mùa xuân đem lại nhiều niềm mơ ước nhưng vũ trụ vốn vô tình, Cao Mỵ Nhân đâm hờn trách xuân, đẩy lùi những cảm xúc   mong chờ ra khỏi tiềm thức , nhưng thái độ trước bước đường đi tới, bao nhiêu nghịch chướng đã dễ chi  đẩy lui trong thóang chốc; nhưng dù sao chăng nữa, tâm thức nơi mỗi con người  nàng mang ý thức chuyên chở không thể bỏ quên cho một ngày mai tươi sáng:

                                                      phải giang đầu hay cuối bãi 
                                                    Xuân như sương trắng phủ bên sông
                                                    Khách qua năm tháng không về lại
                                                   Xuân nở hoa chi giữa khói đồng.
                                                              ( Hoa xuân nở bên trời )
hay:
                                                    Ngày xưa  chị nhỉ xa xôi
                                                    Quê hương em đã từng khơi chiến bào
                                                    Nửa chứng tơi tả giáp bào
                                                    Cười trong nước mắt  hẹn nhau  phục hồi.
                                                                   ( Tiềm thức gọi)
Khách viễn phương đớn đau thì Cao *Mỵ Nhân không khỏi trĩu nặng thương đau, muốn xua tan đi cơn nghịch lũ, tìm cho mình một hướng đi   .   Chuyện đời bon chen đó, nhưng rồi cũng thành ảo vọng của một thời, tâm ý đúng vô thường.   Sắc thái vô thường dẫn nhập con người vào những trang thái vô thường.   Họa chăng còn tiếng chuông rền vang thức tỉnh con người trở về với thực tại, hiện nguyên hình thể, không thực tướng,  cớ chi mà chạy  trốn:
                                                    Sao thiên hạ cứ nổi trôi chuyện người
                                                    Trần ai chớp mắt nụ cười
                                                    Trăm năm hồ dễ một lời phân minh ?
                                                                (Tất cả vô thường)
Sắc sắc không không* ẩn hiện chập chờn tuy hai mà một, phá bỏ lớp vỏ chán chường, lần về cõi đạo, khi tâm thức bùng vỡ, nhận thức cái ta vô thường vượt thoát khỏi phạm trù, hội nhập vào đài thể, không bởi cuộc đời khổ để mà trốn chạy xa đới, phá vỡ vòng đai nghiệp lực bao quanh thân xác, vươn lên.   Nhưng vẫn không không chôn kín một hình ảnh, một kỷ niệm  xa vời tìm về bản thế :

                                                    Thôi nhé người vô miền tĩnh lặng
                                                    Tôi về thương nhớ áo màu lam
                                                    Tiếng cười mới đó mà xa vắng
                                                     Sắc tức thị không quá rõ ràng.
                                                               (  Sắc tức thị không )

Dòng thơ Cao Mỵ Nhân* mướt mát, miên man tuôn chảy như con sông nhỏ đổ vào biển khơi, tiếp
tới tấp  trong " Áo màu xanh" - Cỏ Thơm, 1999.
Thi tập gồm  54 bài, 20 bài thể 6, 8, 27 bài thất ngôn- trong đó có 2 bài Đường.   Đặc biệt 44 bài thơ , ở đầu tập, được viết trong khoảng thời gian từ ngày 6.6.1982 đến 15.11.1982,được cấu trúc bằng danh xưng người chị- tức nhà thơ Uyển Hương - trong Thi đàn Quỳnh Dao  - Uyên Đình gọi thay  cư xá Bắc Hải ( Saigon) là lầu thơ mà nhóm thường tụ họp.   Những bài sau được sáng tác  khoảng những năm 1994, 1995, 1998, 1999 tại hải ngoại.
 Sách dày 110 trang, chung thủy nét tự do của 3 thi tập trước,  ngập tràn nhạc tính, thi ảnh óng chuốt, mượt mà.
Cao Mỵ Nhân khơi gợi * kỷ niệm  của một thời sau những tháng năm ở trại cải tạo**, trở về lại lao mình trong sinh hoạt văn học của các nhóm thi văn. có lập trường riêng**   Viết văn,  làm thơ   bất chấp sự canh chừng(.... ), dùng Uyển Đình làm nơi gặp gỡ, hẹn hò.   Này đây, Cao Mỵ Nhân nghĩ về người , cảm thấy thương tiếc một dĩ vãng buông xuôi êm đẹp, nay chỉ còn trong mộng tưởng:
                                              
                                                 Mưa đang nhẹ hạt, thoắt mau
                                                 Mưa tan nước mắt nhạt màu tuổi son
                                                 Đợi chờ chi ở nước non
                                                 Lối xưa còn lại dấu mòn thời gian.
                                                                      ( Mưa  đêm )  
Nhớ tới  người xưa tâm tư  trĩu nặng   kỷ niệm, suy tư, Cao Mỵ Nhân băn khoăn những  nơi chốn an2o vương theo tà áo chị mang tô thắm hình ảnh đẹp, hơi thở man mác, khơi động nhiều thương nhớ, thấm nhuần mát dịu của thời hoa mộng nhung gấm thuở nào lùi sâu trong ký vãng:

                                                 Nắng lên, sương đọng sẽ tan mau
                                                 Chị sẽ rời cư xá đến đâu
                                                 Thăm bạn hay là đi trải mộng
                                                 Trên đường hoa bướm đuổi theo sau .
                                                                     ( Bình minh  của chị)
Dĩ vãng  đó không chỉ gói tròn những kỷ niệm ấm êm của người xưa, mà còn nặng mang hình ảnh của những ngày khoác trên mình bộ nhung y, bao nhiêu luyến lưu  của thời vàng son, nay không còn những vương vấn dạt dào của tâm tưởng:
                                                Chỉ   còn tia sáng mong manh
                                                Cuối   chân trời nhạt, em dành cho thơ
                                                Hạ buồn, trời chẳng nắng to
                                                Ngồi bên cửa sổ, mộng mơ chiến trường
                                                                   ( Ngoài  song)
                                                  (....................)
Cao Mỵ Nhân  tin tưởng " .. mưa , nắng tranh nhau một đỉnh  trời :" ** ":
         
                                              Nhưng , chắc mưa không lâu mãi được
                                              Gió này, mây ấy cũng tan thôi
                                              Ô kìa nắng nhạt bơi trong nước
                                              Mưa, nắng tranh nhau một đỉnh  trời
                                                                            (Nắng trong mưa)
Cao Mỵ Nhân luôn nhắc tới niềm tiếc* nuối  một thời miền Nam sục sôi lửa đạn đấu tranh cho sự trường tồn ** .  Trong ý hướng cho một cuộc chiến này, ngôn ngữ thơ Cao Mỵ Nhân vẫn giản dị, chau chuốt, ôm giữ được ý thơ kín đáo và thâm trầm; gây xao xuyến nhiều tâm tư khơi gợi biển dâu của thế cuộc, vận mệnh đất nước:
                                               Chị đứng bên song, hay đóng cửa 
                                               Cửa nào khép kín được cơn mê
                                               Đang vùng vẫy hỏi thời binh lửa
                                               Ai thắng, ai thua, sớm trở về
                                                                        ( Nắng trong mưa)
Thơ Cao Mỵ Nhân mang bản sắc riêng* , nói như một văn hào  Trung Hoa nào đó, thơ cảm rồi mới hiều, nếu thơ lai duy lý ( rationalisme) , như vậy  thà viết bình luận cho xong.   Tình cảm trong thơ Cao Mỵ Nhân không mềm yếu, bộc lộ kín đáo, chừng mực ngay khi phơi trải bối cảnh của đất nước: (........)

                                              Mai em không đến Uyển Đình 
                                              Chị chong  đèn đợi lửa binh lụi tàn
                                                  (............- tạm  lược  2 câu )
                                                              ( Dặn dò)
Cao Mỵ Nhân đã mượn hình ảnh Uyển Hương trong vai trò một người chị thơ mộng và kiều diễm để  ký thác tâm tư, tình cảm và hoài vọng của mình về  mọi mặt, trải rộng những vần thơ mượt mà,óng chuốt tưởng tơ tằm kéo kén, buồn man mác.   Thế giới thơ Cao Mỵ Nhân ngoài một người chị được dùng làm thi liệu, người ta còn thấy những địa danh Uyển Đình, cư xá, hội thơ... hỗ trợ cho nguồn thi hứng tràn trề những nét đặc thù.
 Thực sự đây là nơi  Cao Mỵ Nhân sinh hoạt với các văn thi hữu còn ở  lại ** trong nước, khoảng năm 1982 - khi mới đi  học tập cải tạo **về.    Do đó " Áo màu xanh" ở đây không nhất  thiết màu áo xanh   của những cô nữ sinh Trưng Vương  một thưở nào (....)  .  Qua tới xứ người kiếm được việc làm, bận rộn nhiều với cuộc sống hối hả, bước chân xuống giường đã lo tới nơi làm, lập lại cuộc đời- ấy vậy mà kiếp tằm tơ, trả nợ chữ nghĩa, Cao Mỵ Nhân vẫn không buông trôi.   Vài năm lại đi họp bạn Trưng Vương cho trọn tình, trọn nghĩa.

Tới thi tập"  Lãng đãng vào  Thu"*Kinh Doanh xuất bản ,  2001) , gồm 74 bài thơ dài, ngắn khác nhau, viết theo nhiều thể loại, rải  rác trong khoảng thời gian   các năm 1998-2001, tho đường đi vạch sẵn, day trang.   Đặc biệt trong thi tập này, đề tài thường xoáy sâu vào thu và nhiều  bài đường luật- kỹ thuật cổ điển rất khó hình thành, tiêu biểu của trường phái Thi xã Quỳnh Giao.   Đây là một hội thơ của một số nhà thơ cao niên   còn sót lại, được Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội - hiền thê của nhà thơ Đông Hồ - được bầu làm niên trưởng sau 1975, thay  thế nhà thơ nữ Đào Vân Khanh di tản qua Hoa Kỳ.
Trong thi tập thứ 5  này của Cao Mỵ Nhân  , giọng thơ vẫn dường tựa một dòng suối mát, chở chuyên những săc thái thăng trầm trong dời người   không khỏi làm con người đảo chao:

                                                   Quanh co sắp hết đường đời
                                                   Thế mà cứ tuởng cuộc chơi chưa tàn
                                                   Đắm mình trong giấc chiều tan
                                                   Sầu thêm chất ngất ánh vàng trăng xưa
                                                                             ( Dặm hoa tri kỷ)
Tình yêu khi đã đích* thực - không bởi xa mặt cách lòng ( out of sight of mind )  như người đời thường nói- cho dù có cách xa vẫn không phai tàn , son sắt chung thủy.   Nó tựa tia nắng hanh vàng giữa mù thu muộn, là sự an ủi những khổ đau giữa cõi đời, là niềm tin qua tâm sự, là khát vọng nỗi nhung nhớ.   Nới đây không có lời gian dối, phản bội trong cuộc chơi dù tình đó chưa xới trồng, vun bón.   Nó là tri kỷ rất tình, rất thơ:
                                                  À  ra anh biết con tằm
                                                  Nhả tơ dệt mộng thang năm cho người
                                                  Còn em chỉ thích trên đời
                                                  Chúng mình đan ngón tay ngồi bên nhau
                                                                              ( Thả tơ )
hay:
                                                   Thế nào là giọt pha lê
                                                   Trong như nước mắt, lạnh tê tái hồn
                                                   Bởi vì lỡ một nụ hồn
                                                   Không say đắm lắm, sẽ buôn lòng nhau
                                                                               ( Khi trời trong vắt)
Dường nhu toàn thể thi tập thoáng đãng một thứ tình cảm như thế, phảng phất khí trời thu, đúng như
 tựa đề" Lãng đãng vào Thu"- buồn nhẹ nhàng, man mác hay bâng khuâng như nghĩ tới một hình ảnh nào xa xôi tùy theo mỗi đối tượng:                            
                                                    Sao anh rời khỏi lều mưa
                                                   Đeể em lặng lẽ đường trưa một mình
                                                                                ( Lặng lẽ )
Nhưng không vì thế mà Cao Mỵ Nhân  vội quên ngày nào của Tháng Tư..., nếu trong một bài thơ khóc cho Nguyễn Thái Học và các đồng đội của mình lên đoạn đầu đài, Đằng Phương đặt tựa đề " Ngày tang Yên Bái" - thì thiết nghĩ ngày nay có thể gọi là" Ngày tang đất nước " - Cao Mỵ Nhân  đã nhân cách hóa tháng tư... bằng một vị thần, mang theo nhiều biểu tượng suy ngẫm:

                                                    Thần tháng tư vừa trở lại hôm nay
                                                    Trên căn gác buôn tênh mầu cổ nguyệt
                                                     Em nhìn ra, xem anh có đến
                                                    Cuối  trời xa, ánh chớp loé trong mây
                                                                                      ( Đêm 30.4)
Những bông hoa nở rộ trong vườn thơ  Cao Mỵ Nhân, dù nẩy sinh trong bất cứ tiết trời nào vẫn ngan ngát hương thơm phản ảnh trung thực một tâm hồn trong sáng, chứa chan tình yêu chân thật; dù trải qua sóng gió của biển dâu hay bão tố.

Sang tới" Người tình đi tu"*, xuất bản  2001- dù có một đôi bài trùng lắp tập thơ trước - Cao Mỵ Nhân dàn trải nhiều chặng đường đời gió bão, từ những ngày rụt rè tuổi học trò, mang  trên người mầu áo xanh của cô nữ sinh Trưng Vương, tới những ngày khoác bộ chiến y màu xanh, trải dài tháng ngày phong sương, qua đất người lặn lội trong việc làm mới, bao nhiêu thơ mộng, dằn vặt, chia ly, tan tác đến và đi....
 Bước sang  mùa thu của đời, dòng  thơ Cao Mỵ Nhân rũ bỏ sau lưng mọi hằn đọng đời thường đi vào cõi đạo, uy nghi, đĩnh đạc, phóng thái thiền cho vơi bớt muộn phiền, tâm hồn thăng hoa tới chốn kỳ diệu:
                                          
                                                     Từ sau tương biệt hẳn rồi
                                                     Còn mong hạnh ngộ luân hồi nữa không
                                                     Chăc rồi có kẻ trông mong
                                                     Còn ai thì vẫn bồng bềnh lãng du
                                                                      ( Lãng du )
Cao Mỵ Nhân trong " Đưa người tình đi tu" , biểu hiện lằn ranh đời, đạo tương song.   Cao Mỵ Nhân đã thể hiện phong cách chốn trang nghiêm nơi cổ tự, vang vọng tiếng mõ câu kinh, tâm hồn lâng lâng muốn thoát tục về chốn non bồng.   Cao Mỵ Nhân tự nhận với mình, thiết tha tình nghĩa, vốn dĩ tâm hồn vấn vương nhiều kỷ niệm khó thể xóa nhòa mỗi chốc :
                                                       Giờ thì sóng gió đã yên
                                                       Tâm tư cũng lặng, ưu phiền cũng tan
                                                       Tôi đi dọc bãi cát vàng
                                                       Dẫu xưa mờ nhạt hôn hoàng lênh đênh
                                                                        ( Dấu xưa )
Cao Mỵ Nhân làm thơ* từ lứa tuổi ô mai, tuổi nhiều mộng mơ dưới mái học đường, tràn đầy cảm xúc, ký thác tâm tư vào những vần tơ saáng trong.   Đời thơ dấu ấn nhiều trình tự sáng tạo, riêng khác không trùng lắp, bao quát nhiều ngã rẽ, khi đùa cợt, chua chát, đắng cay, khi bâng khuâng man mác, phiền buồn gói trọn theo ngôn ngữ thi ca.
Tình yêu biến hóa nhiều sắc thái, hoặc mang nỗi khắc khoải, hoài nghi như  hè, tu qua đông, hoặc ấp ủ nỗi buồn không tên, về u hoài trầm mặc, niềm tin nỗi vui ít với tới.   Sau ngày khói lửa tàn rụi trên quê hương đổ nát điêu tàn bi thảm trùm khắp, Cao Mỵ Nhân dường tựa con ốc im lìm trong vỏ, chứa chấp cả sóng gió của trùng dương, câm nín chịu đựng, đợi chờ niềm tin mới.   Thực tại cuộc đời nơi xứ lạ quê người, ngoài vấn đề sống, bao nhiêu chuyện cần giải quyết, nghĩ đến người  chiến hữu năm xưa, giờ đây, đã xa lìa cõi bụi hồng:

                                                 Thôi em bỏ lại sau lưng
                                                 Quan xưa, áo cũ đã từng dọc ngang
                                                  (........ tạm lược 2 câu )
                                                  ( Sau cuộc chiến)
Vũ trụ thi ca của Cao Mỵ Nhân * bát ngát vô cùng tận- không thể thu gọn trong dăm ba trang giấy, hồn thơ lãng đãng trải rộng như sương khói, kỹ thuật biến hóa theo dòng cảm xúc  sáng tạo, Cao Mỵ Nhân chưa ngưng nghỉ trong kiếp thơ , miệt mài năm tháng với chữ nghĩa, chắc chắn còn đem cho đời nhiều khám phá mới.   Phải chăng như nhận định của Jakobson:    "  Thơ là một phát ngôn nhằm vào thể cách phát biểu" ( La poésie n'est rien d'autre qu'un énoncé visant à l'expression").***.
[]
NHẬT THINH.

( trích từ LÀNG , trên đầu trang 28,  có hàng chữ SACTO xuôi ngược-
không đóan ra là  tạp chí nào - bởi,  bạn tôi  ở SACTO  gửi về, không ghi tên báo,
ngày, tháng năm  phát hành.   Tôi đoán chừng : - tạp chí" Đất đứng" / Hội Văn nghệ
Sĩ  Mỹ- Việt của Đinh Nhật Thịnh. (TP. chú thich ).
------
*    - B.T in chữ đậm ( bold ).
**   -cụm từ, chữ,  được thay thế ( B.T.)
*** -nếu bạn đồng ý ,sau khi đọc  lời bình của Nhật Thịnh-
         thì không cần tham khảo bài" Vũ Hoàng Chương:
         " Thơ ta chẳng viết cho đời... " / Thế Phong
           ( Google / search... )               
  :

Thứ Bảy, 26 tháng 11, 2011

T.T.KH..... NẾU EM LÀ VỢ.../ NGUYỄN THANH NHÃ viết về Thế Phong.

Lời dẫn:
- tôi không thích tiêu đề "  T.T.KH. .../NẾU EM LÀ VỢ"- với tôi  : vô nghĩa, bí hiểm, kịch cỡm, chẳng  mấy  ăn nhập nội dung - dầu tôi biết  anh Nguyễn Thanh Nhã muốn nói" tác giả "NẾU ANH CÓ EM LÀ VỢ' viết về T.T.KH.-  chẳng hạn thế !
cuối 1959, Đại Nam văn hiến xuất bản cục ra mắt 'NẾU ANH CÓ EM LÀ VỢ"in ronéo, khổ  21x33, bán 100 Vnđ , trưng bầy ngoài tủ kính Nhà sách ALBERT PORTAIL ( Xuân Thu)  - làm xốn xang mắt  kẻ qua, người lại- nhất là  các tay làm văn chương ghét nhiều , yêu ít! .  Báo Journal
d' Extrême Orient giới thiệu :" Si vous m'aviez pour femme"  tel est le titre évocateur d'un florilège poétique..." - tôi , tác giả thì  lại thích hơn,    dịch  đúng, phải là " Si je t'aurais pour femme".
-....anh Thanh Nhã ghép  T.T.KH.... / NẾU EM LÀ VỢ" - chẳng lẽ THẮNG PHẢI GIÓ phải hiểu: đang  xin cưới nàng ảo T.T.KH làm vợ?   TIÊU ĐỀ kia  LÀM TỰA  bài viết   'HƠI BỊ BÍ HIỂM quá đấy' ! (  theo  lối  nói bây giờ) .
...  bây giờ mời bạn đọc bài Nguyễn Thanh Nhã viết  về Thằng Phải Gió,  in trong " CÁNH ĐỒNG KÝ ỨC / NGUYỄN THANH NHÃ "  ( Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội , 2007) . Sách   tiếng việt -   trang 2  :  " tựa bìa giả" ,  in  tiếng anh-huê kỳ :   

                                               NGUYEN THANH NHA
                                            ( NGUYEN THANH NHAN )

                                            MEMORIAL PADDY FIELD
                                                   Miscellanea Volume

                           THE  WRITERS ASSOCIATION PUBLISHING HOUSE
                                                          HA NOI, 2007
                                          
-...  ngầm ý  dành   người nước ngoài  đọc  - thí dụ thôi nhé, dịch sang anh-mỹ ngữ :   " If you were my wife " thì -  tây mới hiểu " Nếu em là vợ"?! 
....- nói gì thì nói -    chốt lại  -  tôi  ghi nhận  thịnh tình  các tác giả viết về  THẰNG PHẢI GIÓ ( đúng, sai, phải, quấy, khen, chê ,  lương thiện ,  có  ý đồ.... đều không quan trọng )- nhận  lời chân tình  đa tạ  ở đây - gồm  cả  anh Nguyễn Thanh Nhã  ( 1937-       ).
Thếphong.

                                                T.T.KH
                                                NẾU EM LÀ VỢ
                                                              tác giả : NGUYỄN THANH NHÃ.
 
Tôi quen  anh Thế Phong cũng như nhiều nhà văn nhà thơ khác nhờ mối tình thơ buộc lại nhau, dù kiến thức thơ văn của tôi so với anh, có một khoảng cách nhất định - vì anh đã hành nghề viết báo, viết văn từ 50 năm về trước - còn tôi mới chỉ nhập môn văn của "ĐẠO LÀM*  THƠ".( * chữ gạch dưới của  B.T. )
Tên khai sinh của anh  là Đỗ Mạnh Tường, sinh ngày 10-7-1932 tại Yên Bái, trong giấy tờ tùy thân năm 1936- ngoài bút hiệu Thế Phong thường dùng, còn có các bút hiệu khác :  TƯƠNG HUYỀN, ĐƯỜNG BÁ BỔN, ĐINH BẠCH DÂN," THẾ NHẬT"  ( tác giả  T.T.KH.- Nàng là ai ?" ) .  Bút hiệu nầy chung với Trần Nhật Thu".
Mới 20 tuổi, Thế Phong đã có truyện ngắn Đời học sinh đăng trên báo TIA SÁNG  ở Hà Nội với bút hiệu TƯƠNG HUYỀN và chỉ hai năm sau, anh đã có truyện dài in ở Sài Gòn " TÌNH SƠN NỮ" ( 1954) và cho tới nay Thế Phong  đã có 50 tác phẩm đủ thể loại đăng ký tại Cục Bản quyền tác giả, gồm: thơ truyện, phê bình văn học, khảo luận, dịch thuật- đủ thấy kiến thức văn học và ngói bút đa năng chuyên nghiệp của anh.
   Cũng từ 1952, Thế Phong đã bước vào làng báo.   Ở Hà Nội bấy giờ, anh cộng tác với nhật báo TIA SÁNG, GIANG SƠN, phóng viên báo THÂN DÂN, DÂN CHỦ, viết cho tạp chí QUÊ HƯƠNG.
     Từ năm 1955, khi đã vào Sài Gòn, anh bắt đầu làm Chủ nhiệm tuần báo Mạch Sống, khi tuần báo này đình bản , Thế Phong cộng  tác với nhiều tờ báo :  ĐỜI MỚI, NGUỒN SỐNG MỚI,  tạp chí SỐNG, SINH LỰC,  nhật báo SỐNG , tuần báo ĐỜI, TRÌNH BẦY, TIỀN TUYẾN, SÓNG THẦN,  LÝ TƯỞNG v..v..
 Về tác phẩm ngoại ngữ, Thế Phong đã đăng truyện ngắn LES  IMMONDICES DE LA BANLIEUE trên   báo   LE MONDE DIPLOMATIQUE  ( Paris  12-1970) ,  đăng thơ trên tạp chí TENGGARA ( Đông Nam Á)   từ 1968- 1972, sau in lại thành tập  ASIAN MORNING, WESTERN MUSIC - Preface by  Professor Lloyd Fernando ( Dept. of English, University of Malaya- Malaysia ( 1972)  tại Sài Gòn.
Từ năm 1959- 1975, anh chủ trương  nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến   và đã in một số tác phẩm của các nhà văn quen thuộc thời ấy.
Thế Phong có cũng không ít tác phẩm được  chuyển dịch ra Anh ngữ và Pháp ngữ có giá trị.
Các tác  phẩm  khác như truyện vừa, truyện ngắn, tự- sự- kể , tập truyện, khảo luận    và dịch truyện các nhà văn nước ngoài, anh đã in và phát  hành hàng chục cuốn  - trong đó có CHIÊU NIỆM BỐN NHÀ VĂN SÀI GÒN: VŨ HOÀNG CHƯƠNG, ĐINH HÙNG, NGUYỄN ĐẮC LỘC, TAM LANG, thêm  HÀN MẶC TỬ, NHÀ THƠ SIÊU THOÁTCuộc đời viết văn  TAM LANG -TÔI KÉO XE mới in  trong 5. 6 năm trở lại đây, được nhiều người đón đọc, nhất là giới trẻ.
Riêng về thơ NẾU ANH CÓ EM LÀ VỢ, tập thơ đầu tiên in năm 1959, năm 1996 được NXB Văn học ( Hà Nội ) tái bản , tiếp đến là SAI BIỆT, VƯƠNG MIỆN MAI A, CHO THUÊ BẢN THÂN, TRƯỚC MẮT NHÌN THI SĨ, ĐÀN BÀ & TỔ QUỐC, THƠ LÀM LỚN DẬY CON NGƯỜI, VIỆT NAM VÙNG TRỜI LỬA ĐẠN ... NAM VIỆT NAM, ĐỨA TRẺ THƠ CỦA VÚ EM HUÊ KỲ.
  Các tác phẩm này đều viết  tại Sái Gòn từ 1960 đến 1968.
Tác phẩm văn xuôi mới nhất của Thế Phong  : HÀ  NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA Nxb Thanh niên  1999, với  dạng bút ký - khi anh là thành viên trong Phái đoàn văn nghệ sĩ miền Nam dự hội nghị  LES TEMPS DES LIVRESTrung Tâm  Ngôn NgữVăn minh Pháp tại Hà Nội.   Đây là lần đầu tiên anh trở về Thủ đô sau gần nửa thế kỷ xa cách.

                                                                      ***
Tư ngày thân nhau, anh đã tặng tôi một số tác phẩm, gồm thơ, khảo luận, tuyện vừa, truyện dịch.   Nhưng xin thú thật, vì có nhiều tư liệu các nhà thơ, nhà văn thân hữu, nên tác phẩm của anh tôi chưa đọc hết.
Trong lứa tuổi cắp sách đến trường trước đây, tôi tin rằng không ai không bết bài thơ tình" HAI SẮC HOA TIGÔN" mà  tác giả lại có cái tên  T.T.KH. bí ẩn.   Và cũng vì cái tên bí ẩn này mà có một thời các nhà văn nhà thơ tên tuổi đoán già đoán non - gán cho ông này, bà kia; nhưng rồi chẳng đâu vào đâu cả.   Tác giả chỉ là cái bóng vô hình ở phương trời xa xăm nào đó.   Đây chính là môt nghi án văn học mà gần nửa thế kỷ qua chưa ai giải mã được.
Bỗng nhiên, tác phẩm T.T.KH. ra đời  của tác giả THẾ NHẬT - bút danh của THẾ PHONG và Trần Nhật Thu, sách do Nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin  Hà Nội, 2001 ấn hành.   Tác giả đã mở toang cánh cửa nnghi án này với những chứng cứ xác thực dày công suu tầm được, đủ sức thuyết phục mọi người lâu nay từng băn khoăn, thắc mắc về  xuất xứ bài thơ " HAI SẮC  HOA TI GÔN" tuyệt với nói trên.
Sở dĩ tôi nói tác giả đã dày công, vì hai nhân vật trong cuộc tình dang dở này trọn đời chưa tiết lộ với ai về người yêu dấu đầu đời của họ, vì một lý do tế nhị là mỗi bên đã có gia đình riêng , và giờ đây một người đã qua đời - một người đang ở xa Tổ Quốc.   Cả hai chỉ gặp lại nhau một lần, khi đôi mái đầu đã lấm tấm hoa râm rồi xa nhau vĩnh viễn.
Khi xem tác phẩm T.T.KH. NÀNG LÀ AI? của Thế Nhật, điều bất ngờ đối với tôi là người tình của tác giả, bài thơ  HAI SẮC HOA TIGÔN  không xa lạ  với chính trường Miền Nam dưới tời chế độ cũ:   Theo  lời người bạn  thời đó là một ký giả, có cho tôi biết rất rõ, đó là luật sư LÊ NGỌC CHẤN, nhà ở vùng Phú Nhuận trước đây ( tôi quên tên đường ) - thế mà ai biết được  vai chính trong cuộc tình dang dở ấy!.   Ông đã kết duyên với bà Trần Thị Vân Chung, chính là người có bút danh bí ẩn T.T.KH. nay còn sống ỏ Pháp, Bà còn bút danh khác là Vân Nương.   Trang cuối của tác phẩm, Thế Phong còn cho in bài thơ" VÀO THU" của bà Vân Nương, cả thủ bút mới sáng tác vào năm 1993.
( có  chụp thủ bút bài thơ" Vào Thu"  của   tác giả Vân  Nương, in trên đầu trang 248 - TP chú thích ).

Một công trình sưu tập khác của Thế Phong cũng không kém  phần giá trị, là tác phẩm" HÀN MẶC TỬ, NHÀ THƠ SIÊU THOÁT"  - Tôi cũng có không ít tư liệu về nhà thơ tài hoa họ Hàn - nhưng khi xem tác phẩm  của anh, rất đầy đủ và xác thực.   Cuộc đời văn chương cũng như các mối tình của Hàn Mặc Tử được anh kể có nhiều tình  tiết mà tôi chưa thấy tư liệu nào nói đến.   Anh còn sâu sắc trong cảm nhận thơ Hàn, cũng như tâm trạng khắc khoải, đau đớn của nhà thơ và những người yêu say đắm thơ và cuộc đời một người đang mang chứng bịnh ngặt nghèo, dù biết rằng không thể nào chung sống.
 Trong tập" HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA" , Thế Phong đã dẫn dắt người xem hồi tưởng lại từng con đường, góc phố của Thủ đô thời còn mang dáng dấp cổ xưa.   Đồng thời, cảm nhận sự thay đổi một cách tinh tế, dù trải qua 40 năm xa cách anh mới trở lại lần đầu.   Sự thay đổi của cảnh vật và cả con người, là chất liệu cho ngòi bút diễn tả sinh động, đúng như lời của nhà văn Hoàng Lại Giang nhận xét:
"..  Với HÀ NỘI BỐN MƯƠI NĂM XA .. tôi thấy Thế Phong có sự xông xáo, cách viết bộc trực như lối sống của anh, có người ưa, kẻ không ưa.   Dầu sao, đọc anh vẫn bị  cuốn hút từ chuyện này sang chuyện khác, đôi khi tưởng như thiếu mạch lạc; nhưng vẫn bị anh dẫn dắt.   Qua đây, ta lại thấy một Hà Nội 40 năm xa vẫn là Hà Nội của bạn bè, tình nghĩa thủy chung, một Hà Nội đã và đang chuyển mình  - Bạn bè đồng nghiệp vẫn có cái gì đó rất thiêng liêng dù trong cảnh bần hàn hay đã được cải thiện với đời sống..."

                                                                       ***
Đọc thơ Thế Phong, tôi xin trích một đoạn viết về tác phẩm của Thế Phong, của nhà thơ Nguyễn Khôi ở Hà Nội:
".. Thơ Thế Phong thuộc dạng" thơ khó đọc" không phải văn Tây mà cũng chẳng văn Tàu.   Lối thơ ta lục cục lùng cùng như sô phận của anh vậy.   Đọc thơ Thế Phong không khác gì đánh vật với ngôn ngữ,  thơ không giống một ai xưa nay, như đô vật ( võ sĩ) gặp một đối thủ rất" kỵ giơ" không thuộc một lò ( môn phái) nào làm ta đã nếm mùi...
Để hiểu anh, đi được vào hồn thơ anh ( du ngoạn theo cái ảo - cái hình tượng thơ mà thi sĩ sáng tạo ra ấy ) với thơ Thế Phong phải là một hành trình cuốc bộ, trèo đèo, lội suối, qua biển đường đời ,để vượt  bức tường của" Thằng Phải Gió" rất nhọc nhằn , nhưng không kém phần kỳ thú !... nếu ta để ý biết " ngó" một chút sẽ thấy cái TÂM của hắn ta,  " hảo" cái hồn của hắn ta,  " hay" cái chữ nghĩa của hắn ta uyên thâm và mê ly,  " đẹp" cách diễn đạt hình tượng thơ của Thế Phong rất lạ.
Để tìm cái hay, cái đẹp, hồn của nhà thơ, tôi cảm thấy nên mượn mấy dòng này trong bài mở đầu tập tho" NẾU ANH CÓ EM LÀ VỢ", có tựa đề MAI A HOANG TÍM cũng đã đủ biết được thi tài của tác giả, và cũng có  thể gọi là Tuyên ngôn của Thế Phong khi đặt bút làm thơ:
.
" Đến người làm thơ,  quan niệm của một người làm nghệ thuật.   Đầuu tiên, thơ làmột lẽ tổng hợp của độ bứt nghệ thuật.   Nó là kết quả của rung động, xác kiến hòa hợp, đãi lọc trước khi đến hay và định đề kinh cầu cuộc sống là một "...

Và những dòng thơ sau đây của anh,  là kêt quả của  rung động, xác kiến hoà hợp, đãi lọc đến hay của Thế Phong:
                                  Qua đêm dài thao thức
                                   Hôm nay tôi đến miền Trung
                                   Quê hương xứ sở thân gầy
                                   Của vùng chạy dài theo ga xe lửa
                                  Nha Trang, Ninh Hòa, Đại lãnh, mũi Varella
                                  Tôi thao thức đêm qua không ngủ
                                  Tôi yêu từng sợi cỏ gianh
                                  Từng ngự trị mái nhà lụp xụp
                                  Theo hàng ga chuyển bến Tour-Chàm..
                                    .......
                                    Chiều nay lại ghé Nha Trang
                                   Nhớ sao cho hết đường mòn miền núi
                                   Qua đường hầm  xe lửa Ninh Hòa Varella
                                   Thì sao mà quên cho hết
                                   Dáng người xứ Huế áo đỏ chiều qua ...

                                                Trích" QUÊ HƯƠNG XỨ SỞ THÂN GẦY".

Một ngày năm 2002, tôi và các bạn nhà văn, nhà thơ Lữ Quốc Văn, Mai Anh, Thế Phong, Hoàng Vũ Đông Sơn, vợ chồng anh Trần Thiện Hiệp, Bùi Đức Dung, vợ chồng anh Lê Phổ Đức và cháu, cô Hồng Ngọc tổ chức chuyến tham quan, vãn cảnh Hà Tiên - từ đó, mối tình thơ văn giữa chúng tôi ngày càng thêm khắng khít.
 Để kỷ niệm giao tình giữa tôi và anh Thế Phong, tôi viết tặng anh bài thơ pha chất" tếu"trong chuyếnđi du lịch Hà Tiên.

                                                   PHONG "PHẢI GIÓ" *

                                         Chữ PHONG "phải gió" không anh!
                                        "T.T.KH" chuyện tình áng văn
                                         Gây bao sóng vỗ, mưa giăng
                                         MẠNH văn hư thực đã thành tiếng vang

                                         "TIGÔN"  mấy sắc tặng nàng
                                         'NẾU EM LÀ VỢ" muộn màng không anh ?
                                         'TAM LANG""CHIÊU NIỆM NHÀ VĂN"
                                         "CÔ GÁI NGHĨA LỘ" thế chàng gặp chưa ?

                                          Văn thơ tác phẩm chuyện vừa
                                          ĐỔ TƯỜNG nghiêng vách chẳng chừa nàng đâu ?
                                          Cái hình khắc khổ bìa sau**
                                          Nụ cưới hóm hỉnh hàm râu bậc thầy...

                                                                                    19-12-2002.
                                                                 NGUYỄN THANH NHÃ.

---------------------------------
*  Nhà  văn Thế Phong trước năm 1975 trong giới nhà văn, nhà báo đặt tên kèm" phải gió", hình như có bút hiệu trùng tên hay đặc thù của nhà văn Thế Phong.
-những chữ hoa trong ngoặc là tựa tác phẩm và tên họ của Thế Phong. ( Chú thích : Nguyễn Thanh Nhã).
------------------------------
** in  chân dung  Thế Phong cùng 5 tác phẩm:  " T.T.KH., nàng là ai?"- ấn bản in 1994 và tái bản 2001 - "Hàn Mặc Tử, nhà thơ siêu thoát" - "Chiêu niệm bốn nhà văn Sài Gòn" -  Cuộc đời làm báo, viết văn: Tam Lang-Tôi Kéo Xe"- "Nếu Anh Có Em Là Vợ..."  (trang . 252) ( TP chú thích) (---------------------------------------------------------------------------------------------------------------                                     

"..