Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

nhà văn, tác phẩm, cuộc đời - thế phong - 3



                        nhà văn tác phẩm cuộc đời    3
                                                  thếphong

                                                            3

     Lại về  Bà Rịa , nằm tá túc ở nhà bà cô ít lâu; rồi trở lải Saigon.   Tôi đành phải lại nhà  đại úy Triều Lương Chế  *  ăn nhờ, ở đậu vậy.   Giữa tội và Chế quen nhau, chẳng phải là thân từ lâu, nhưng Chế quí văn tài của tôi một phần và ngay  trong thời kỳ tôi bị mắc kẹt tiền nong ở xóm Chùa Tân Định, tôi lại  vay tiền anh, chưa bao giờ anh  từ chối.   Anh hơn tôi 6 tuổi, Chế cũng viết văn, là người có chí khí, đã từng quen ông Ngô Đình Nhu vào thời kỳ trước, cả khi có mặt tuần báo Xã hội.    Đồng đảng  với Đỗ La Lam **, mà nay, anh không nhờ vả gì, khi ông Nhu làm cố vấn tổng thống   Ngô Đình Diệm.  Tôi thấy 1 người có tư cách như vậy , nên cũng hết lòng tin cậy , kính phục.   Chế có xe hơi, nhờ ở số tiền bán  mấy chục ngàn cuốn
 sách cho chính phủ -- đề tài chính trị chống CS  -- viết theo lối tuyên truyền giai đoạn .
-----
*    còn là nhà  văn, tác giả cuốn tiểu thuyết tựa đề " Lý tưởng " .  Xem thêm trong" Nhà văn hậu chiến 1950- 1956 / Thế Phong " ( tập 4 trong bộ  " Lược sử văn nghệ Việtnam 1900-1956  " ).
**      chủ nhiệm báo  Xã  hội tòa soạn ở đường Ypres ,  cơ quan đảng  Cần Lao  trong bóng tối. 
-------- 
     Khoảng 1955- 56, tôi có một anh bạn  nữa ,  làm văn nghệ, nhưng chăng có một chút gì gọi là có chất văn chương ca, anh ta  viết cuốn Người quân nhân Cộng hòa   -- nhờ ông Bộ trưởng phụ tá quốc phòng Trần Trung Dung , có chân trong đảng Cần Lao, viết tựa  - ấy thế là anh có 5 chục vạn  Vnđ,  trừ khấu tất cả tiền mua chuộc anh em kế toán cũng như tay chân dính líu .  Bây giờ, cũng vẫn là anh ta,  khi phong trào Phật giáo thành công  sau vụ đảo chính 1963, anh ta vội bỏ đảng Cần Lao, để đầu thai với pháp danh Tuệ Giác * .   Thời kỳ nào anh ta cũng
có mặt, biết dính liền vào guồng máy nào mạnh.   Trong thời kỳ còn chính phủ Ngô Đình Diệm, anh ta loan tin rằng, tôi làm mật vụ cho chính phủ trung ương ( mà khi ấy tôi đang bị lùng bắt ).  Ông Chánh  Bân , bố đẻ một ông trung tá * * , môt buổi lại chơi với anh Phạm Quang  Huyến , nơi hiên giờ tôi đang ở nhờ, ăn đậu, cho biết tin này.
------
*     Tuấn Giang - Hồ Bá Cao 
**    ông trung tá kia, nay  đã là chuẩn tướng .
---- 
     Tôi bảo cụ   Chánh Bân , cũng như lần bắt gặp anh ở ngoài đường, nhắc lại chuyện này , anh ta ( Tuấn Giang )  chối -- nhưng tôi  lại tỏ lời cảm ơn anh -   vì loan tin như anh ta - thì tôi có thê sống yên ổn .   Phải nói thật lòng,  Tuấn Giang rất tốt  với tôi, một bài  trong tập san Hương Quê, viết về vụ Nhân Văn , anh trả tiền  cao và sòng phẳng,  chứ không trây nợ như với chủ báo khác.   Trong thời gian ở nhờ anh anh Chế,  sáng, tối, tôi ở thư viện, tiền tiêu vặt , thuốc lá là tiền  anh trả qua những  bài báo đặt hàng  củ chủ báo  Tuấn Giang- Hồ Bá Cao.   Nhưng ở nhờ nơi nhà anh Triều Lương Chế ít lâu, tôi tự cảm thấy khó chịu, không chỉ  nhiều khách khứa của anh  lui  tói  , gặp tôi , họ  hỏi xem tôi là ai-- và điều này, tôi cảm thấy tủi hổ, cho rằng khách khứa của anh Chế biết tôi ăn nhờ, ơ đậu -- nên tôi nại cớ  phải về Bà Rịa thăm bà cô nghỉ dưỡng sức ít lâu.  

      Nhưng thật ra, tôi đến ở nhở nhà  Uyên Thao thuê ở ngõ đường Đoàn Thị Điểm.    Chúng tôi sống bằng cách  thuê nhà  chung   và lo liệu cơm nước với nhau.   Chẳng bao lâu, lại vì hình bóng đàn bà  ám ảnh -- tôi lại phải sửa soạn từ giã nơi này  để ra  đi nữa. 

     Chẳng là Đặng thị  Ngọc Oanh đã ra trường , làm y tá, nàng đến tìm tôi, dọ hỏi xem, có bằng lòng cưới nàng  làm vợ chưa ?   tất nhiên, tôi chối từ, vì tôi rất đói, đòi sống viết báo bấp bênh, tôi không thể nào  lấy vợ.   Oanh giận tôi và đi lấy chồng.   Tôi đau khổ, buồn bực.  Rồi để đến bù lại -- bên hàng xóm --   một bà trạc 40 , thuê căn nhà sát cạnh nách nhà chúng tôi.   Căn nhà chia ra  làm 3 , 4 buồng cho thuê,  phía trên  trống, nên  bà ta  dễ dàng  hỏi han, trò chuyện với tôi . Bà ta nhắc lại , khi còn ở hẻm Champagne  / Yên Đổ  / Lý Chính Thắng  , bà chợt nhớ ra  ở đấy  cũng có người quen.  Tôi nhắc tới tên  ông bà  thiếu tá Th.   Đây chỉ là câu chuyện làm quà, nhưng không ngờ, bà hàng xóm 40  kia là đàn em của bà thiếu tá Th.    Thế là, chúng tôi trở thành thân thiết  Bà ta khai lý lịch với chủ nhà,  vợ một ông thượng sĩ  đang chiến đấu ngoài mặt trận .  Nhưng cứ mỗi lần tiền nhà chậm trả, chủ hối thúc, bà ta khất nay mai chồng về sẽ trả luôn một thể.  Chủ nhà hoài nghi, lý lịch kia không đúng, có người cho biết trước kia bà là me tây, nếu có chồng là thượng sĩi đang chiến đấu ngoài mặt trận, vậy  bà ta làm bé rồi.    Mỗi lần nghe họ cãi nhau vậy, tôi là kẻ đứng ngoài, cũng thấy khổ tâm vô cùng.    Dầu cuộc sống tôi chẳng khấm khá gì, chạy vạy từng bữa đã khổ, lại còn thêm nghề làm văn sĩ, bản thảo chồng chất đầy va-li, tôi  chán quá, măc quần áo  đi rong phố xem sao ?  

       Trong túi chỉ còn 4 đồng bạc, vào thời kỳ này, hiệu Kim Sơn đường Lê Lợi có thể cung cấp cho tôi 1 ly cà phê đen, có thể ngồi lâu hàng mấy tiếng đồng hồ.   Đang buồn bực với bao chuyện không đâu, tôi gặp trung úy văn sĩ Văn Quang.  Hồi ấy, anh mới tập nghề, nên có về anh quí mến tôi, có thể một phần vì văn tài.   Chứ bây giờ, anh ta nổi tiếng hơn tôi nhiều, ấy là đối với độc giả đàn bà, con gái, với truyện dsài feuilleton đăng trên nhật báo, với truyện khuê phòng bán chạy  hạng nhất.   Văn Quang có ý rủ tôi về  ở nhà anh.   Chưa nhận lời ngay, trong thầm tâm  nghĩ: sáng ra thư viện, trưa về chua biết ăn cơm ở đâu;  có lẽ đây là  dịp may., nếu tôi nhận lời về chỗ anh  tá túc.  Anh ta cần tôi xem đường hướng văn chương cho anh, còn tôi của áo cơm đã có  anh ta lo.

       Như thế cũng tốt, tạm ổn,  chẳng ai phiền ai !

     Tôi trở về nhà Thao, thì Thắng còn thức.  Và 1 anh bạn của hai bạn vẫn còn ngồi chơi ơ đấy.   Đêm hôm ấy trời mưa, tôi bị ướt như chuột lội qua sông.   Thay quần áo xong, tôi chui vào màn, lơ đễnh cầm cuốn  ai có qua cầu *  của anh Nguyễn Đức Quỳnh  ký  tặng ban chiều.  
Tôi đi ngủ trước,  để đèn ngủ đọc sách.   Và chẳng có một chữ nào vào trong đầu .  Thao  và Thắng cũng đi ngủ sau dó.  
------
*   tựa sách không viết  chữ hoa, trong  nghề gọi là  sắp chữ bdc, Hoài Đồng Vọng. 
---- 
     Rồi bỗng nhiên , bà bên hàng xóm lên tiếng hỏi vọng sang -- tôi không hiểu sao  bà  nói với tôi giong thân mật lạ thường : anh Hai" dìa " rồi hả ?  Chợt nghĩ, rằng, đêm nay có thể sẽ phiêu lưu sang phòng bà xem sao ?   Dầu chúng tôi mới quen nhau  , nhưng tôi cho rằng, gặp bà,   tôi sẽ quên hết bực rọc, đau đớn đang  hành thân xác.    Khi 2 thằng bạn  ngáy ngon giấc rồi, trôi bèn leo qua vách ván.   Chiếc đèn Hoa Kỳ còn le lói trên bàn ngủ của bà.   Chiếc giường trang bị mền mùng, gối ôm,  đêm tới nhìn vào, trông phát ngon lạ '; nhất là ngoài kia trời mưa gió.   Khi tôi leo sang rồi, tôi tắt phụt ngọn đèn , thì bà  lên tiếng hỏi :  ai ? Tôi  suỵt , khai tên là  Hà.   Bà hỏi tiếp, sang đây ăn trộm hả ?   Tôi đáp không .  Bà lại giả đò kém thông minh, vẫn là tật  đàn bà  giăng bẫy đàn ông , hỏi thêm: vậy qua đây làm chi ?  Bèn đáp:  câu chuyện còn dài , nói khẽ thôi, chứ không họ biết đấy !   Tôi kể lý do cuộc hành trình.  Bá bắt đầu chống cự khi tôi đòi hôn.  Vẫn như chị Năm Hưởng  lấn đầu tiên đêm nào, với lối ban phát tình dục  rất trịch thượng của bậc đàn chị.   Môi tôi bắt đầu kề môi bà, tôi nằm nghiêng, úp lấy hình hài người đàn bà.  Tôi hứa rằng, bắt đầu từ ngày mai, sẽ nhờ bà nấu cơm cho tụi tơi, đỡ phai mất công ra quán.  Đây là một đòn kinh tế chí tử, vì ban ngáy, lúc làm quen với tôi, bà gặng hỏi, sao không để bà nấu cơm cho ăn luôn thể.   Ra hàng quán không ngon lại tốn tiền nhiều.   Vì bà cần có tiền, muốn ăn cơm phải đưa tiền trước, những 3 người , số tiền kia không nhỏ và bà có công việc làm.  Tôi lại còn giáng thêm một đòn chí  hiểm nữa, lợi dụng  khai thác mâu thuẫn giữa  bà và  chủ nhà, tôi sẽ kể cho bà nghe chuyện gì mà chủ nhà nói về bà với tôi.  Thật ra chẳng cần phải đọc sách Dale Carnegie , tội chắc nắm phần thắng trong tay.   Có người đàn bà nào ghét nhau, lại không muốn nghe địch thủ nói xấu mình đâu, nhất là nói xấu lúc vắng mặt và được đệ tam nhân kể cho nghe.   Rồi bà hỏi tôi bao nhiêu tiền một tháng , tôi đáp liền: ba ngàn đồng.  Bà liền giơ tay ôm lấy tôi  rồi âu yếm  mở lòng từ phút ấy.  

     Đêm hôm ấy, tôi mơ một giấc mơ tuyệt đẹp, sau mệt quá, ngủ lịm đi đến tảng sáng  không hay.   Người đàn bà rất sắn sóc tôi kia, thính ngủ  lắm, không bao giờ quên bổn phận cả.  Bà căn đúng tảng sáng rồi  giục tôi về, kẻo hàng xóm biết.

    Nhưng sáng hôm sau, tin này cũng được loan đi chầm chậm.  Ở miệng môi một người đàn bà khác, cũng may, họ đi sang Lào ngay vào sáng hôm sau.   Thế là phần tôi, lại phải chuẩn bị cách đối phó trong vài ba ngày tới, nếu người đàn bà kia ở Lào về, thì câu chuyện  đầy đủ thêm nhiều chi tiết, thì nguy to !   

     Và tôi trực  chỉ tới nhà Văn Quang, thêm một chỗ tá túc mới : 29 c Sư Vạn Hạnh, Saigon 10, trước cửa bệnh viện  Nhi Đồng. 

                                                                     ***


    Cùng  trong 1 thời gian này, tôi gặp 1 người quen, trước kia cùng buôn bán với mẹ tôi ở Nghĩa Lộ.  Ông bà di cư về Hànội và bây  giờ vào Saigon.   Nhớ lại xưa kia, tôi cùng ngồi đánh bạc chung với ông, dạo ấy tôi say mê bài bạc mê mệt, như làm văn  nghệ bây giờ.   Tôi từng lấy hết tiền hàng của mẹ, trút vào sòng tài sửu, đánh xì -phé, biết bao nhục nhã của 1 kẻ ham chơi.  Tôi có tật, ham cái gì thì ham cho hết độ, rồi khi thôi, thì không bao giờ thiết tha nữa - bây giờ đây, tôi dửng dưng với cớ bạc, chơi cũng được, không chẳng sao.  Chứ không còn như ngày xưa, không có tiền đánh bạc, tôi vẫn ngồi  chầu rìa và hút thuốc lá vặt, thật mới thảm hại làm sao !  Có lần tôi đã đánh cắp tiền con của  chị chủ nhà, khiến chị  phải cảnh cáo, nói nặng: chắc sau này chú có thể vác quần  vợ đi cầm để đánh bạc  lắm .

     Trở lại chuyện gặp ông bà, người quen  ấy, cũng ở trước cửa Nhà thờ Bắc Hà, ông cho biết, mẹ tôi mất rồi , ngay sau khi  Việt Minh chiếm Nghĩa Lộ vào cuối 1952.   Tôi nghe vậy, buồn thê thiết, thế là, 5 năm sau người chết, tôi mới nhận được tin.  Xưa kia, lúc còn nhỏ ở nông trại Làng Bữu, mỗi khi nhìn thấy đám tang đi qua,  theo sau, có nhiều kẻ khóc lóc, tôi hỏi mẹ, tại sao người ta lại khóc chứ ?   Mẹ trả lời: mày  bất hiếu lắm con ạ !  

      Sau này,  khi ba tôi bị bắt, rồi mất tích ở   nơi nào vùng Việt Bắc  ? vì VM bắt đi, ngoài sự nghi ngờ  theo Pháp,   Người  có dính líu với Việt Nam Quốc Dân Đảng năm 1930.  Nhà giáo ấy bị quản thúc và bị đổi lên mạn ngươc , cũng vì  lý do đó.   Rồi ba tôi chết đi, tôi không giỏ đước giọt nước mắt tiễn đưa Người. Và đến mẹ tôi, cũng không được một giọt nước mắt.
    Tôi bất hiếu thật !

     Khi Văn Quang biết tin này,  khuyên tôi buồn thì cũng vậy thọi, anh ta đưa tôi đi xem xi-nê, rồi đưa tôi về nhà anh ở đường Sư Vạn  hạnh.  Văn Quang còn mẹ già, bố  làm chánh tổng,  lấy vợ hai, bà mẹ anh buồn, nên  hay khóc thương thân , uống rượu  đế vụng trộm không cho con trai biết.  Ngày ngày, Văn Quang đi làm, với chiếc Vespa   tồi tàn; còn tôi, ở nhà đánh máy bộ sách phê bình văn nghệ gần 1000 trang đánh máy.   Hoặc, tôi ra thư viện.   Thường ngày, mổi chiều đi làm về, Quang hỏi tôi xem có thư xanh , thư 1 người con gái xứ Quảng gửi vào.   Còn tôi, chờ mong thư  gửi từ Hong Kong về, đó là những cánh thư Linh Bảo .  Nếu được gọi là sinh thú cuộc đời , tôi chỉ còn sống được nhờ làm văn nghệ cùng những lá thư xa xôi ấy.  
Diệu Viên viết thư rất hay, lại là người gốc Huế làm văn chương nữa và nàng hơn tôi 6 tuổi.  Nàng đã đủ điều kiện bóp chết lòng si mê của tôi rồi !  Diệu Viên có chồng ở Hong Kong và nàng  tòng sự tại Lãnh sự quán Việtnam ở bên đó.  Một số thư từ của Diệu Viên , tôi đã trích lại trong tự truyện Nửa đường đi xuống .  Mà đã có một dạo, sau khi sách xuất bản, bạn  phóng viên văn nghệ tạp chí Bách Khoa, anh Nguiễn Ngu Í  rất tọc mạch, muốn xem  bản chính lá thư kia.   Chắc chắn rằng, lối viết tự-sự-kể của tôi  mới quá, khác quá, gây thắc mắc, nghi ngờ  cho làng văn chương xứ An Nam chậm tiến này ?   Cứ lạ một chút là ngạc nhiên, nghi ngờ, vì họ chỉ biết theo khuôn sáo cũ, chẳng hạn như phê bình Nguyễn Du, Phan Khôi... , phải  tôn danh xưng  cụ, nếu không, phạm thượng !     Giá Nguyễn Du sống lại , hẳn ông cũng không thể tha thứ được, nghĩa là với bài phê bình dở về ông, lại pha thêm cái giọng không dám đả động đến tiền bối thông minh, giỏi giang , của kẻ hậu sinh ngu dốt , lại không biết mình ngu dốt ?  Tôi dám chắc rằng, Nguyễn Du còn sống, hẳn sẽ bằng lòng với kẻ nói về ông, là hậu sinh mà biết giá trị thực thơ văn ông, biết chê điều dở ( tất nhiên  là so sánh vào thời gian mà tác giả có mặt ) , ông sẽ hài lòng hơn nhiều  -- có phải vậy không, hỡi anh hồn thi sĩ Nguyễn Du ?   

     Khi tôi xuất bản  tập thơ Cho thuê bản thân , trong thi phẩm ấy có 1 bài thơ Cho thuê Nguyễn Du  -- thì, một người viết báo, cho rằng tôi là loại văn nghệ sĩ nào ?  Vì cho rằng, cả  nước An Nam  này có một Nguyễn Du làm gia sản, bây giờ tôi cho thuê, không lấy bồi thường; hẳn lịch sử 5000 năm văn hiến này còn gì là  giá trị ?    Làm như  Nguyễn Du  có mặt ho đến ngày nay,  đã noi hết cho họ hình tượng sống  thời đại nguyên tử, hạt nhân ấy không bằng ?   Vậy  theo lập luận của ho, các văn sĩ hiện  thực, siêu thực, cách mạng hiện thực hướng thượng của Việtnam hậu chiến này là thừa hay sao ?    Sự có mặt của chúng tôi vô ích chăng, vi có Nguyễn Du là đủ.   Như Pháp có J.J. Rousseau, thì cần gì những nhà lý luận cách mạng mới nữa ?   Trung Hoa có Lý Bạch, Đỗ Phủ ..., cần gì có Lỗ Tấn, Ba Kim , Mâu Thuẫn , Quách Mạt Nhược ?... 

     Tôi rất kính trọng văn tài Nguyễn Du, nhưng không phải cái gì Nguyễn Du cũng nhất; đem lên bàn thờ cúng vái, vì Nguyễn Du không thể đại diện cho dân tộc chúng tôi một chiếu dài vô tận đối với lịch sử Việtnam  được, mà tôi chỉ  đồng ý cho Nguyễn Du điển hình trong thời đại thôi.  Một vài ý kiến này đã diễn dịch trong bài thơ đó :

                                                    CHO THUÊ NGUYỄN DU
                                                     gửi Lữ Hồ

                            Thắt nút cà- vạt cổ cồn  không thấy ghét bám phía sau 
                            lên giọng thầy giảng văn chương khỏi mang tiếng học trò 
                            mang sự lúng túng đền bù thuốc lá châm liên miên
                            chưa nghiện thuốc  nặng sao phà hơi qua lỗ mũi   
                            bảo đảm vợ con trưa chiều áo cơm lên giọng
                            gõ mặt bàn tiếng văn chương Nguyễn Du 
                            ba trăm năm chưa hết -  còn ai khóc Tố Như ?
                            có chăng phường bất tài ám ảnh mượn danh tràn ?
                            thi nhân ngày xưa hẳn mặc toàn áo gấm ?
                           túi đầy tiền rủng rỉnh tay nào với tha nhân ?
                           tôi không còn hứng cảm thông Kim Vân Kiều 
                           tôi nhổ bọt vào mặt tôi chót khen thi hào 
                           lời khen tặng mười năm ròng không đổi mới 
                           ba ngàn câu thơ chưa làm tôi xúc động
                           họa chăng đôi ba câu tả thật đời lãng mạn
                           dăm ba điều kinh nghiệm của lần trao ái tình
                           một vài cảnh đẹp nước chảy qua cầu tiết Thanh Minh 
                           mua gương Từ Hải vì ai mà lơ láo triều đình ?
                           một lần ẩn mặt Hồng Lĩnh tìm vần thơ ẩn chìm
                           và như thế đủ rồi: Nguyễn Du, một ghế ngồi thi sĩ
                           phủ nhận lịch sử văn chương chiều dài thơ muôn năm 

                           Tôi khinh tôi ra mặt  cứ khen tràn cổ nhân
                            tôi phỉ nhổ  mặt tôi thực sự phê bình Kiều danh tiếng
                            văn học sử này tôi sổ toẹt thi hào vỏ
                            đại diện một góc cạnh cỏn con nhìn đời nho nhỏ
                            cả tên làm thơ quan lại nịnh bợ danh tướng công
                            mong danh tiếng mình mãi mãi gắn bó cùng non sông
                            ca tụng cái đẹp vẻ hay nhà trường đổi đồng tiền 

                           Tôi hi vọng học trò không bằng lòng lới khen giảng
                            áo cổ cồn thôi vòng cổ tôi đấm bóng tôi trong gương soi 
                            Cho thuê Nguyễn Du thật cấn thiết không đòi bồi thường .  *

                            THẾPHONG
  ----   
*  đăng đủ trọn bài, thay như trích đoạn  trong   ấn bản  năm 1970 do Nxb Đại Ngã, Saigon tái bản.   
   - bản này trích lại trong THI TẬP VII /  CỤM HOA TÌNH YÊU / Hội thơ Tài tử Việtnam hải ngoại  xuất  bản, Hoa Ký, 2002 .  ( Như Hoa - Lê Quang Sinh, chủ tịch Hội ). 
------ 
     Thật tội nghiệp cho Nguyễn Du ! Chỉ vì những kẻ bình giải thơ  Tố Như  không đúng chỗ, mà ông ta bị mang tiếng với hậu sinh, là tôi đây, lên án ông, chỉ vì bọn giây leo kia làm hại ông rồi !
Nếu Nguyễn Du còn tại thế, thuở sinh tiến cũng không thể đoán được có những  hiện tượng ở sau này lại lạc hậu đến vậy !  Chẳng bù cho trí thông minh của Kark  Marx , cũng   không  sao dự đoán nổi, sau này sẽ có chiến tranh nguyên tử, hạt nhân v. v ... Nên bổn phận của người sau phải tổng hợp cái  dữ kiện  hôm qua cùng cái hôm nay tạo cho ngày mai và sự diễn biến của nhân sinh cứ luân chuyển mãi mãi như vậy.  

      Nói chuyện Nguyễn Du chán rồi, trôi lại nói về những ngày ở cùng Văn Quang; tôi làm gì, anh bạn làm gì ?  Anh ta cũng bắt đầu viết một tiểu thuyết  phóng sự  Những ngày hoa mộng.  Mỗi khi viết xong 1 đoạn  , anh bảo tôi đọc và cho ý kiến .  Loại văn của anh  cũng giống Thanh Nam  thôi, tiểu thuyết khuê phòng, chắp vá lớp lang tình cảm léo lắt, cốt giải trí cho đám đàn bà, con gái thành thị sống đầy đủ áo cơm, nhưng muốn lòng mình có một chút bợn sóng, gọi là biết khổ một cách phơn phớt hoa đào  trong văn chương,  để  kích động xác thịt của mình nhiều hơn lên.  Tôi nói với anh tương tự như vậy.   Tôi còn nhấn mạnh :  nếu bố tôi làm  văn thơ dở, tôi cũng chê dở như thường, chứ không vị tình, khen tưới  là hay !".   []

                                                                   ( Còn tiếp ) 

     thế phong

  ( Nxb Đại Ngã tái bản, Saigon 1970 - tr 50 -  63 ) 
                                 

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ