hồi ký nguyễn đăng mạnh : nguyễn đình thi từ thơ ấu đến ...
hồi ký nguyễn đăng mạnh
hà nội 2008
nguyễn đình thi
từ thơ ấu đến bài thơ 'đất nước'
hồi ức nguyễn đăng mạnh
Tôi đã viết 2 bài thuộc chân dung văn học về Nguyễn đình Thi :
- Nguyễn đình Thi như tôi đã biết
- Từ lần gặp ấy tôi đã hiểu thêm Nguyễn đình Thi
nay, tôi kể thêm mấy mẩu chuyện khác về anh.
Nguyễn đình Thi từ thời thơ ấu đến bài thơ ' Đất nước '.
Người ta thường nói Nguyễn đình Thi sinh ở Luang Prabang (Lào). Nhưng chính NđT đình Thi lại nói vơi tôi, anh sinh ở Phong-xa-lỳ. Anh nói rất cụ thể, hồi ở với tôi ở Đà nẵng , tháng 7 năm 2000.
Bố anh là một nhân viên bưu điện sơ cấp bị điều sang Lào, phụ trách một trạm bưu điện ở Phong-xa-lỳ, ở đây, ông lấy con gái một Việt kiều, vốn là một đầu bếp, người [ở làng] Đông thái, Đức thọ, Hà tĩnh. Ông này trốn sang Lào, vì có ính vào vụ Hà thành đầu độc. Dân ở đây rất lạc hậu, một dân tộc thiểu số của lào, gọi là Phù nọi . Dân Phù nọi ăn cả đất, Thi từng bắt chước họ ăn đất.
Phong-xa-lỳ là một khu vực quân sự (territoire militaire ). Toàn là lính tây, lính ta, lính khố xanh [garde indigène], khố đỏ [tirailleur], và tù chính trị. Xa nước, nên từ nhỏ NđT hay nghỉ về đất nước. hay tưởng tượng về đất nước. Nhưng đất nước trong tâm trí cậu bé là thế : một đám tù chân xiềng , tay xích, lính giải đi làm cỏ-vê hàng ngày.
Thi lên 6 tuổi, bớ thấy con sắp thành dân Phù nọi đến nơi, muốn đưa về nước. Rất may mắn, 1930, bố anh được điều về Việt nam. Mẹ anh thường cưỡi ngựa. Bà cưỡi ngựa, đi hàng trăm cây số. Bóng bà đi ngựa leo dốc còn in mãi trong trí nhớ anh sau này - anh nói đó là một hình ảnh rất nên thơ.
Gia đình anh về nước, đi từ Phong-xa-lỳ, qua Luang Prabang, Tà-khẹt về Hà nội. Lần đầu anh nhìn thấy ô- tô, anh gọi là cái nhà biết đi. Lúc đầu gia đình anh ở Hà nội, phố Bạch mai. Sau đi hải phòng, rồi lại trở về Hà nội. Anh tự thấy là một chú nhãi Hà nội, thuộc đủ ngõ ngách, phố xá của Hà nội.
Gia đình NđT không phải trí thức. Không biết chữ Hán, coi như ngoại đạo đối với văn học. Trong đám sách vở nghèo nàn của bố, anh chỉ được đọc và nhớ có một câu thơ của bà huyện Thanh quan:' Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi' . Sau này, ngẫm lại cuộc đời mình, anh thấy đời anh cũng chỉ là ' Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi'. Ngoài ra, có được đọc một bản dịch Những người khốn khổ/ Victor Hugo. Cảm động nhất là đoạn Jean Valjean tìm Cosette. Cosette trong đêm tối mù mịt, xách xô nước, tự nhiên thấy nhẹ bỗng đi. Té ra Jean Valjean xách hộ. Anh nghĩ, suốt đời chỉ mong xách hộ nước cho một đứa bé nghèo.
Anh biết rất ít văn học Việt nam. Mãi sau này mới đọc Đoạn tuyệt, Nửa chừng xuân, đến 30 tuổi mới đọc Tam quốc, Thủy hử. Không biết chữ Hán, không biết Thơ mới, không biết Tự lực văn đoàn, không cảm được cái hay của ngôn từ chữ Hán. Không thích viễn phố bằng bến xa, nghe gợi nhiều hơn, không thích lâm tuyền, thích nói suối xa. Cho nên làm thơ ngoài luồng Thơ mới, ngoài luồng Tự lực văn đoàn, cảm thấy thế nào cứ làm như thế, điếc không sợ súng.
(Nghe nói nói lại NđT như thế, Nguyên Ngọc không tin, cho là Thi nói dối. Nguyên Ngọc dứt khoát không tin ở sự thật thà của NđT).
Nguyễn đình Thi rất thích cảnh rừng núi - anh nói thế - vì anh đã ở Phong-xa-lỳ, nên về sau lên Việt bắc thấy quen thuộc như đã biết từ bao giờ rồi. Mẹ NđT là một người đàn bà rất đảm. Khi gia đình ở Hải phòng, bố anh lại bị điều vào Saigon-Chợlớn, bà không theo vào. Bà mở một xưởng làm kẹo bột. Về Hà nội cũng làm kẹo, đi kháng chiến, bà trồng hẳn một đồi sắn. NđT nói :
' Bà ghê lắm, giỏi lắm ! ' ( thế mà, hình như bà mù chữ).
ở Hải phòng, anh chứng kiến Nhật đổ bộ. Anh nói ' Nhục lắm ! Nó đi đâu cũng ra hiệu hỏi nơi nó đi '. Anh lớn lên vào lúc cuộc đại chiến thứ 2. Nhật vào. Phong trào Việt minh. Thời thế đặt ra những câu hỏi lớn. Nguyên Hồng gọi là thời kỳ đen tối (1940- 45). Theo NđT , đây là thời kỳ trắng đen, thật giả lẫn lộn. Vì thế dễ lầm lẫn ( Nguyễn công Hoan + Nguyễn Tuân đã lầm lẫn )- phải suy nghĩ tợn. Suy nghĩ về đời, về đất nước, về sự sống, về chân lý, vể đường
đi ... Cho nên, NđT thích đọc và viết triết học. Anh viết Kant năm 1942, lúc 18 tuổi. Tiếp đó là nhạc, mãi sau mới làm thơ và viết văn.
Như thế, NđT đi từ triết đến nhạc, rồi mới đến thơ văn. Thơ văn có cấu trúc nhạc. Ông bố NđT ngày xưa có chơi đàn nguyệt, đàn bầu. Còn anh thì tự học nhạc , chỉ bằng một cái đàn mandoline và một cuốn nhạc phổ thông. Có một buổi học nhạc [với] một mục sư. Nói chung là tự học.
Từng chứng kiến cảnh mất nước tư ở Lào, rồi cảnh Nhật vào hải phòng, đến hiệp định 6/3, lại chứng kiến Pháp kéo vào từ Hải phòng, theo đường số 5.
( Trường Chinh giao nhiệm vụ cho NđT đi đả thông đồng bào 2 bên đường số 5: không đón tiếp ,mặc nó, nhưng không gây sự ).
Vì thế, được làm chủ đất nước, NđT thích nằm ngửa ở sân trường, nhìn trời xanh không biết chán. Sau này nhớ lại ' Trời xanh đây lả của chúng ta ! '.
Kháng chiến, NđT có chuyện buồn : 2 người thân mất ( vợ + cô em vợ định gả cho Thi) cộng thêm nỗi đau đất nước bị dày xéo.
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Giây thép gai đâm nát trời chiều
THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
Anh nói, 8 năm kháng chiến, mới viết được 2 cấu ấy. Khắp nơi giặc chăng giây thép gai : hành quân ở Bắc giang, nhìn lên đồi cao thấy giây thép gai in trên nền trời đỏ như máu . Hành quân liên miên, đi ngày, đi đêm, Toàn đi bộ, một ngày có khi 50 cây số, từng qua vùng thượng Lào , ' Ngày nắng cháy, đêm mưa dội '- cứ thế đi dưới trời mưa . Vì thường hành quân đêm, nên, có 2 hình ảnh rất ấn tượng đối với anh : lửa và sao. Lửa đốt sưởi lúc nghỉ chân. Không phải đèn mà lửa :
Ngôi sao nhớ mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây
NHỚ / THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
Đến chiến dịch Điện biên phủ, lính đi trong chiến hào ngập nước, có khi tới ngực. Mặt mũi đen nhẻm, vì, chỉ có bùn và khói súng, cười răng trắng xóa, từ bùn vụt lên ,' Rũ bùn đứng dậy sáng lòa '.
NđT nói : ' Nguyễn Tuân rất thích hình ảnh này.
Còn chị Mộng Tuyết gặp anh lần đầu, kêu lên :
' A anh rũ bùn đứng dậy sáng lòa' đấy à ! '
Bài thơ Đất nước làm ở Việt bắc từ 1948. Ghép 2 bài thơ kháng chiến với nhau. Sau, bẵng đi, đến 1955 mới làm tiếp ở Thái nguyên - xã Phú minh, bên sông Cầu ( làm tiếp bài thơ ' Đất nước' và bắt đầu viết tiểu thuyết ' Vỡ bờ' ). Anh nói, bài Đất nước kết cấu theo âm nhạc. Chủ âm a từ mở bài, thân bài đến kết bài :
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
... Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
... Nước Việt nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
(................................................) *
----
* tạm lược khoảng 8 trang A4. [BT].
***
Năm 2000, tôi vào Sài Gòn. Một buổi sáng, tôi ngồi uống cà-phê với anh Hoài Thanh ( cán bộ giảng dạy đại học Sư phạm Sài Gòn ) , ở một quán vỉa hè đường Nguyễn Du - thấy Nguyễn đình Thi đứng ngay gần đấy. Anh đứng trông ra đường, chắc đang đợi xe đến đón đi đâu đó. Tôi gọi anh và mời anh uống cà-phê.
Hoài Thanh nói :
' Trông bác vẫn trẻ lắm !'.
NđT trả lời :
' Tôi lúc trẻ người ta bảo là già. lúc già người ta lại khen là trẻ.'
Hỏi anh về sức khỏe, anh nói bị tuần hoàn não.
Khi anh ốm nặng (2004), tôi có đến thăm anh. Hôm ấy, anh vừa được uống cổ linh chi, một thứ thuốc quý hiếm, được coi là thần dược. Người khỏe lại hẳn. Chân tay co duỗi thoải mái. Anh thử biểu diễn cho tôi xem, có vẻ vui và tin tưởng lắm Chị Tuệ Minh chăm sóc anh. Anh nói nhỏ với tôi :' Anh đến thăm tôi thế này là quý hoá lắm ! '. Rồi anh giới thiệu tôi với chị Tuệ Minh.
Vậy mà, chỉ mấy ngày sau, anh qua đời
***
Về sáng tác và nhất là về con người Nguyễn đình Thi, kẻ khen không ít, người chê cũng nhiều. Điều ấy chắc anh biết rõ. Nhưng, anh không bao giờ thanh minh, không bao giờ tự bào chữa.
Hoàng ngọc Hiến * cho đó là một chỗ rất được của Nguyễn đình Thi .
LÁNG HẠ 1-1-2008.
nguyễn đăng mạnh
----
* ... Duy có 2 người tôi rất quý trọng ... Hoàng ngọc Hiến và Phạm Luận. Hoàng ngọc Hiến, tôi đã viết ở trên rồi. Còn Phạm Luận, tôi thấy chỉ càn nói một câu : ' đấy là môt đấng trượng phu quân tử của thời hiện đại ., một cốt cách đường hoàng, một phong thái thung dung, thật sự coi thường danh lợi ' . (NđM]
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ