thi nhân - thi ca & cảm nhận : tế hanh / lê ngọc trác 11
té hanh : 'cánh buồm vôi đi qua thế kỷ !
bài viết : lê ngọc trác
Những bài thơ viết về quê hương, đất nước, cũng như những bài thơ viết riêng về một làng quê đều tạo được ấn tượng tốt đẹp đối với những người yêu thơ.
Cách đây gần 80 năm, trong phong trào Thơ mới xuất hiện nhiều cây bút viết về làng quê Việtnam. Và, họ đã thành danh, Tám mươi năm qua, trong phong trào thơ mới xuất hiện, nhiều cây bút viết về làng quê miền bắc, chúng ta đều nhớ đến những bài thơ của thi sĩ Đoàn văn Cừ, Anh Thơ, Bàng bá Lân .. [ hoặc] hay nhắc đến thôn Vĩ dạ ở Huế, chúng ta nhớ đến bài Đây thôn Vy dạ của Hàn mặc Tử. Nói đến Huế đẹp, Huế thơ, là nhớ đến những bài thơ thi sĩ Nam Trân. Và như thế, khi nói đến cảnh sinh hoạt một làng chài ven biển, chúng ta nhớ ngay đến bài Quê hương / Tế Hanh :
Làng tôi vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây, cách biển nửa ngày sông
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá:
Chiếc thuyền nhẹ băng như con tuấn mã
Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tập nập đón ghe về
' Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe'
' Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá !
NGHẸN NGÀO / thơ TẾ HANH
Thơ về làng chài là một đề tài hiếm người viết. Có lẽ, Tế Hanh là người duy nhất viết về làng chài. Và, đã thanh công với bài Quê hương.
Tế Hanh tên thật Trần tế Hanh, sinh ngày 15 - 5- 1921 ở làng Đông Yên, xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Bài thơ Quê hương, chính là cái làng chài Đông Yên thân thương của Tế Hanh . Sinh ra, lớn lên, gắn bó với quê hương - một làng chài thơ mộng nằm ở cuối dòng sông trà hiền hòa. Tế Hanh đã tinh tế đưa vào thơ hình ảnh sinh hoạt trong cuộc sống. Cảnh tấp nập ghe thuyền cá đầy khoang trên bến đỗ, nhưng con thuyền như con tuấn mã căng cánh buồm vôi trắng bạc của làng ngư phủ, giữa sóng nước đại dương. Hình ảnh những con thuyền nằm im , bến mỏi, sau mỗi chuyền ra khơi. Chính vậy, thơ Tế Hanh gần gũi, quen thân với người yêu thơ.
Từ tuổi 16, 20, với một tâm hồn nhạy cảm, đầy tha thiết, Tế Hanh chọn lựa nét đặc trưng đưa vào thi ca một thế giới gần gũi đời sống. Nỗi buồn vu vơ tuổi học trò trước cảnh chia ly trên sân ga ( Vu vơ ), nỗi niềm của con đường làng ( Lời con đường quê ) gợi cho người đọc niềm bâng khuâng, nỗi xao xuyến... Năm ông 21 tuổi, với thi phẩm Nghẹn ngào, Tế Hanh, người làng chài Đông Yên đã vinh dự được giải thưởng của Tự lực văn đoàn năm 1939- khẳng định vị trí nhà thơ trong phong trào thơ mới. Cũng từ đấy, Tế Hanh gắn bó suốt đời với thi ca. Và, với bài Quê hương, Tế Hanh đã ghi dấu ấn rất riêng trong phong trào thơ mới. Bài thơ ra đời to71iu nay gần 80 năm, mãi mãi vẩn hấp dẫn người yêu thơ. [ Quả là ] bài
Quê hương của Tế Hanh như cánh buồm vôi vượt trùng dương đã đi qua thế kỷ.
Trong hành trình thi ca, Tế Hanh đã cho xuất bản các tác phẩm : Nghẹn ngào ( Hoa niên , 1939) ,
Lòng miền Nam ( 1956), Chuyện em bé cười ra đồng tiền ( 1960), Hai nửa yêu thương ( !967 ) .
Đi suốt bài ca ( 1970), Câu chuyện quê hương ( 1973), Theo nhịp tháng ngày ( 1974), Giữa những mùa xuân ( 1976), Con đường & dòng sông ( 1980), Bài ca sự sống, Tuyển tập Tế Hanh ( tập 1- 1987),
Thơ Tế Hanh ( 1989 ), Vườn xưa ( 1992), Giữa anh & Em ( 1992), Em chờ anh ( 1993), Tuyển tập
Tế Hanh ( tập 2 - 1997 ) .
Suốt gần một đời, Tế Hanh viết nhiều thơ về quê hương, đất nước, chiến tranh. Thơ Tế Hanh có nét rất riêng, độc đáo, đằm thắm, sâu sắc được người yêu thơ đồng cảm. Nhà thơ Chế Lan Viên nhận định về
Tế Hanh :
'...anh viết khá hay về biển, biển trong bão dữ. Nghĩ đến anh, tôi nghĩ về cái êm đềm của những con sông. Anh có thể tả mùa hè rực rỡ, nhưng hình như,, anh xúc động nhất mùa thu ...'
Cùng với những bài thơ hay viết về quê hương, đất nước, Tế Hanh còn viết nhiều về tình yêu. Thơ tình Tế Hanh không có nét rạo rực, cháy bỏng, lãng mạn bay bổng như Xuân Diệu, cũng không dằn vặt khổ đau như thơ Vũ hoàng Chương. Thờ tình Tế Hanh thường gắn với hoàn cảnh cụ thể trong đời sống thường nhật, thể hiện nỗi niềm đằm thắm, sâu kín tận đáy lòng :
' Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Bà mẹ già tóc mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?
Hai ta như ngày nắng tránh ngày mưa
Như mặt trăng mặt trời cách trở
Như sao Hôm sai Mai không cùng ở
Có bao giờ cùng rở lại vườn xưa ?
Hai ta như sen mùa hạ cúc mùa thu
Như tháng mười hồng, tháng năm nhãn
Em theo chim em đi về tháng tám
Anh theo chim cùng với tháng ba qua
Một ngày xuân em trở lại quê nhà
Nghe mẹ nói anh có về hái ổi
Em nhìn lên vòm cây gió thổi
Lá như môi thầm thỉ gọi anh về .
Lần sau anh trở lại một ngày hè
Nghe mẹ nói em có về bên giếng giặt
Anh nhìn giếng, giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh.
Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh
Tóc mẹ già mỗi ngày mỗi bạc
Hai ta ở hai đầu công tác
Có bao giờ cùng trở lại vườn xưa ?
1957
Bài Vườn xưa nói về nỗi niềm xa cách của đôi tình nhân trong hoàn cảnh ở 2 đầu công tác. Ở đây, chúng ta bắt gặp nỗi cô đơn, nhớ nhung của nhiều người có chung một hoàn cảnh. Bài thơ tình ở Hàng Châu, Tế Hanh viết từ 1956 - có lẽ đây là một trong những bài thơ tình hay nhất của Tế Hanh. Điều tưởng chừng như bình thường , giản di , qua thơ Tế Hanh , bỗng nhiên sâu sắc vô cùng, làm lay động tâm hồn nhiều người:
Anh xa nước nên yêu thêm nước
Anh xa em càng nhớ thêm em *
Trăng Tây Hồ vời vợi thâu đêm
Trời Hàng Châu bốn bề êm ái
Mùa thui đã đi qua còn gửi lại
Một ít vàng trong nắng trong cây
Một ít buồn trong gió trong mây
Một ít vui trên môi người thiếu nữ
Anh đã đến những nơi lịch sử
Đường Tô Đông Pha làm phú
Đường Bạch Cư Dị đề thơ
Hồn người xưa vương vấn tự bao giờ
Còn thao thức trên cành đào ngọn liễu
Phong cảnh đẹp nhưng lòng anh thấy thiếu
Bức tranh kia anh muốn điểm thêm màu
Có hai ta cùng tựa bên cầu
Cho mặt nước Tây Hồ trong sáng nữa
Lá phong đỏ như mối tình đượm lửa
Hoa cúc vàng như nỗi nhớ dây dưa
Làn nước qua ánh mắt ai đưa
Cơn gió đến bàn tay em vẫy
Chúng mình yêu nhau từ độ ấy
Có núi sông và có trăng sao
Có giận hờn và có chiêm bao
Cay đắng ngọt bùi cuộc đời kháng chiến
Nói sao hết em ơi bao kỷ niệm ...
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui
Những ngày vui sao lại thấy ngùi ngùi
Anh không muốn hỏi nhiều quá khứ
Ngày đẹp nhất là ngày rồi ngày gỡ
Rời Tây Hồ trăng uống Bắc Cao Phong **
Chỉ mình anh với im lặng trong phòng
Anh ngước nhìn bức thêu trên vách :
Hai bóng người đi
một hàng tùng bách
Bàn tay nào đã dệt nỗi lòng anh ?
Tiếng mùa xuân đem sóng vỗ bên mình
Vơ vẩn tình chăn chập chờn mộng gối
Anh mơ thấy hàng Châu thành Hànội
Nước Tây Hồ bỗng hóa nước Hồ Tây
Hai chúng mình cùng bước dưới hàng cây .
1956
-----
* có bản chép : ' Anh xa em càng nhớ em thêm' ( BT)
** một dãy núi ở Hàng Châu - Trung quốc ( tác giả chú thích ).
Cũng như những nhà thơ cùng thời : Xuân Diệu, Nguyễn xuân Sanh, Chế Lan Viên, Huy Cận - nhà thơ tế Hanh còn dịch thơ tiếng pháp. Đây cũng là mảng đề tài, công việc trong sự nghiệp sáng tác, dịch thuật của ông. Tế Hanh dịch thơ những nhà thơ lớn Nga, Pháp, Đức ..., như Pushkin, J.Fitos, Hugo, Aragon, Eluard, René Char, S, Petofi, B. Bretch.. ra tiếng việt. Những bài thơ doTế Hanh chuyển ngữ từ pháp sang việt rất tài hoa, tinh tế, đầy chất thơ, giữ được cái hồn của tác giả đã chinh phục bao thế hệ người yêu thơ. Và giúp cho người đọc tiếp xúc với văn hóa thế giới.
12 giờ ngày 16- 7- 2009 tại Hànội, Tế Hanh trút hơi thở cuối cùng để về với sông nước của quê hương- sau hơn 19 năm nằm liệt giường, vì căn bệnh xuất huyết não. Ông hưởng thọ 89 tuổi.
Từ bài thơ đầu tiên Lời con đường quê đến nay, Tế Hanh đã đồng hành cùng thi ca gần 80 năm, đi qua thế kỷ. Ông đã có những đóng góp nhất định vào nền thi ca hiện đại.
Năm 1996, Tế Hanh được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Mã Giang Lân, nhà nghiên cứu, phê bình văn học nhận xét về thơ Tế Hanh một cách ngắn, gọn - nhưng rất đầy đủ, chính xác;
"... Thơ Tế Hanh giản dị, trong sáng, tinh tế mà đậm tình đất nước ...'
Tế Hanh đã thực sự trở thành một trong những cây đại thụ trong nền thi ca đương đại Việtnam. []
( còn tiếp )
lê ngọc trác
tài liệu than khảo& trích dẫn:
- Thi nhân Việtnam / Hoài Thanh+ Hoài Chân ( Nguyễn đức Phiên, Hànội 1942)
- Non nước xứ Quảng / Phạm trung Việt ( 1971)
- Tuyển tập thơ Tế Hanh I ( 1987 )
- Tuyển tập thơ Tế Hanh II ( 1997 )
- Vườn thơ xưa / thơ Tế Hanh ( 1992 ).
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ