nhà văn hậu chiến 1950- 1956 / thế phong - 16
-----------------------------------------------------
PHẦN THỨ NHẤT
MIỀN TRUNG : 1950- 1954
( Quốc gia Việtnam )
----
CHƯƠNG NHẤT
KHÁI QUÁT BÌNH DIỆN
THI CA MIỀN TRUNG
( Quốc gia Việtnam )
Tiết 1.- HUYỀN CHI ( nữ )
Tiết 2.- HOÀI MINH
Tiết 3.- THANH THUYỀN
Tiết 4.- Tiểu mục :
HỒ ĐÌNH PHƯƠNG - TẠ KÝ -
XUÂN HUYỀN - THANH THANH
------------------------------------------------------
Chương 1
KHÁI QUÁT BÌNH DIỆN THI CA MIỀN TRUNG : 1950-1954
( Quốc gia Việtnam )
Từ 1950 - 1956 miền Bắc, cũng như miền Trung ( Quốc gia Việtnam ) , sinh hoạt văn nghệ ở thủ đô và thành phố lớn chỉ là giai đoạn bắt đầu. Một số văn nghệ sĩ ở lại, số văn nghệ sĩ khác tử hậu phương trở về đóng góp, dàn dựng nền văn nghệ, gọi là văn nghệ Quốc gia.
Riêng ở miền Trung,. tạp chí văn nghệ, tuần báo thì không tờ nào có diễn đàn văn nghệ. Bởi vậy, các tác giả ở Huế, Đà Nẵng ... thường gửi bài cho các báo ở thủ đô Hànội hoặc Saigon. Tác phẩm của họ được đăng tải, thường là thơ, còn văn xuôi rất ít. Và không một tác giả nào là nhà văn nổi bật.
Song song, hoàn cảnh chính trị thời đoạn này có chuyển biến, phân ranh rõ rệt :
- một bên, kháng chiến dần dần mất thực chất, phân hóa. ( Việtnam Dân Chủ Cộng Hòa )
- một bên, chính phủ Quốc gia.
- 2 nền văn nghệ đối lập nhau hình thành.
Bình diện thơ miền Trung chia làm 2 khuynh hướng: thơ mới va thơ tự do.
Phái thơ mới chủ trương theo thơ mới tiền chiến, như : Hồ Đình Phương, Tố Như, Huyền Chi ( nữ) , Xuân Huyền, Thanh Thanh ... - một số tác giả này đứng trong Văn đàn Chim Việt. Gọi là văn đàn , thực tế chỉ là một nhóm nhỏ. Thơ mới các tác giả này mang thực chất bình cũ rượu mới.
Từ 1952 trở đi, thêm một sự kiện mơi nữa; thơ tự do được nối vần từ thơ tự do vùng kháng chiến, hoặc lấy đà từ thơ tự do ở Hànội, đặc biệt phát triển mạnh ở Huế, Đà Nẵng. Các tác giả xuất hiện đồng loạt trên các tạp chí ở Sài Gòn, tập trung nhiều nhất ở tuần báo Đời mới ( chủ nhiệm: Trần Văn Ân ) , Nguồn sống mới .( cn: Nguyễn hữu Pha ).. ( thơ tự do hoặc thơ mới " bình cũ rượu mới " ) Ở tuần báo Đời mới và Nguồn sống mới, người chọn lựa bài vở, thơ phú, có bàn tay Hoàng Thu Đông ( Hoàng Trọng Miên ) chủ bút 2 tờ báo văn nghệ nổi nhất lúc đó Các tác giả có bài đăng , phải kể đến : Thanh Thuyền, Hoài Minh, Tạ Ký, Thế Viên, Diên Nghị, Tường Phong, Châu Liêm ( Nguyễn Xuân Thiệp sau này ) ...
Không hiểu rằng vấn đề phong thổ, đất đai có tạo nên bản sắc con người ra sao; nhưng nhìn vào miền Trung, chiếc đòn gánh quẩy 2 thùng lúa : châu thổ bắc Việt + Đồng bằng Cửu Long ) . Miền Trung ( 1950- 1954 ) đã tạo ra nhiều thi nhân và những chính trị gia cải cách xã hội, diễn đàn thơ văn, chính trị của các tay quán quân múa may đều được đất 2 miền châu thổ nuôi lớn, thành đạt.
Tiết 1
HUYỀN CHI
Tiểu sử.-
Tên thật Hồ Thị Ngọc Bút. Sinh 1930, chính quán miền Bắc , sinh sống và trưởng thành ở Saigon . Sau các nữ sĩ nổi danh ở tiền chiến : Vân Đài, Hằng Phương, Mộng Sơn, Ngân Giang, Anh Thơ, Tương Phố ... phải kể tới Huyền Chi, nhà thơ nữ khởi sắc, qua thi phẩm đầu tay sáng giá Cởi mở.
Phân tích .-
Thi phẩm Cởi mở ( Xây dựng xuất bản ,1952) , nội dung nói lên ẩn ức tâm hồn người nữ từng bị trói chặt, nay bùng nổ, qua vần thơ sâu sắc, rung động ngọt ngào; chưa đựng tâm tư dân nhược tiểu thời chiến. Tác giả bị hoàn cảnh chính trị chi phối, trở về đô thị sống, nhìn cảnh đời dân sống ở miền Quốc gia tự do, chẳng khác chim muông vẫy vùng trong lồng son Liên hiệp Pháp. Tác giả sống ở thị thành, tâm tưởng hướng về Kháng chiến, phản ánh qua 24 bài thơ trong thi phẩm Cởi mở.
Tạm chia ra làm 2 tiểu mục của nội dung thi phẩm:
1. - nói lên ẩn ức ca nhân hào đồng với hoàn cảnh thực tại
2. - tuy sống ở thành thị, tâm tưởng vẫn hướng về hướng khác, cho rằng đó mới là chính nghĩa bảo vệ quê hương.
- thơ Huyền Chi rất hay theo chủ quan người nhận định , nhất là ở tiểu mục 1. Thi sĩ rung cảm chân thành, bộc lộ tâm tư qua hình tượng mới, cảm nghĩ, ý thức dáng suốt . đả phá
sa- đoạ- hoá thị thành. Các bài : Lạc loài, Ám ảnh, Đất lạnh ... xúc động mãnh liệt, hồn thơ bừng bừng sinh khí; tuy người ở đây mà mộng gửi người ... Điều này không thể cho là vọng kháng chiến , bởi, dễ gì người ý thức nào cũng phân biệt được ranh giới khi nào, vào lúc nào kháng chiến đã mất thực chất :
... Áo trắng lời ai qua nước mắt
Kinh thành chân lạnh bé con con
Ngỡ ngàng có kẻ cười ghê rợn
Hãy gẩy giùm ta một khúc đờn ?
Nức nở đêm nao bao mái tóc
Hướng về cố quận mấy giang sơn
Nức nở đêm nào bao mái tóc
Giờ đây không biết mất hay còn ?
( ÁM ẢNH / HUYỀN CHI )
Oscar Wilde * quan niệm rằng: một khi tâm trạng bất mãn là khởi đầu cho tiến bộ; dầu không biết rõ tiến bộ đên mức nào ? Tiến bộ của tiến bộ thực sự hay cải lương nửa chừng, hoặc tiến bộ chỉ có ý nghĩa, một khi được áp dụng trong văn chương. Hẳn trong ý thơ Huyền
-------
* Oscar Wilde ( 1854- 1900 Paris ) Nhà văn Ái nhĩ Lan ( Ireland ) , tác giả " Ngài Arthur Saville"," Chiếc quạt của phu nhân ', " Tội ác Windermere ." ...
---------
Chi hoài nghi, bất mãn, chán chường - nhưng thơ chán chường Huyền Chi là rung độc thực, cảm hóa tình cảm truyền cảm, hơi thơ có hồn, có sinh khí, thơ hay là thơ biết thở như người sống . Thơ truyền cảm nói về quê hương chiến tranh, con đi chinh chiến, người mẹ chờ đến bạc lòng !
Bài thơ Thuyền viễn xứ của Huyền Chi được nhạc sĩ tài ba Phạm Duy phổ nhạc thật tuyệt vời, nhạc điệu thiết tha, buồn mênh mang hòa hợp với con thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường, chẳng còn cảnh nào làm não lòng người nghe hơn thế ! Bài Thơ viết đầu mùa thu dễ làm người đọc bồi hồi trước cảnh thu chinh chiến, " Biên thùy hai ngả chia bằng máu /..
. dâu bể hai đường không đủ che " :
... Đường đi cách biệt chẳng quay về
Biên thùy hai ngả chia bằng máu
Dâu bể hai đường không đủ che
Có những chiều tang vắng bóng người
Mây tàn giăng mắc ngập muôn nơi
Có người đếm mãi mùa thu rụng
Hoen ố vườn xuân của cuộc đời ...
( THƠ VIẾT ĐẦU MÙA THU / HUYỀN CHI )
Rồi mơ một ngày được đi xa, khi tâm hồn bị kìm hãm: người thơ còn biết trút hình ảnh, nỗi lòng, thái độ dồn vào bài Thuyền viễn xứ. Và ở đây, còn phải nói thêm một lời nữa: tiết tấu nhạc mà Phạm Duy phổ nhạc trong ca khúc, vút lên giọng sầu vạn cổ :
... Chiều nay trên bến muôn phương
Có thuyền viễn xứ nhổ neo lên đường ...
Những bài thơ khác: Rớm máu, Rượu tiễn ...dùng nhiều điển tích, sao ngữ, công thức thiếu rung cảm chân thành. Bước đường cùng của chiến sĩ chiến đấu trong 4 bức tường thành phố; tầm thước thơ thường ước lệ. Như lối nói văn học Pháp rèsistance au laboratoire, tạm hiểu đó là vần thơ chiến đấu bằng lỗ miệng. t
Kết luận.-
Cô gái dậy thì tuổi xuân không được bạn bè thúc giục hát hỏng, gẩy đàn ca khúc Dư Âm *, mà Huyền Chi lại làm thơ, cho ra mắt tập thơ đầu tay ở tuổi 22 ( 1952). Thi phẩm Cởi mở :
ý thơ rung động, tư tương già dặn sâu sắc. Giá trị thơ Huyền Chi làm người đọc kinh ngạc thực sự về thi tài nhà thơ nữ Huyền Chi. Thơ cô có không khí tranh đấu ở hậu phương hỗ trợ cho tuyến đầu kháng chiến khói lửa, như thơ Laurent Daniel ** trong thời Pháp kháng chiến chống Đức Phát xít .
------
* nhạc và lời : Nguyễn Văn Tý
* bút danh khác của Elsa Triolet trong thời kháng chiến Pháp chống Phát - xít Đức 1939- 1945.
Trích nguyên tác thơ :
LẠC LOÀI
Bơ vơ quá giữa kinh thành
Có qi may áo viễn hành nữa đâu ?
Lạc loài từ độ xa nhau
Đường phai dấu cũ, nhạt nhòa mầu thời gian
Ở đây nhung lụa bạc vàng
Trăm màu sa mã, muôn ngàn phồn hoa
Giá băng cản chén quan hà
Giang hồ chỉ có mình ta với người
Bụi đời mờ nẻo ngược xuôi
Năm năm tháng tháng ngâm lời thơ điên !
Sang ngang lỡ một mái thuyền
Để về đây sống giữa miền hoang vu
Mấy màu khói lửa âm u
Mấy mùa ly loạn mịt mù muôn nơi
Đêm đêm nghe gió vọng lời muôn phương
Có trăm cánh gió điên cuồng
Về đây giữa lúc phố phường tối đen
Dập dìu ong bướm đua chen
Riêng mình ta chẳng người quen, lạ nhà
Lạc loài giữa xứ tha ma
Sống bơ vơ quá nghĩa là thế thôi !
1952
HUYỀN CHI
( trích " CỜI MỞ "
( còn tiếp )
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ