Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2013

nhà văn hậu chiến 1950- 1956 : phạm văn sơn 1915- 1978, việtnam ) - 14



                        nhà văn hậu chiến 1950- 1956 /
                       nhà viết sử  phạm văn sơn  (1915- 1978, việtnam )  14
                              thếphong

       
      Tiểu sử.- 

      Tên thật Phạm Bá Kỷ.  trong khai sinh ban đầu.  Sinh 15- 8- 1915 ở Hà Nam ( Bắc Bộ).  Theo học  Trường Bưởi,  ngay từ khi trên ghế nhà trường đã viết cho báo Đông tây ( 1933) , Tiểu thuyết thứ Bẩy, Thanh niên , Tương lai tạp chí, Phụ nữ thời đàm ( tiền chiến).  Sau 1954, viết cho tạp chí Văn nghệ tập san ( chủ nhiệm; Nguyễn Đăng Thục ), Văn hóa nguyệt san, Bông lúa v.v... ( Saigon ).  Cón ký bút danh khác : Dương Châu  ( Vĩ Tuyến 17) .  Bài đầu tiên là thơ dịch  À Hélène / Ronsard.  Làm rất nhiều nghề khác kiếm sống, sau  vào quân đội , từng Chỉ huy trường trường  Quân  báo  Cây Mai ...( Saigon )   Quan niệm của ông :  làm nghề khác để kiếm tiền; nếu sống, chỉ bằng nghề văn thì vấn đề lo cơm áo thôi sẽ không thể có thời gian sáng tác . 
     Sau 30-4- 1975, đại tá VNCH Phạm văn Sơn  bị tập trung cải tạo dài hạn.  Ông qua đời tại miền Bắc vào năm 1978  *.
-----
* chú thích sau. (TP) 

     Tác phẩm.-

   Việtnam tranh đấu sử ( Hànội 1949), Vĩ tuyến 17 ký bút danh Dương Châu ( Saigon 1955, sau bộ Thông tin tuyên truyền VNCH cho dịch sang anh ngữ, The Seventh Parallel ).  Việt sử tân biên  ( tập 1- Nxb Trần Hữu Thoan , Saigon 1956),   giáo sư Nguyễn Đăng  Thục viết tựa .

     Quan niệm viết sử.

    Sau Việtnam sử lược / Trần Trọng Kim xuất bản năm 1919 ( 2 tập  ) đến nay Phạm Văn Sơn cho xuất bản  Việt sử tân biên,   viết có hệ thống, mạch lạc, tài liệu dồi dào  - mặc dầu trước ông - còn các học giả nổi danh như Nguyễn Văn Tố, gần đây là Nguyễn Thiệu Lâu.  Hai sử gia sau  chỉ viết những bài báo lẻ tẻ, riêng Nguyễn  Thiệu Lâu cho tập hợp những bài báo in thành sách: Quốc sử tạp lục ( Nxb  Khai Trí ,Saigon ).  

     Viêt sử tân biên của Phạm Văn Sơn trọn bộ 7 tập , trên dưới 4000 trang. 

    Trần Trọng Kim viết Việtnam sử lược từ hồi Pháp  thuộc ( 1919) , quan niệm viết sử bị cơ chế chính trị ràng buộc, hạn chế, khó tránh được thiếu sót, lệch lạc.  Chẳng hạn, gọi là " bọn" đối với nghĩa sĩ Phan Đình Phùng. . Khi Chính phủ Quốc gia thành lập, báo chí phỏng vấn Trần Trọng Kim ,  tạp chí Đọc vòng quanh thế giới đặt câu hỏi :

     -... Thưa Cụ, cuốn  Việtnam sử lược năm 1919 xuất bản dưới thời  Pháp thuộc thì có những điều  có thể bỏ qua được.  Còn cuốn tái bản vào 1949, khi nước nhà đã độc lập rồi, mà còn duy  trì vài luận điệu làm  cho dư luận phải phân vân khó hiểu,  Chẳng hạn, như gọi các nghĩa sĩ Phan Đình Phùng là " bọn".  Nhà xuất bản trước khi đem in có đưa cụ duyệt lại bản cũ không ? ..."  *

     Tác giả Viếtnam sử lược trả lời :

    "... Cuốn " Việtnam sử lược " xuất bản đã lâu rồi, tôi cứ để nguyên cho dễ bề kiểm duyệt, tôi chỉ lo sao cho đại cương được đúng với sự thật, căn cứ vào những sử liệu chân xác, hòng cung hiến độc giả một cuốn sử lược không lầm lạc mà thôi.   Sau này, chắc chắn có nhiều học giả khác sẽ viết những cuốn sử hoàn thiện hơn ..."
------
* tạp chí  Vòng quanh thế giới, số 50 ra ngày 18- 2- 1950 ( Saigon ) .
------
    
     Sử gia  Viêtnam sử lược trả lời  "...  học giả  khác sẽ viết những cuốn sử hoàn thiện hơn " .
 .  Vậy là  ai viết ?  người viết  là ai? Và người viết  sử tiếp  Trần Trọng Kim , chính là
 Phạm Văn Sơn, qua Việt sử tân biên.  Tuy Phạm văn Sơn chưa đạt giá trị cao như mong ước, thì, ông vẫn là người  duy nhất viết sử có thể thay thế Trần Trọng Kim .   Lập luận viết của  dân nhược tiểu  Phạm Văn Sơn  tìm tài liệu sư kiện lịch sử được tổng kết  lại, phương pháp viết khoa học, hệ thống hóa hợp lý.    Chẳng hạn, khi nhận định về Hai Bà Trưng, Phạm Văn Sơn không thiên vị  như sách  Nguyễn Tế Mỹ với cuốn Hai Bà Trưng ( Hàn Thuyên xuất bản trước 1945) . Lập luận cực đoan  của  nhòm Hàn Thuyên dựa vào tài liệu lịch sử rồi biện giải theo tư duy có lợi cho phe Đệ tứ quốc tế.  Còn Phạm Văn Sơn  luận về giai đoạn lịch sử, khởi thủy từ Hai Bà Trưng ( VSTB, từ trang 30 đến 45 ),  vua đầu tiên, ông dựa theo tài liệu sử Nguyễn Văn Tố được biến chế hợp lý :

     "... Bổn phận của ta là phải tôn Hai Bà Trưng lên bậc liệt nữ thứ nhất của [ nước ] nhà , ghi năm 40 - 43 vào niên biểu chính.  Mỗi khi dạy sử, nghĩa vụ của ta là phải nhớ rằng , trừ thời lập quốc ra không kể, nước Nam đã có tinh thần tự chủ ngay từ hồi Hai Bà Trưng , tức là đầu thế kỷ thứ nhất, chứ không phải đời Tiền Lý vào thế kỷ thứ VI .."  ( Nguyễn Văn Tố ) .

      Chúng tôi [ Phạm Văn Sơn ]  hoàn toàn đồng ý với ông Nguyễn Văn Tố, nên ghi chép triều đại Trưng Vương ngang với các triều đại khác trong cuốn sách này, bởi chung tôi quan niệm,  tính cách hoàn toàn chính thống, vì đã gây [ dựng ] được  nền độc lập cho dân tộc.   Thế là đủ, người ta không thể im, lẽ dài hay ngắn ;  hay công cuộc xây dựng được nhiều hay ít của một triều đại , mà tính cách chính thống hay ghi vào niên hiệu chính thống, huống hồ trỏng năm cờ vàng phất  phới trên cõi Lĩnh Nam lửa loạn vừa tân sinh lực quốc gia, chưa kịp hồi dưỡng; mà đòi hỏi nhiều việc làm kiến thiết, thì  thật quả là khe khắt và vô lý .." 

     Quan điểm vững, khi bàn tới niên hiệu chính thống của triều đại Hai Bà Trưng.  Ở
Trần Trọng Kim, sách  Việtnam sử lược  không thừa nhận điều này  ; mà chỉ chép thời Bắc thuộc thứ 1  đến Tiền Lý.  Về sử liệu, hẳn không thể căn cứ thời gian là bao nhiêu mới đủ để được  gọi một ngày độc lập, vậy thì, độc lập dầu 1 ngày vẫn  phải được ghi chép là   một triều đại.   Như  vậy, thay 1 triều đại, chỉ cần 1 ngày, vẫn là thay 1 triều đại,  không thể không  ghi  vào niên biểu chính thống.   Theo sử gia Pham Văn Sơn, căn cứ vào đâu, mấy năm độc lập mới được coi là chính; hoặc  thay đổi triều chính  ( thời gian bao nhiêu )  mới được coi là   chính thống ?  Dù chỉ 1 ngày  khởi nghĩa, lật qua 1 trang sử, đã là trải qua 1  triều đại.   Ít nhất, có 2 cách đánh giá mà người cùng thời chưa thể đánh giá đúng mức được, ở thời hiện đại  : sử học và văn học .   Sử gia hoặc nhà phê bình văn học   chỉ có thể căn cứ vào tài liệu hoặc định giá tác phẩm văn học tróng thời đoạn nhất định , dầu là  tương đối.   Phải chờ người đến sau đánh giá lại   mới có sự công bằng.  

     Đối với Sĩ Nhiếp , hầu hết các cuốn sử của ta  tán tụng  là ông quan thương dân - đề cao Sĩ Nhiếp  không kém gì 1 quân vương nước việt.  Như sử liệu ghi, Sĩ Nhiếp được coi là
 Nam Bang Học Tổ và thời Sĩ Nhiếp cai trị được gọi là Sỹ-Nhiếp-kỷ. Nhưng Phạm văn Sơn  viết khác, ở chỗ :

     "... Chúng tôi không  phủ nhận [  sự ] nghiệp đáng kể  của Sĩ Nhiếp trong ngót nửa thế kỷ ở nước ta, nhưng chúng tôi muốn đính chính lại bằng những dòng dưới đây những điều gì thiếu xác thực .   Sĩ Nhiếp bấy giờ làm Thái  Thú cùng với Thứ Sử Trương Tân, xin Hán đế đổi Giao Chỉ ra Giao Châu.  Trung lúc bên Trung Quốc có giặc cướp nổi lên  lung tung, thì ở Giao Châu cuộc rối loạn cũng nhóm lác đác ở nhiều nơi.  Ông Sĩ Nhiếp đã khéo léo trong công việc cai trị, nên bảo vệ được trật tự ở Giao Châu.  Ông giữ đủ lễ nghĩa với Hán triều
 ( tiền cống ) được Hán  [ triều ] phong lam "  An- Viên Tướng quân Long- Độ -Đình- Hầu."   Sau này Trung Quốc  lâm vào thế chân vạc, do sự tranh giành ảnh hưởng của ba nhà : Bắc : Ngụy , Tây: Thục, Đông: Ngô - thì  Giao Châu nằm trong khu vự Đông: Ngô.  Ông cũng vẫn giữ được hết thảy quyền hành như vơi Hán triều xưa.   Tính ra, tuy ông là Thứ Sử, nhưng, đã 
[ tạo ]  được rất nhiều ảnh hưởng ở Giao Chỉ suốt 40 năm trường.  [ Đường lối ]  chính trị của ông rất là sáng suốt , ở chỗ biết an dân, trọng đãi trí thức, được toàn thể nhân dân Giao Chỉ ái mộ và tôn sùng, nhờ vậy, địa vị của ông mới bền vững được lâu dài..."

     Nguyễn Văn Tố luận về  ngày giỗ Lý Nam Đế, ý kiến này xác đáng, được Phạm Văn Sơn trích lại :

     ".. Bậc anh hùng cứu nước đầu tiên  là : Phù Đổng Thiên Vương và vua Tiền Lý Nam Đế.  Đức Phù Đổng Thiên Vương thuộc vào thời khuyết sử, chuyện lại thần kỳ, cho nên " Khâm Định Việt Sử "  không chép đến.  Còn  Hai Bà Trưng, thì  ai là người Việtnam, tất phải biết đến, như vua Tiền Lý Nam Đế ( Lý Bý  hay Lý Bôn 544- 548 ),  thì sử nước ta chép riêng ra một
" kỷ", tức là " một dòng" vua; nhưng lại không có ngày Quốc lễ.   Phù Đổng  Thiên Vương có`" Hội Gióng " ( Gióng là nôm  [ tên ] làng Phù Đổng ) .  Ta có câu ca dao : " Ai ơi mồng tám tháng tư / Không xem hội Gióng thì hư mất đời ".   Trưng Vương có hội" Đền Hai Bà "  vào ngày mồng  5 tháng 2 , là ngày kỷ niệm chung của cả nước.   Duy có vua Tiền Lý thì chỉ có mấy làng ở " Cửa Sông Đáy "  thờ làm Thành hoàng, đến nay vẫn chưa có Ngày Hội lớn, để quốc dân nhớ lại công ơn của một vị anh quân đã đưa đường dẫn lối cho dân ta thoát vòng lao lung nô lệ.  Vả chăng từ năm 541, Lý Bôn giữ thành Long Biên đến Lý Phật Tử 602, trước sau hơn 60 năm, ta có thể gọi đó là một " kỷ" Nhà Tiền Lý .  Đã gọi là một " kỷ", nên có ngày kỷ niệm chung của quốc dân, đối với người đã dựng cờ độc lập và chống giữa giang sơn của nòi giống chúng ta ..."  
                                                    ( Nguyễn văn Tố

     Chương sách bàn về Nhà Tiền Lê, sử gia trong chế độ phong kiến cho việc Lê Hoàn  cướp ngôi nhà Đinh, vì được sủng ái của dương Hậu, là thái độ bất trung.   Qua nhận xét của người viết sử sáng suốt ( Phạm văn Sơn ) cho Lê Hoàn lên ngôi là hợp lý, bởi " vua còn quá nhỏ" , nếu không có  vị quan  tài cán làm Nhiếp Chính như Lê Hoàn, tất, đất nước sẽ bị xáo trộn.   Sự thay đổi triều vua là hợp lý, nêu trách, nên căn cứ vào việc cai trị nước kẻ thay ngôi, nhưng, Lê Hoàn hoàn thành việc giữ nước, tất phải khen, hơn là chê , Phạm văn Sơn viết : 

     "... Bấy giờ  trong triều có nhiều đại thần, nhưng" thế" cũ đã " biến " , cần phải co người chấm dứt " thế biến"  đó, nhất là quân xâm lăng đã vào tới bờ cõi.  Cuộc đảo chánh cần phải xảy ra để có 1 bàn tay cương quyết đối phó với nghịch cảnh, phải có 1 người   đánh  dạn
 [ bạo dạn ]  bước ra chịu trách nhiệm với quốc dân và lịch sử, không thể trì hoãn được nữa ".


     Chẳng  phải mới có người dám nói như thế, ngay ở thời đại "  Đại Việt Sử Ký "  bấy giờ - cho Lê Đại Hành thực sự có công trạng với nhà Đinh thôi đâu ?   Như vậy, không thể cho Lê Hoàn phụ bạc nhà Đinh được ?!

     Bàn về Nùng Trí Cao ,  tác giả Việt sử tân biên  cho rằng: Nùng Trí Cao " gốc" thuộc dòng việt  , dựa trên địa lý, phong tục tập quán ( cùng giống, khác dòng , dân tộc thiểu số, nói tiếng 
riêng ) .   Chẳng riêng gì dân  Việtnam bây giờ , liệu, không thể không là một dòng máu Bách Việt xưa ,   Phạm Văn Sơn lý giải :

     "... Việc chấm dứt 8 châu ở Quảng Châu của Trung Quốc, việc vây khốn  địch Thanh trong rừng núi Ưng Châu còn làm sáng ngời, dầu sau này thất bại, vì trái tim bồng bột của nữ tướng Đoàn Hồng  , vẫn không làm phai uy danh của họ Nùng, đồng thời lại còn tăng nhanh "  thế'" của người phương Nam.  Phải chi họ Nùng thắng được trận này, sự nghiệp của họ Nùng, có lẽ không biết đến đâu mà lường được.   Hơn nữa, Nùng là một dân tộc thiểu số, nhưng  vẫn là con dân đất việt sống trên đất  việt, cùng  là máu mủ với chúng ta, trước sự hưng vong của lịch sử; thì đối với người  ngoại bang, hành động của Nùng có thể  là hành động của [ một ] người Việt ..."

     Lập luận viết sử  Phạm văn Sơn là  biết đánh giá sử liệu, trên quan điểm viết sử của người viết độc lập.  Viết sử tân biên ( tập 1 )   dày ngót 500 trang , biên chép lịch sử diễn tiến từ khởi thủy đến đời Lý .  Những tập tiếp theo sẽ xuất bản, trong khi chúng tôi viết đến những dòng này, thì Việt sử tân biên ( tập 1 )  chưa thấy có khuyết điểm lớn .  Ở tập 1,  có thể đánh giá, lập luận viết sử  rất tiến bộ  - thí dụ, về sự giải thích " kỷ "  Hai Bà Trưng, về công tội  Sĩ Nhiếp, về
 Lê Hoàn " tiếm ngôi" , về Nùng Trí Cao v.v. ...- thì có thể so sánh với các sử gia viết sử ở
 "  tư thế độc lập",  nổi tiếng như Michelet, Tư Mã Thiên ... -    trừ môt điều, theo quan niệm Phạm Văn Sơn - " kỷ"  được  nói về đời vua trong một chương

      Và, khi  bàn đến xã hội Trung Quốc, ông lại dành một chương ( như " kỷ " cho 1 triều vua ) - vậy, chẳng hóa ra xã hội cổ Trung Quốc viết trong sử việt  được coi như " một ngôi vua"  trong lịch sử Viêtnam sao ?  Điều sỉ nhục của một nước không thể không được viết lại, như trên đã lạm bàn rồi.  Viết về nước thống  trị ( Trung Quốc )  mà coi như một " kỷ "  ở ngay trong cuốn sử của nước "  bị thống trị " ( Việtnam)  sao được  ? .
     
       Cũng không thể biện luận, đó chỉ là sự thâm nhập văn hóa Trung Quốc vào lịch sử Việtnam, cũng không thể ngụy biện , so sánh một cách tỉ mỉ, kỹ lưỡng.      Nếu có, hẳn, tác giả phải viết một " chương" về  cách thống trị của Pháp trong lịch sử việt ở một tập khác chăng ? 

     Kết luận .-

     Ai cũng biết, ở thế kỷ XX, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Thiệu Lâu ... các  sử gia uy tín, qua sách ,  bài vở đăng tải trên báo, dầu có tác giả viết sử, chỉ là những bài báo chưa tập hơn in thành sách  . 

     Và ở hậu chiến, chỉ một Phạm Văn Sơn làm được việc khó khăn này, viết lịch sử qua tài liệu, quan điểm, lập trường, thời gian hoàn thành bộ sử Việtnam, từ khởi thủy đến hiện  tại, qua tập 1, hẳn,  chưa thể  kết luận tổng quát về giá trị sử liệu cách toàn diện .   Quan điểm , lập luận viết của Phạm Văn Sơn cho toàn bộ sử, khi chưa xuất bản tập cuối -  nhưng có thể khẳng định, ai muốn hiểu biết lịch sử  Việtnam , không thể không đọc , không  tham khảo Việt sử tân biên /  Phạm Văn Sơn .   

     Về sách giáo- khoa-sử  ở trường học, không thể quên soạn giả Phan Xuân Hòa, dầu tài liệu  chỉ thu hẹp ở khuôn khổ nhà trường.   Nhiều sử gia ngoại quốc viết về lịch sử Việtnam, không xuyên suốt, chỉ từng thời đoạn, không thể không biết  đến  các sử gia uy tín , như  : Bonifacy, Maybon, Maspéro, M. Durand, Pierre Huard... gần nhất là P. Devillers,  J. Chesnaux. .

    . Một sử gia pháp, gốc việt, ông Lê Thành Khôi với Contribution à l' histoire de la nation việtnamienne   ( Paris 1955) , sử gia viết theo lập luận, quan điểm thân mác-xít . ( pro-marxiste ).
----
* [...]   chữ của Biên tập. 

                                     ( kỳ sau : bộ môn kịch: Hoàng Như Mai ) 

       thếphong

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ