cuốn thư tịch của Đại học Cornell...
bài đã đăng trên báo sóng thần ( saigon ) 1974 : cuốn thư tịch của đại học cornell về các tác phẩm việtnam
bài: thế phong
Thời kỳ trước 1945, Pháp mẫu quốc của chúng ta, ngoài những đổ cổ quí giá, kể cả vàng, bạc, sách đều được gửi về trời tây. Nên các thư viên tây chất đầy sách hiếm, quí của việt, từ sách in bằng giấy gió ( thời kỳ 1940-1945) , không đâu nhiều, đầy đủ bằng thư viện tây ở Paris! Đã có người cho rằng, ngồi ở bên tây mà nghiên cứu, viết sách về văn học việt, sẽ đầy đủ hơn ở trong nước. Có người du lịch ở Đức quốc về, kể lại cho hay, sách văn học thời tiền chiến ở việtnam, các thư viện ở Đức quốc có nhiều, lại đầy đủ nữa.
N hưng bây giờ, thì không hẳn chỉ thư viện ở Pháp, Đức là nơi cần tìm đến; mà một quốc gia có nhiều tư liệu văn học Việtnam lại nằm ở Huê Kỳ. Tôi xin nói ngay, đó là sự thâu thập sách vở quí hiếm, từ đại học Cornell .
M ột anh bạn cho mượn , tôi đọc lướt qua một sách thư tịch khổ lớn, nhan đề
A Checklist of the Vietnamese Holding - đã thâu thập, mua được khá nhiều tư liệu , từ báo chí, tác phẩm văn học . Qua cuốn thư tịch trên, các tác giả việtnam nổi tiếng đều được chiếu cố, cập nhật tới năm 1973. Tôi chưa đọc kỹ , chỉqua vài trang đề cập một số tác phẩm văn học ở nam việt nam, tôi thấy, chẳng hạn, có 2 tác giả cùng một bút hiệu, tên thật giống hệt nhau, chí khác năm sinh ( Thế Nguyên-Trần Gia Thoại, sinh1943- , một Thế Nguyên-Trần Gia Thoại khác, sinh 1917 - ) . hoặc 2 tác gỉa trùng tên thật, một Nguyễn Quang Tuyến sinh 1933- , có bút danh Văn Quang - và một tác giả khác dùng tên thật làm bút danh, là Nguyễn Quang Tuyến, sinh 1943 - , chẳng hạn vậy.
M ột trường hợp hi hữu khác, một tác giả có tới 3 bút hiệu khác nhau , sách thư tịch trên lại không biết chỉ là một người . Cũng có những tác giả khác còn nhiều bút hiệu hơn nữa, sách thư tịch đưa vào nhiều Ô khác nhau, khiền đọc giả tưởng chừng là nhiều người . ( thực ra chỉ là một).
B ởi lẽ, ngoài một giáo sư người Mỹ thông thạo tiếng việt, còn một người Mỹ gốc Đại Hàn ( bây giờ là Hàn quốc ) góp sức. Chỉ là sơ sót nhỏ không thể tránh, kể cả người việt chính cống , không thấu hiểu văn học việtnam, cũng khó mà không bị mắc lỗi ! Nói vậy, hình như, tôi linh cảm rằng, đứng phía sau 2 soạn giả người Mỹ , một số người việt được thuê góp công sức , lại thiếu chuyên nghiệp, không thể biết rõ đướng tơ, kẽ tóc trong nền văn chương việt , và không thể vạch ra sai sót trong sách .
N hiều tác giả khác nữa, ở ngoài bắc chẳng hạn , khi nói về Tố Hữu- sách thư tịch ghi đầy đủ tác phẩm đã in, kể cả tác phẩm được dịch sang hán văn . Hoặc trường hợp nói về Nguyễn Tuân, có cập nhật tác phẩm mới xuất bản, và riêng thi sĩ Tất Vinh
( có mặt từ thời kháng chiến chống thực dân Pháp 1945) còn là tác giả một tập nhạc (? ) , có đúng vậy không ? v.v..
S ách thư tịch sưu tầm khá kỹ lưỡng. Thí dụ, nói về Thế Phong, ngoài những tác phẩm đã được tái bản thành sách, thư tịch thư viện Cornell ghi cả những ấn bản in ronéotypé . ( mimeographed books ) . Riêng sách nói về Nguyễn Đức Quỳnh, thì sách thư tịch không đề cập, có thể là chưa biết tới nhà văn lãnh tụ nhóm Hàn Thuyên (thời tiền chiến) ; nhưng sách thư tịch không bỏ sót tác phẩm của Uyên Thao, Cao Thế Dung v.v... ; song, chỉ ghi tác phẩm tái bản in thành sách ( in ty- mà chưa biết Thơ Việt hiện đại / Uyên Thao là tiền thân Lược khảo về thơ do Nxb Sùng chính viện in lần ronéotypé lần đầu, hoặc với Cao Thế Dung là cuốn ' Văn học hiện đại : Thi ca & Thi Nhân' ( Nxb Quần Chúng, Saigon 1969) tiền thân là
' 11 nhà thơ Việtnam tự do' / ký Cao Đan Hồ in ronéoypé .( Nxb Đại Nam Văn Hiến, Saigon 1962 ).
Hoặc , sách thư tịch Cornell nói về nhà văn Thế Nguyên , tác giả Hồi chuông tắt lửa, có ghi tái bản 2 lần, ( Nxb Nam Sơn+ Nxb Trình bầy) , lại không biết bản đầu tiên in ronéotypé của Nxb Đại Nam Văn Hiến Saigon , tháng 8- 1963.
S ách thư tịch không chỉ nói về việtnam thôi đâu, các tập khác bàn về Cao Miên, Lào , Mã Lai ( Malaysia) . Miến Điện, Trung hoa v. vv...
B ây giờ thì tôi mới biết, có nhiều người Mỹ giỏi tiếng việt, hoặc biết thuê người việt chuyên lùng sách cũ quí hiếm, kể cả nội san, bích báo quân đội, cấp trung đội, đại đội, tiểu, trung, sư đoàn, nên sách thư tịch đại học Cornell đều có. Đó chẳng phải họ đã thuê những bàn tay bí mật sưu tập tư liệu báo chí, văn học quí hiếm cả 2 miền nam, bắc sao ?
M ột thí dụ khác, tập thơ Trở Dạ , tác giả Phan Lạc Giang Đông ( thuộc Không Lực Việt Nam Cộng hòa ) cũng không bỏ sót ( Nxb Lý tưởng / Bùi Hoàng Khải, Saigon 1966, phổ biến nội bộ ) . Như vậy, đủ thấy công trình sưu tập tác phẩm việtnam ( dù không công khai ) đã rất được lưu tâm .
Cuốn A Checklist List of Vietnamese Holding gồm 2 tập, in khổ lớn, , đánh máy chữ IBM ( in offset , dạng mimeographed book ) , in ấn đẹp, rõ ràng, ghi giá trên bìa :
11 mỹ kim / tập ( khoảng 600 trang) .
P hải nhận ngay ra rằng, 2 tập sách thư tịch rất hữu ích cho những ai cần khảo cứu về tác giả cả hai miền nam, bắc việtnam. Có một thiếu sót nhỏ thôi, tiểu sử đôi ba tác giả chưa chính xác , kể cả tránh được sự nhầm lẫn giữa 2 tác giả trùng tên thật, bút danh , hoặc một tác gỉa nhiều bút danh lại tưởng lầm nhiều tác giả v.v... - thì đây là một công trình tuyệt hảo.
Ý nghĩ rời rạc sau cùng , chẳng lẽ muốn viết về văn học việtnam, vẫn rất cần có đủ tiền mua vé máy bay, ăn ở tại vùng Ithaca ( New York, nơi thư viên Cornell tọa lạc) - một trong nhiều thư viện ở Huê Kỳ có sách, báo, tác phẩm văn học việt thuộc loại quí, hiếm; mà chính ở trong nước không có được.
V ậy , phải ở trởi tây mới viết hay về văn học việt ? một chút ý mỉa mai trong đó đấy !
[]
THẾPHONG
( 1974)
nguồn: nhật báo sóng thần ( saigon), số 894 ra ngày 15/6/1994 - tr. 6 .
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ