Thứ Ba, 19 tháng 6, 2018

".. WHAT THE HELL IS GIONG ON ... " / một đoạn tự-sự-kể của thế phong -- bài đăng lại

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

hỡi linh hồn tôi - truyện thế phong - 2

hỡi linh hồn tôi  - kỳ 2 / thế phong
   viết ở  saigon năm 2003 




                                          -------------------------------------------------
                                              -  2 tiểu thuyết   thế phong   viết sau 1975 :

                                                                            hỡi linh hồn 
                                                                                                              & 
                                                                         truyện hoa đào năm ngoái


                                     -------------------------------------
                                                     bìa :  họa sĩ  vị ý   [1923 - hoa kỳ 198?]

                                                               cánh gà, từ trái sang, từ trên xuống : 

                                                              huỳnh thị thu thủy +   hoa   [chị của thủy ]
                                                                  thếphong +  vị ý  [dalat 1962]
                                                                                     thếphong +  nữ văn sĩ linh bảo



                           Huỳnh Thu Thủytrái)+ phu quân, Nguyễn Mạnh Cường
                                                                 (ảnh: Nguyễn M ạnh Cường cung cấp)



THỦY & T6/ Thế Phong
 một cuốn  truyện  Thế Phong viết về HUỲNH THỊ THU THỦY
                                           -----------------------------------------------------------------


                                hỡi linh hồn tôi
                                       truyện thế phong

                                                   2  
                                               

                      - các phiên bản chân dung tác giả Thế Phong tới năm 1954



    Bỗng Tâm lên tiếng, cắt dòng tư tưởng quá vãng của Đỗ:
    " Đến nhà ông bà giáo rồi, ông còn nghĩ ngợi gì mà bần thần vậy ?"
    Duật phụ họa với vợ :
    " Cô Khuê nghe thấy tôi, bà Tâm nhắc đến ông, cô ấy hỏi ngay, có phải ông này trước ở Nghĩa Lộ không ?"
   Rồi Duật kéo giây chuông nhà, trong nha bật đèn và chính Khuê ra  mở cửa.  Bốn người vào phòng khách .  Cuộc hội ngộ này- riêng với Đỗ công cùng quí giá - anh hy vọng dẽ là khúc ngoặt mới cho cuộc sống của anh.

                                          ***

    Máy bay vận tải C 130 đáp xuống sân bay quân sự VũngTàu, Đỗ quay sang Văn, em ruột của Khuê, anh nói :
   " Tôi rủ cậu về, và, sáng mai sẽ giới thiệu cậu làm hướng dẫn viên.  Lương bổng của guide chỉ kém huấn luyện viên một bậc thang lương."
    
   Văn là bạn thân nhóm nhạc du ca Nguyễn  Đức Quang, được Phạm Duy hướng dẫn ban đầu.  Văn đồng ý  xuống trung tâm lần này với Đỗ, vì, biết nhạc sĩ Phạm Duy thường có mặt ở trung tâm, sáng tác ca khúc cho khóa sinh hát.  Nhạc phong trào này được đặt hàng và chàng nhạc sĩ phù thủy không mấy khó khăn, sản xuất nhiều ca khúc phù hợp với đường lối, lại rất thành công, vừa dễ hát vừa nung chí khí hùng binh cho khóa sinh.  Đỗ còn gặp Nguyễn Thanh, chàng hồi chánh vượt tuyến, có giọng ngâm thơ lớn tiếng, ấm và, có một thời nổi tiếng trong ban Tiếng thơ của đài phát thanh Hà nội.  Thanh rủ Đỗ và nhạc sĩ Phạm Duy ra bờ biển Vũng Tàu nghe sóng vỗ, cùng với lời ngâm thơ âm vang tỉ thí, nghe nhạc sĩ Phạm Duy thổ lộ tầm tình:
   ' Hai ông có từng nghe ca khúc Tiếng đàn tôi của tôi không nhỉ ?'
   ' Tất nhiên là có -  Đỗ trả lời.  Rồi sao ?'.
   ' Sáng tác ca khúc này, động cơ chính là cho chị dâu tôi '.
   ' Phu nhân của tác giả Tà áo Văn quân '.*
   ' Không  sai '.
----
*  Phạm Duy Nhượng .

   Nguyễn Thanh lắng nghe, vì anh này không biết thật.  Thời kháng chiến chống Pháp, anh ta mới chỉ là  một thiếu niên, và, quan trọng nhất, là khi ấy, năng khiếu văn nghệ chưa phát tiết ra ngoài.  Đỗ không nói thêm về hậutrường của ca khúc kia, bởi, trước khi là vợ của anh mình, người ấy không ít lần làm trái tim bạ ai yêu đấy của nhạc sĩ PhạmDuy.

    Đỗ rủ văn ra quán Aux Délices, nơi, Đỗ thường lui tới, uống cà phê, đôi khi ăn trưa luôn không chừng.  Bởi có Tỵ, con gái chủ quán-- ngay lần đầu tiên gặp ,
' hình như thuyền em bơi lội trong dòng mắt anh ' (tác giả : ?). Anh càng  xoải đôi cánh tay ra bắt em, thì như, anh càng đuối sức, vật vờ.  Cô  ta được soi vào nhiều đôi mắt đàn ông, đôi ba kẻ mà anh biết, như, Lượt trưởng đồn quân cảnh - thêm chuẩn sói, tên Trịnh Cung mới ra trường Võ bị Thủ Đức, mỗi lần đến là một lần khoe nghề lính: đáng chán, em biết không,anh đây là họa sĩ nổi danh tốt nghiệp đại học Mỹ thuật Huế. Thêm một đại úy lục quân, mặt đen sì, gặp Đỗ, là nguýt, hệt như cái nhìn của cô hàng cá muốn nuốt sống địch thủ  bán cá chạy hơn mình. 

    Văn thấy Đỗ xán lại trả tiền nơi cô chủ, cười, nói thân thiết; cô chủ đưa cho một tấm giấy nhỏ lọt thỏm vào lòng bàn tay.  Văn hỏi ngay, khi Đỗ trở về chỗ ngồi:
    ' Cô ấy nhìn anh rất khác, cô ta đưa thư tình cho anh, phải không ?'
    ' Không, đây là bức họa chân dung cô chủ, qua nét nhìn của họa sĩ Trịnh Cùng'.
   ' Em biết ông này, Văn nói , ông này , hình như ông ấy hay lên Đà lạt chơi, ăn mặc lập dị, mặc áo manteau, đi dạo xung quanh khu Hòa bình.  Mặt mũi non choẹt, lại làm ra vẻ ông cụ non , bị mấy sinh viên sĩ quan Đà lạt, nạt : 
 ' không biến đi, để nhìn thấy mặt là có chuyện, đó em ?'  Sau đó, có lần em gặp ông ta ở nhà cô giáo dạy vẽ ,anh có biết cô Tôn nữ Cấm Quỳ không nhỉ ?'
    ''Biết, cô ấy là bạn học cùng khóa với họa sĩ Trịnh Cung ở đại học Mỹ thuật Huế.  Và, thường đùa rằng: cụ thân sinh đặt tên công nương là Cấm Quỳ, chứ không là Cẩm Quỳ ."  Cô ấy nghe thấy anh đùa vậy, tỏ ra không mấy vui.  Và sau khi cô ta lập gia đình  với một nhà văn trẻ ở Đà Lạt đấy.  Và nhà văn Thái Lãng có lần tâm sự, thường ra, phu nhân anh bắt cấm quỳ.'

      Văn lại hỏi vặn :
   ' Nhưng, sao cô ấy lại cho anh tấm  vẽ chân dung ?'
   ' Cô ấy âu yếm, nói nhỏ ' nếu thích, thì chiều ...' 

    Nhìn tấm  chân dung phác họa của họa sĩ này,  bất cứ người nữ nào đều có sống mũi cô đầm xòe.  Và  Đỗ thấy có hàng chữ viết tay ' la fille Au Delices' rất nắn nót của chàng họa sĩ lùn thước mốt, râu quai nón , ăn nói lắp bắp, nhưng, rất nam tính là Trịnh Cung.

                                                     ***

                                       cô dâu sau ngày cưới : 2 năm...

    Trung tâm huấn luyện thuê hộp thư số Một Vũng Tàu, nên,  vào những ngày cuối tháng 12 -1965, mỗi lần nhân viên của trại ra Vũng Tàu đi lấy thư, Đỗ săn đón, hỏi thăm xem có thư từ của anh không ?  Bởi, anh đang mong tin từ Đà Lạt, sau khi Văn không làm ở Trung tâm nữa, về lại Đà Lạt, đem theo một sứ mạng của Đỗ nhờ.

    Và lần này, anh anh nhận được thư của bố vợ tương lai gửi từ Đà lạt, nên, anh vô cùng hồi hộp.   Bởi trước đó, anh gửi thiệp hồng cho gia đình vợ tương lai, mà không hề thông báo trước, chỉ nhờ Văn đem về và nói giúp. 

  Thiệp hồng, nhưng, in toàn chữ màu đen, sắp chữ kiểu Véronèze corps12, giữa, in ảnh nhỏ 2 người chụp chung ở sân bay quân sự Cam Ly - khi Khuê tiễn anh lên máy bay Cessna của hãng Air America đi Vũng Tàu.  Họ của gia đình nhà trai in bên phải, nhà gái bên trái.  Thiệp cưới in ra 2 loại, một số in tên  trên giấy khai sinh, một số in bút danh.  Tư Cao, chủ nhà in Nguyễn Trọng bên Lăng Ông Gia Định, nhà in nhỏ như chiếc hộp quẹt có 2 chiếc máy in duy nhất, một máy pédal dùng tay đặt giấy, in từng tờ một, một máy khác in được 4 bát chữ in ruột sách Sau 1963, chế độ Ngô đình Diệm đổ, đọc báo Chính Luận, anh mới biết tin Tư Cao hiện bị giam ở khám Chí hòa.  Theo báo đăng, Tư cao làm kinh tài Việt cộng.  sau 1075, anh ta được bổ nhiệm giám đốc nhà in báo Sài Gòn giải phóng. 

   Anh chủ nhà in Nguyễn Trọng  này in thiệp hồng cho anh xưa kia, ợ máy pédal nhỏ.  Tư cao cực lực phản đố thiệp hồng in mầu đen, lại in ảnh cô dậu, chú rể - anh ta chưa từng thấy ai làm như vậy.   Nó không thể gọi là thiệp hồng được, bởi theo Tư Cao  đoán là hậu vận không tốt. Trả lời anh cứ in mầu đen, vỉ đã nghĩ kỹ, và chính in mấu đen mới là thiệp cưới trang trọng, có nghi
thức Phú lãng savậy.
---
Pháp

                                                  ***

                              cô thủ thư viện Nguyễn thị Khê của Hội thánh
                                              Báp -tít Trung Tín Đà Lạt, 68 Minh Mạng, Đà Lạt

                                                              (ảnh: tạp chí MISSI, 1965.)


   Thư của ông giáo Bảo , bố vợ tương lai, cho biết: tốt nhất nên hoãn  lại.  Bởi, ngày cưới in trong thiệp tự định đoạt kia bất ngờ quá, không thể nào chuẩn bị kịp.  
   Đỗ cầm thư, rồi, lấy xe gắn máy phóng ra Vũng tàu, tìm đến quán Aux Délices,  ngồi đây, ngắm cô chủ quán, để viết thư trả lời gia đình bên vợ tương lai ở Đà Lạt.   Đại để, anh bày tỏ rằng : ' trước, sau gì cũng cưới thôi, hơn nữa, thiệp cưới đã gửi cho bạn bè, trong số ấy đa số là nhà văn, nhà báo, giáo sư ... chẳng mấy ngày nữa, báo liên tục đăng tin mừng ...'  - điều quan trọng nhất là Khuê, rồi 2 bác; thì, tiệc cưới sẽ diễn ra sau  tết âm lịch và, cũng chỉ trong vòng 5 ngày sẽ lo đủ  thủ tục đám cưới, đám hỏi cùng  1 lần.    Anh giở tờ báo Chính Luận ngày hôm nay, nơi trang 8 đã có 2 tin chia vui với nhà văn chú rể.  Chỉ vài ngày tới, báo chí Sài Gòn nhất loạt đăng tin mừng.  Anh gửi thư bảo đảm phát nhanh, và, anhc hắc rằng chẳng bao lâu  sẽ nhận được tin từ Đà lạt trả lời.    Vài ba ngay sau, người đi lấy thư về đã trao cho anh 1 điện tín từ gia đình bên vợ tương lai.   Họ đồng ý như lời  anh hứa, đám hỏi + đám cưới cùng  1 lần theo đúng lễ nghi, thủ tục.

      Vấn đề được đặt ra trong việc tổ chức đám cưới của Đỗ, thì về phía nhà trai chỉ có người  cô ruột Đỗ thị Thảo đứng trên trong thiệp, thay mặt bố mẹ không còn .  Phía nhà trai, còn thêm  người anh  nghĩa tử nuôi cơm áo từ vài năm nay.  Như lời người anh nghĩa tử :  để anh khỏi phải lo cơm ăn, áo mặc, chỗ ngủ từ lúc còn ở xóm đạo Tân Chí Linh  dọn đến Ngã tư Bảy Hiền này.   Biết được người anh nuôi, tên Huyến, ấy là , nhờ Cao Thế Dung giới thiệu- vì, anh ta thấy Đỗ lo lắng, khi chủ nhà ở xóm đạo Tân sa châu xiết nợ, tủ quần áo, bởi, không tiền trả nhà thuê hơn 3 tháng.  Còn tiền cưới, chắc  Đỗ sẽ phải đi vay.

   Nhưng ai là người có thể cho nhà văn, đít nhẵn như ếch, vay tiền đây; bởi sẽ lấy gì đảm bảo có thể trả được! Cũng may, hiện thời anh đang là giảng viên , có lương hàng tháng gần 10 ngàn đồng, chắc là, có đôi chút bảo đảm.  Như dự tính cho đám cưới này, Đỗ phải có trong tay 100 ngàn đồng, mà bây giờ chưa biết vay ai ?  Bỗng, anh Huyến bàn với Đỗ :

    ' Tôi bàn với ông, hay là, ta đến vay ông Phú , có ngay thôi '.
    ' Bác Chánh có ý kiến hay, thế mà sao tôi lại không nghĩ ra ?'

   Phú từng là lính của bài quân nhạc, có nhịp điệu' ta chiến binh  Sư đoàn nhảy dù..' , cũng từng là chiến hữu đi đào mỏ vàng với anh ở Phi- Nôm vào năm sáu tư.  Người bỏ tiền Đinh Xuân Cầu và, trong số ấy có  Phú, Đỗ... nổi tiếng vụ đào vàng này, đến nỗi nhật báo Sống của Chu Tử, trong mục Ao thả vịt, Kha trấn Ác loan tin 2 cột báo ở trang 1 : ' nhà văn Đỗ từng được mệnh danh 'vua chửi' cùng đi đào vàng ở Đà lạt với Đinh xuân Cầu ...' Đỗ không muốn   nhờ tiền cô ruột,  hay, bạn bè khá giả, nên   vay tiền làm đám cưới là hay nhất.  Chỉ cần dành dụm vài ba tháng là trả hết nợ thôi.  Và, số tiền mua vé máy bay cũng  là món tiền kha khá đắt, 500 đồng một lượt, khứ hồi 980 đồng- 3 vé gần  3 ngàn đồng: chú rể,  người cô ruột và  anh Phạm Quang Huyến.
  
    Thời kỳ này không thể đi đường bộ,  chỉ riêng nói tới quốc lộ 20 đi Đà lạt, ở cây số 135, thường bị địch phục kích. Số bạn bè là văn nghệ sĩ được mời, sở dĩ đăng báo mừng nhiều hơn là có thể đi Đà lạt tham dự,  cũng vì đường bộ đi lại khó khăn.  Và Đỗ, ra hãng máy bay Air Việtnam mua 3 vé khứ hồi.

                                                      ***  

     Mùng 5 tết âm lịch đến Đà lạt, với hành lý quần áo, chẳng đồ sính lễ, áo cưới cô dâu chưa may mà mùng 10 là ngày cưới.   Coi như chỉ còn, 4, 5 ngày nữa, làm sao sửa soạn cho kịp.  Đà lạt vẫn còn đắm trong sương của không khí mùa xuân, hoa anh đào năm nay nở 2 lần, mầu đỏ, hồng thật đẹp mắt.   Và phố xá Đà lạt đông người, nhưng đa số cửa hiệu im lìm đóng.  Cũng rất may cho Đỗ, trong số các khóa sinh ở Trung tấm huấn luyện Vũng tàu, thì, có rất đông cô, cậu là học trò của Đỗ.  NhưGiăng ở 33 Hoàng Diệu (chắc gia đình này ngày xưa quốc tịch Pháp, có tên tây ) nhận làm phù rể cho thầy.   Giăng lại giới  thiệu một cựu khóa sinh khác, có người cậu ruột mở tiệm may Túy ở đường Phan đình Phùng , chuyên may áo dài các cô, các bà.   Còn bác Bảo lại quen một gia đình làm bánh ngọt trên đường Hàm Nghi, thế là, 2 tiệm này có thể bị gõ cửa sớm đầu năm.  

     Tiệc cưới đặt ở khách sạn Nam Đô, phòng cưới rước dâu về khách sạn sang trọng nhất Đà lạt ở phòng A,   khách sạn Palace.   Phòng A - một trong 4 phòng đắt tiền nhất - trông ta hồ Xuân Hương.  Cô dâu theo đạoBáp-tít Ân điển, làm ở Phòng đọc sách trên đường Minh Mạng.   Đỗ vốn là con cầu tự chùa Quán thánh ở Yên bái, chưa tin Chúa - nên được dặn dò trước  ngày cử hành hôn lễ, chú rể tới tư thất giáo sĩ  Mỹ học lễ.  Đỗ biết đây là một đặc ân, bởi lẽ, phải là tín hữu đã làm báp-têm, thuộc viên chính thức hội thánh, là một Cơ đốc nhân, mới được phép cử hành hôn lễ.  Khi Đỗ và Khuê đến nhà ông bà giáo sĩ người Mỹ Roberston, thì, gặp  bà giáo sĩ Betty Merrell, và, chính bà này là người đệm dương cầm ở nhà thờ cho đám cưới 2 người.  Bà Merry nói ngay:

    - Một là, Chúa có thêm một tín đồ, hai là, Chúa mất thêm một tín đồ.


                                             ***

    Đỗ không thể quên ngày 30 tháng 1 năm 1966, khi, hôn lễ được cử hành xong, rước dâu về khách sạn Palace - một giáo sĩ khác nhìn thấy căn phòng rộng, có 4 giường, 2 lò sưởi, 2 phòng toa-lét rộng thênh thang, sa-lông tiếp khách thật đẹp, điện thoại đầu giường, đã quay lại hỏi nữ giáo sĩ Betty Merell :

    - Này, ông này làm nghề gì ?
     - Tôi không rõ lắm, nhưng, mục sư Roberston cho biết, ông này là một trí thức Việt nam làm việc ở Vũng tàu.  Đầy là đám cưới mà chúng ta quay phim 16 mm, đem về Hoa Kỳ làm quảng cáo.


                                               ***

    Sau ngày cưới, vợ chồng Đỗ đã phải đem chiếc nhẫn cưới bán cho tiệm vàng, để, có tiền chi dụng hàng ngày.  ba ngày sau,  vợ chồng Đỗ lên phi trường quân sự Cam ly, đợi chiếc Cessna 4 chỗ đưa về Vũng tàu.

     Khuê nhắc chuyện bà cô bỏ về nửa chừng, không làm chủ hôn, chỉ vì một lý do chẳng đáng gì.  Tới hôm ngủ ở nhà ông bà giáo Bảo, bà nhìn thấy cuốn sách trên kệ đầu giường, rồi vớ lấy đọc, chờ giấc ngủ.  Bà rướn đôi mắt, nhìn cho kỹ hơn : cuốn sách này viết về 5 nhà  văn , trong đó, có chú rể lá cháu ruột bà.  Tác giả cuốn sách, Du Tử Lê viết về Thế Phong- cho rằng- anh này từ Hànội vào Sàigòn, trước di cứ 1954 - như kẻ tứ cố vô thân.  Bà cô ruột giận nhất, khi, đọc đến đoạn này :

    '... Ông ngồi vừa nói chuyện vối tôi vừa đánh  máy ' Nhà văn, tác phẩm, cuộc đời ' .  Nghĩ đến đâu ông đánh máy tới đò, không viết trước.  Bên cạnh chiếc máy đánh chữ  là một ly cà-phê to ( loại ly sành)  cùng 2 bao Bastos xanh, ' gu' đặc biệt của ông.  Ông uống cà-phê như uống nước trà, và hút thuốc liên miên, ngay cả lúc đánh máy.  Ngồi một lát, ông rủ tôi ra quán cà-phê.  Sau một thời gian giao tiếp, tôi cũng không biết ông lấy tiền đâu để sống !  Ngoài việc viết sách, ông không hề làm việc gì khác, cũng không hề viết báo.  Chỉ biết về sống tại đây, nhờ một người anh họ.  Điêu lạ hơn nữa là không bao giờ thấy ông than phiền về các vấn đề tiền nong, hay kêu ca về những đau khổ mà cuộc đời đã dành cho ông.   Không phải đời sống ông đầy đủ, không phải cuộc đời hậu đãi ông.  Dĩ nhiên là thế !   Hay ông là con người vô tư, đang sống trong hạnh phúc, trong tình yêu tràn đầy !  Tôi biết chắc  cũng không phải.  Thơ văn và thái độ của ông chứng tỏ hùng hồn điều đó. Tất cả những chuyện ông nói với tôi, tuy có chua chát, đắng cay, nhưng ông kể lại với một giọng hài hước, dí dỏm, không một chút hậm hực, không một chút oán hờn, than trách.  Bất cứ ở đâu chỗ nào, ông cũng chỉ có một vẻ mặt : tươi cười, vui vẻ, một giọng nói vang động, vỡ nát.  Nhưng tôi không tin tiếng cười, giọng nói đó phản ảnh mặt thực của tâm hồn ông.

    Ở quán cá-phê ra về, đêm  đã khuya lắm, ông còn cố giữ tôi lại. Chúng tôi ra ngồi một chiếc bàn gỗ ngoài sân dưới giàn ho bông giấy. Chiếc ' transistor ' để bên cạnh, phát ra những âm thanh kích động của một bản nhạc ngoại quốc.  Chúng tôi im lặng hút thuốc.  Mỗi khi đốm lửa xòe lên, lại một lần soi sáng khuôn mặt nhăn nheo, dữ tợn, lì lợm của ông. Nhưng không như mọi lần, ở đây mỗi khi liếc nhìn, tôi thấy ẩn sau những nét nhăn, có vẻ hung hãn kia, có một cái gì rất mỏng manh, rất khó nhận, nhưng cảm được.  Một nỗi buồn, một vẻ ưu tư trầm kín, cái cảm giác mơ hồ về một đớn đau, một khắc khoải quằn quại, một chán chường, một khốn nhục...  . Tôi không biết trong thâm tâm ông nghĩ gì ? Hay không nghĩ gì cả.   Tôi bỗng thấy buồn.  Bỗng thấy một niềm thương tiếc không đâu dâng lên rao rạt trong tâm hồn tôi .

     Xa xa tiếng súng đại bác từ miệt Phú lâm vọng tới.  Ông thở dài như nói một mình :

    ... tôi không còn thân thích nào ở đây cả .  Trong đời tôi, tôi chỉ quý mến và nghe lời một người, đó là mẹ tôi.  Nhưng mẹ tôi không còn nửa, kể cả bố tôi cũng vậy.  Tôi không anh em ruột thịt, một thân một mình, chả có nhu cấu gì nhiều.  Sống theo những gì mà mình muốn, làm nhửng gì mà mình  thích làm.  Vợ con chưa có, lỡ có chết, có tai tiếng hay điều gì cũng chỉ một mình gánh chịu.

     Dừng một lát, ông tiếp, giọng thật nhẹ , xa xôi, khác hẳn bình thường; khiến tôi có cảm tưởng như tiếng nói đó không phải của ông mà của một ai xa lạ.  Tôi nhớ mãi câu nói của ông : '... Tôi không muốn để ai biết tôi buồn, nỗi buồn của tôi chỉ có tôi biết mà thôi. Và tôi cũng không muốn nhận ai hay mang ơn ai cả ...'


                                              ***

     Sáng hôm sau, bà Thảo nói với ông bà giáo Bảo rằng : không thể làm chủ hôn cho cháu ruột, trưa nay phải về Sài Gòn gấp.  Ông bà giáo Bảo báo tin cho Đỗ biết, nên giữ bà ở lại, dâu bà cô có giận cháu thế nào đi nữa, cũng không thể có thái độ, hành động như đem con bỏ chợ vậy.  Nhưng dầu ai nói sao, kể cả cháu đích tôn còn là trưởng tộc họ Đỗ; bà cũng xách va-li ra bến xe trước ngày cưới.  Anh Huyến thấy vậy, thưa với ông bà giáo :

    -Xin ông bà thương chú em nghĩa tử của tôi mà không chấp nhất thái độ cố chấp của bà Thảo, ngày mai đây ông bà nhạc vui lòng cho tôi được phép thay thế đứng chủ hôn.

    Ông giáo Bảo là đồng nghiệp với bố của Đỗ,  có tình bạn thâm giao, mặc dầu ông giáo Đỗ văn Đức hơn một giáp tuổi.  Ông hỏi Đỗ :

   - Con có thể cho hai bác biết lý do nào, cô của con nhất định bỏ về ?

    Cầm cuốn Năm sắc diện năm định mệnh *, Đỗ trả lời :

---
* Du Tử Lê, Sài Gòn 1965.


   - Thưa hai bác, chỉ vì cuốn sách chết tiệt này, có câu văn nói rằng mình 
tứ cố vô thân.  Chỉ cần hai bác đồng ý thì anh Huyến đây thay mặt nhà trai chủ hôn là được.

  ' Khuê là thứ nữa, còn chị lớn hơn 4 tuổi chưa i hỏi han tới, cô em đã ra ở riêng trước; thì đây cũng là một tiến bộ vượt bực của gia đình Việtnam.' - một ông chấp sự trong hội thánh trả lời giáo sĩ Betty Merell vậy. 
    
    Nữ giáo sĩ chưa hết thắc mắc :
   
 ' Cô chị lớn không đẹp, lại không có duyên bằng cô Khuê, quả ông Đỗ có con một tinh đời thật ! và còn cô em nữa cùng 4 đứa em trai, xem ra thì chỉ một cô Khuê và ông bố đã tin Chúa.  À quên, cô chị lớn tin Chúa mới đây, khi tin nhận mặc cả thế này thế kia với Chúa.  Không gì khốn nạn bằng tin chúa, chỉ mong kiếm ma- na Chúa ban cho như không'.

   Ông chấp sự, người chuyên dạy tiếng việt cho các giáo sĩ, như có đôi chút động lòng :

   - Và từ khi đạo Thiên chúa được rao giảng tại Việt nam, thì có câu
 '... theo đạo lấy gạo mà ăn ' mà bà giáo sĩ !.

   - Thế ông có biết nhiều về ông Đỗ không ?

   - Ông ấy là tác giả  tập thơ Asian morning Western music tôi đã đưa cho giáo sĩ Roberston đọc. Có những câu thơ, như lời ông Roberston, đọc xong không mấy vui !

   Nữ giáo sĩ Betty Merrell càng thắc mắc :

   - Ông có thể cho tôi mượn đọc, được không ?

    đưa tay với lấy từ trên kệ, ông chấp sự giở sẵn trang, có những câu :

    '... The land of ours counts on you
         Men who are not Communists
         Men who have convictions
         Men who are not servants
         Men who have dignity
         Men who do not allow wives to work for Americans
         Men who have hopes
         Men who bring salvation
         I know you  will hate me
         I tell you
                     You must learn American
         ( If you want to know
                      what the hell is going on ...'

    bà Merrell chau mày khó chịu, khi giở ngược lên mấy trang trên, mắt dán vào bìa tựa viết cho cuốn thơ :

  '... He is against thoe who would 'use literature in the same way as bar hostesses do '.   In ' Trước mắt nhìn thi sĩ ' (Under the Poet' s Eyes), he declares :

    ' The million lines of poetry which can become / directives for this nation in the future / Should be preceded by the million lines of poetry / cataloguing the hardship of to-day ...'

    His poetry, like his prose, iks deeply committed passionate, and suprême just ...'

     bà đọc tên người viết tựa : Llyod Fernando / Pr. of English / Univeristy of Malaya - rồi quay sang ông chấp sự, vừa cười vừa nói : 

   ' ...chắc ông không cần phải dịch sang tiếng việt, phải không ông chấp sự !'

    - ...vâng đúng, thưa giáo sĩ. Và thật mà nói, không phải ai cũng như tôi, rất thân thiện với người Mỹ đồng đạo. Ông Đỗ thì không thế, bà giáo sĩ ạ!

   -... nhưng ông này hiện đang làm ở Vũng tàu cho người Mỹ mà.

   - đúng vậy, nhưng  đây là một trung tâm huấn luyện, do tòa đại sứ Mỹ đài thọ, các giảng viên này làm việc ở đây, đa số được hoãn nhập ngũ.

 
                                                                           ***

     Về gần tới Cát Lở đã nghe đồn ầm lên, trung tá Châu được người Mỹ ủng hộ để thay thế đại úy Lê Xuân Mai,. chỉ huy trưởng.  Phe cánh của ông này : Cường, Duyệt, San , Sáng ... đang tổ chức rầm rộ để làm áp lực, không cho phe của người mới nhậm  chức. 

  Gặp Đỗ và Khuê, Cường vẫy lại báo tin, và, như ra lệnh cho phe ta phải tham dự đảo chính trung tá Châu.  Đỗ giữ thái độ im lặng, không phản đối phe mới, cũng không tham dự với phe thân đại úy Mi.  Anh giải thích cho vợ, dầu có làm gì chăng nữa, cũng không thể thay đổi tình thế.   Người Mỹ đã muốn thay ngựa giữ dòng, thì, dầu có làm gì chăng nữa cũng vô ích.  Anh không quên Cường, người giới thiệu anh vào làm ở đây, ăn lương giảng viên để làm tờ tập san, tiếng nói của trung tâm.   Anh làm ma-két tờ tập san , ngoài phần bài vở của trung tâm, đưa là phải in - còn phần văn nghệ - anh đăng thơ, truyện của bạn bè và của chính anh.

    Vợ chồng thuê được một căn nhà ở xã Thắng  Nhất, Rạch Dừa - và - vợ anh cũng được tuyển làm giảng viên ý tế, nhờ ở có 1, 2 năm từng học đại học Dược khoa.  Ăn cơm chiều  xong, Khuê bảo chồng :

    - Tối nay ra thăm vợ chồng ông quân cảnh Lượt đi.  Em mới gặp Bích ở Đà lạt xuống Vũng tàu thăm chồng đấy.

    Đỗ gật đầu, nhớ lại cô Bích, con gái một nhà in lớn nhất ở Đà lạt, và, là bạn thân của Khuê.   Đại úy trưởng đồn quân cảnh Vũng tàu lên Đà lạt chơi, đi qua nhà in Công Đồng, gặp cô con chủ, quen, yêu, làm lễ cưới - và- cô phù dâu cho Bích, là vợ của Đỗ bây giờ.  Đỗ cũng không quên Lượt và Đỗ từng đến quán Aux Délices uống cà-phê, cả hai đều phải lòng cô Tỵ, con chủ quán.  Lần ấy, Đỗ có việc phải sang Bà Rịa công tác, anh đến rủ cô nàng cùng đi.  Chiếc xe Dodge 4 chỉ có tài xế, Tỵ và anh.  Đổ nói với Tỵ :

    - Cảm ơn một buổi chiều tuyệt đẹp, được ngồi bên cô.  Trong đời tôi, sẽ không bao giờ dễ quên được- cho dầu là điều tôi bày tỏ với cô là tin vui hay ngược lại.

    Quay sang nhìn Tỵ, sự cảm động dâng lên đôi mắt đen láy bồ câu'càng nhìn lạu càng đắm đuối '.

    Đỗ nắm lấy tay nàng tong bàn tay anh.  Tỵ không nói năng gì,  anh tự cảm thấy đã bị tước khí giới, nếu, Tỵ thuận mà không nói năng gì - ít nhất cũng bày tỏ một cử chỉ đáp trả nhẹ nhàng- để anh có thể cảm, hiểu được.

     Lúc Tỵ bước vào cửa hiệu nhà nàng, anh ngồi trên xe , vẫy tay nhè nhẹ, lòng buồn không sao tả được !  

     Trên đường về trại Seminary Camp, anh nhớ lại nhiều khuôn mặt người nam theo đuổi Tỵ.   Trưởng đồn quân cảnh Lượt, thì, đã ra ngoài danh sách
- tiếp đến -  một chàng thiếu tá bộ binh có gia đình rồi, mà, hằng đêm vẫn ngồi đồng, dán mắt vào quầy thu tiên, có cô chủ quan ngồi đó. 

    Anh nhớ đến một sáng chủ nhật, đang ngồi một mình uống cà phê. Anh để mũ,  bao súng lục, dao găm ở dưới bàn, tay cầm điếu thuốc lá, mắt nhìn ra ngoài đường Phan thanh Giản đông người qua lại.  Bỗng có bàn tay một ai đó, ừ phía sau vỗ vào vai,  anh tưởng chừng  bạn quen .  Khi quay lại nhìn, thì, không phải bạn quen, mà,  là một thiếu tá lục quân lạ hoắc, mặt đằng đằng sát khí, hạnh họe :

   - Mai tao tới quán này, thì không muốn nhìn thấy bản mặt mày.  Nghe rõ 5 trên 5 ?

    Thiếu tá lục quân nói chuyện với anh, như, thường ra lệnh cho lính tráng thuộc quyền.  Đỗ coi như không nghe thấy và anh chẳng quan tâm.   Cố ý gây cho đối tượng vô danh tức hơn, để, dò thái độ phản ứng tiếp theo.  Thở ra hơi rượu nồng nặc, thiếu tá hét lớn :

   - Tao nói với mày đó ! Mày bị điếc và câm hả ?

    Tỵ thấy to tiếng, giữa hai khách đều quen cả, nàng đi ra, rồi lôi thiếu tá ra ngoài ;
    -Anh về đi, say quá rồi !

   - Ai bảo tôi say ? Cô em để tôi thanh toán thằng biệt kích Mỹ này ! 

   Lực lượng cơ hữu bán quân sự trung tâm đều mặc bà ba đen, và chỉ huy
trưởng đã trả tiền cho nhạc sĩ sáng tác ca khúc, có câu : '...kẻ thù ta đâu có phải là người / giết người đi ta ở với ai ? ' ...- như để trả lồi đối phương.

   Lúc này Đỗ  mới ra oai,  đứng dậy, cầm mũ lưỡi trai đội lên đầu, thắt giây lưng có khẩu Browning , trả tiền xong đi ra cửa.  Tỵ nói với anh :

   -Ông ấy say, anh đừng chấp, tối nhớ ra đây em nhờ việc này.

   Đối tượng kia nghe được, lại la toáng lên, với lời chửi rủa càng tỏ ra tính khí hung hãn :

    - Em lại còn hẹn hò với nó à ? Bắn bỏ mẹ mày, khôn hồn thì đừng để tao nhìn thấy mặt.

    Đúng lúc ấy, chiếc  xe díp sơn ngụy trang biệt kích trờ tới trước cửa hiệu đón anh về trung tâm.  Bước lên ghế trước, Đỗ hất giây lưng có khẩu Browning sáng loáng ra một bên, làm ra vẻ hách dịch, không thèm chấp thằng say rượu vẫn đang la toáng chửi bới khách vô danh, hỵ vọng được lòng cô chủ quán .

   Tiếp đến là Củng, chàng họa sĩ này không có kí-lô nào đối với  nàng; nếu không, Tỵ đã chẳng cho anh bức chân dung vẽ nàng, có hàng chữ ghi tặng ' la fille Aux Délices '. Vậy thì, tại sao Tỵ không  bày tỏ dấu hiệu ưng ý để anh ta tiến tới ? Có thể nào, nàng nghĩ rằng Đỗ muốn cưới nàng, vì, nàng là con nhà giàu ?  Chỉ điều này thôi, là, dễ bị chạm tự ái - nhược điểm lớn nhất - nếu đối thủ biết được, chỉ cần đánh nhẹ vào, anh sẽ tự động bỏ cuộc ngay-   giá như thiếu tá lục quân kia hiểu được vậy.

    Đỗ đang buồn bực với chính anh, tự trách,  chưa tỏ lời đúng lúc, khi tình trạng chưa chín mùi . Một quyết định tình thế cho chính anh , là, sẽ không ra quán nàng một thời gian xem sao ?  Nhưng ý nghĩ này bị đánh đổ ngay, như vậy, là, anh sợ chàng thiếu tá lục quân đe dọa vu vơ sao ? 

      Lên giường nằm không sao ngủ được, , anh đành vặn nút chiếcradio, để nghe nhạc thính phòng dỗ dành.  Lại là một thói quen, mỗi khi khó ngủ anh thường làm vậy.  Và bản nhạc ' Que sera sera ...'  đánh đúng tâm lý Đỗ, chuyện gì xảy đến sẽ đến, có lo nghĩ chỉ bằng thừa.  Anh với tay tắt radio và ánh sáng của đèn ngủ đầu giường.  

    Và, sáng hôm sau, nhân có  máy bay C130 đưa khoá sinh về Đà lạt, anh theo đi.  

    Và, cũng lần ấy gặp vợ chồng Duật, biết tin Khuê, con ông bà giáo Bảo ở  Nghĩa lộ trước, nay cô đang làm thủ thư viện hội thánh Báp -tít Trung Tín Đà lạt.

   Rồi ít tháng sau tổ chức đám cưới, nhưng, chú rể vẫn không quên buổi chiều hôm nào, ngỏ lời xin kết hôn với Tỵ. Nàng cho cầm tay, giữ thật lâu, nhắm mắt, mà, không trả lời - cũng như, chỉ cần gật đầu nhè nhẹ- đủ để Đỗ ấm lòng.

    Nhưng, không có 2 điều nho nhỏ ấy, khiến Đỗ như bị chậm tự ái, cho đến khi làm đám cưới xong, anh vẫn chưa dê quên nàng ! 


                                              ***

     Hai cặp vợ chồng giắt tay nhau vào hiệu Aux Délices - riêng Đỗ thầm ước trong lòng, tối nay Tỵ không cói mặt thì hay biết bao !  Lượt nhìn thấy  Tỵ có nét mặt không mấy vui, quay lại nói với Bích, vợ Lượt - cho cả Khuê - và cả Đỗ nữa, cùng nghe :

   -Ở Vũng Tàu này, anh  và anh Đỗ thường chỉ đến đến quán này uống nước.   Bởi, cô chủ là bạn thân của anh Đỗ đấy, chị Khuê ạ. (cười, quay sang Khuê).

   Tiếng cười của Lượt, khiến Khuê phải quay sang nhìn cô chủ quán, đúng là có nét không vui tỏ lộ.  Đỗ thú thật ngay với vợ, rằng , nhà văn thì phải giỏi tâm lý nhân vật; riêng với nhân vật Tỵ này, thì tác giả lại mù tịt.  Anh kể cho  vợ, kể cả vợ chống Lượt nghe :  buổi chiều đi chơi với Tỵ ở Bà Rịa và cả điều nói với Tỵ mà chưa được trả lời; rồi đến khi gặp Khuê, như gặp định mệnh, thi không thể đợi cái gật đầu nho nhỏ muộn mằn ấy nữa !'

    Khuê chê chồng thẳng cánh, không mấy tâm lý, và, anh nhận ra, chính nhà văn ở trường hợp này thật tồi tệ, chẳng hiểu tâm lý phụ nữ là bao !  Chẳng lẽ khi bày tỏ xin cưới nàng làm vợ, bắt buộc phải trả lời ngay tức khắc, như hỏi, đáp sao ? Nếu  nàng không có cảm tình, hẳn, đã không đi chơi tay đôi với anh đôi lần, và, lần này thì đi thật xa, từ Vũng tàu đến Bà Rịa.  Ấy là chưa kể đên chân dung nàng, do họa sĩ Cùng vẽ, Tỵ lại đem tặng cho Đỗ- như vậy chưa đủ là bằng chứng  bày tỏ tình yêu thật chân tình, và,  tế nhị biết chừng nào !  Quả thật  Đỗ thiếu hiểu biết tâm lý phụ nữ thật rồi !


                                                ***

     Cuộc đảo chính ở trung tâm Huấn luyện thất bại.  Đại úy Mai bị trở về phòng quản trị Tổng tham mưu, và, trung tá Trần ngọc Châu lên nhận chức chỉ huy trưởng.

     Cà ba trại huấn luyện trở về một mối duy nhất.  tất cả các giảng viên huấn luyện cũ: San, Cường Duyệt. Minh Ma-Ní, Tôn, Khoa... cả người đứng ngoài  cuộc, không tham dự đảo chính đều lân lượt không được đăng ký tiếp, và, đương nhiên là bước hàng hai vào trường Võ bị Thủ đức hoặc trung tâm Huấn luyện Quang Trung .


                                                ***

   Đỗ trở về Đà lạt với vợ đang mang bầu, bước lên bậc thang máy bay C130, anh nhìn lại sân bay Vũng tàu lần chót. Hai bên vệ đường bay, cỏ lau trổ bông đang bay theo chiều gió thổi thật mạnh.  Nơi này xưa kia,  mỗi sáng anh từng đếm được trên dưới 50 chiếc trực thăng HUIB cất cánh khỏi bãi đậu, như cánh chuồn chuồn kim khổng lồ lên đường hành quân.  

     Lần về Đà lạt này mang theo sự lo lắng, anh không biết làm nghề ngỗng gì ở nơi này. Với anh, thì, Đà lạt là nơi tiêu tiền, không phải nơi kiếm được tiền.   Hơn nữa, cái gươm vô hình lủng lẳng trên đầu, đưa đầu vào công sở nào, hồ sơ có hợp lệ không, có hợp lệ quân dịch không, vẫn là điểm ưu tiên được xét trước.  

     Thắng về nội, bại về ngoại, sao cái câu kinh thi xử thế này ở đâu đưa đến giúp anh có cách giải quyết tình huống nan giải bủa vây.   Nhưng Đỗ cũng không quên là rể ở nhà vợ như chó chui gầm chạn, và lại càng hơn, khi thất nghiệp, cộng trốn lính trốn  chui trốn nhủi.  Vợ anh vẫn là người bạn, an ủi chồng nhiều nhất .


                                              ***

    Bố vợ là nhà giáo về hưu có lương hưu, mẹ vợ lo chuyện bếp núc gia đình.  Hai em trai bên vợ còn nhỏ, đang theo học trung học, em gái kế Khuê, vẫn cắp sách đến trường Nữ Bùi thị Xuân.  Văn đã vào trường Võ bị Thủ đức, khóa 24.  

     Hàng ngày Đỗ đi bộ loanh quanh khu Hòa Bình, vòng ra hồ Xuân Hương, đi bộ hần hết nửa vòng hồ, ra Công viên Bích câu, chân mỏi, tìm băng ghế ngồi, nhìn mặt nước gợn sóng lăn tăn.  Đưa 2 tay vào túi quần lục lọi, mà, chính bản thân biết chắc chắn một đồng bạc lẽ cũng không có .  Cà-phê ở quán cóc, khói bốc nghi ngút giá chỉ 1 đồng 5, nhấp lên môi ngọt, đắng vừa khẩu vị, thèm ơi là thèm !   Ý nghĩ trong đầu nảy ra, hãy lội bộ đến quán cóc bến xe, ki-ốt đầu tiên  là Domino, chủ quán, cô sáu có họ hàng với Cà-phê Tùng, có chịu một ly đen nhỏ trả tiền , chắc không đến nỗi bị chối từ.  Bỗng dưng, lính tráng, quân cảnh ùn ùn tới, trên chiếc xe Dodge 4, sắc phụ nghi lễ, thôi còi đuổi khéo khách bộ hành là cà đi chỗ khác.  Chẳng cần phải hỏi, ai cũng biết rằng quan chức cỡ lớn sắp đi qua.  Nếu là, phái đoàn chủ tịch ủy ban Hành pháp trung ương , thì, phía sau có đoàn nhà báo tháp tùng, và, trong sô ấy không thể không có bạn bè anh là phóng viên đi theo viết bài.  Anh muốn tìm con đường nào vắng nhất, lẻn đi,  không muốn gặp ai, trong lúc thất cơ lơ vận này.   Cữ thèm cà-phê uống chịu không còn thúc giục nữa, anh đổ dốc lên sân Cù, hướng thẳng lên đồi, chờ cho đến khi nào phái đoàn đi qua, rồi xuống phố, về nhà lúc nào cũng được.

    Không công ăn việc làm, đối với một người viết văn là chuyện thường xuyên trong đời.  Tất nhiên đói khổ, lo âu cơm áo hàng ngày, không phải là chuyện đùa với khách thơ.  Các văn nghệ sĩ tiền bối, như Tản Đà chẳng hạn, than van, đem văn lên bán chợ Trời, đăng báo quảng cáo xem bói, hình như mỗi quẻ 
ba tiền.  Nhưng khi kiếm được tiền, thì lý sự,  : chỗ ăn, tức ăn, bạn ăn phải hợp  nhãn, đại để vậy.  Rồi còn đào gạch nền nhà, trồng rau húng láng, để tự thưởng thức cho phỉ chí.  Nhưng, có cậu em họ, làm bí thư cho hoàng hậu Nam Phương, thấy tình cảnh bi đát, xin trợ cấp cho người anh họ, thì chàng thi sĩ Tản Đà ngoai ngoải lắc đầu - nói theo kiểu bây giờ - chê đồng tiền dơ bẩn kia, kể cả có cách rửa tiền làm sạch đi nữa. 

    Với hoàn cảnh của Đỗ bây giờ,  vợ lại sắp sinh con đầu lòng, không nhà, ơ nhờ bố mẹ vợ, với ai thì không biết; với Đỗ, thì đã nhìn thấy cám cảnh của mẹ vợ đã như có thái độ xử khác thường rồi.  Đỗ chẳng dám oán trách gì, tất cả việc xảy ra , là do thiếu thốn bạc tiền.   Lãnh trọn lương 12 tháng lần cuối vào tháng 12 năm 1966, thì, vừa đủ cho vợ đi nằm nhà thương phụ sản tư.   Mẹ vợ săn sóc con gái, còn, chồng chỉ chạy qua lại thăm hỏi, và đượ cái, từ hẻm 279 Phan đình Phùng đến nhà hộ sinh tư, chỉ cách 20 căn nhà là tới nơi . 

                                                                              (còn tiếp)

    thế phong

                               -----------------------------------
                                                     bài đăng lại (June 20, 2018.)
                    ------------------------------

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ