THI CA & THI NHÂN
NGUYÊN SA
( 1932- 1998 Hoa kỳ)
bài viết: CAO THẾ DUNG.
Tên thực : Trần Bích Lan, sinh năm 1932 tại Hà Nội, tốt nghiệp Cử nhân
Triết học, Đại học Paris.
Nguyên Giáo sư Triết trường Chu Văn An - Hiệu trưởng trường
Văn Học Saigon.
Động viên Kháo 25 SQTB Thủ Đức và hiện là Sĩ quan phục vụ trong
ngành Quân Nhu Quân lực Việt Nam Công Hòa.
Chủ trương tạp chí ' Hiện Đại'.
Đã có thơ đăng trên tạp chi:' Văn Học', Tiếng Nói, Văn, Đất Nước,
Nghiên cứu văn học, Quần Chúng...
Đã xuất bản:
Thơ Nguyên Sa' ( 1959),' Gõ đầu trẻ, ( 1959),' Quan điểm Văn học và Triết học',
(1960),'Mây bay đi ( truyện 1967),' Một Bông hồng cho văn nghệ '( 1967...
Nguyên Sa thường được mô tả như một Xuân Diệu của thi ca hôm nay. Nhà thơ của yêu dấu và nhớ nhung. Nhà thơ tiêu biểu cho tiếng nói tình yêu bây giờ trên một tình tự đam mê vỡ lở, bất trắc. Ông cũng là một trong số thi nhân thuộc lơp tiền phong của thơ Tự Do. Thơ ông không giản dị như một nghĩa tinh yêu, thông thường- nên người ta nhìn thơ ông theo nhiều khuôn dáng, kich thước. Số người' chê' Nguyên Sa cũng nhiều mà ái mộ ông cũng không ít. Thơ ông phức tạp, đa diện như tình yêu hôm nay phức tạp, đa diện. Có một điều hiển nhiên ai cũng nhận thấy, dù là người không' chịu' thơ Nguyên Sa từ hơn 10 năm qua, tính từ bài thơ thứ nhất của ông xuất hiện trên thi đàn, thơ ông đã trở thành một đề tài sôi nổi và người ta tìm đến thơ ông, thưởng thức với một thành kiến sẵn có, hoặc một say mê đương nhiên. Thương thì một số người yêu thơ Nguyên Sa cũng như Thanh Tâm Tuyền ở một trình độ cao, ở một đẳng cấp có đủ sự thanh nhàn. Thơ Nguyên Sa phải nói là mới. Tiếng nói mới vang tỏa từ một thời đại mới. Ông là một thi sĩ đã tách biệt với tiền chiến một cách dứt khoát. Ông mang đầy đủ sự khát khao trong khuôn mặt tình ái bây giờ. Người ta vẫn bảo Nguyên Sa rất gần với Jacques Prévert của Pháp.
Nói cho đúng hơn, ông là một Jacques Prévert VN, nhưng thơ ông không có những cảm hứng và hình ảnh dễ dãi như tác giả Barbara ( J. Prévert).
Nếu đọc thơ Nguyên Sa cùng một cảm quan, đồng điệu với tình ý trong thơ ông; người ta sẽ dễ dàng bi thơ ông quyến rũ và sẽ say sưa với tiếng thơ ấy một cách thành thực:
Nắng Saigon anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu em màu áo ấy vô cùng
Thơ của anh vẫn còn nguyên lụa trắng
Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn
Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh
Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung
Gặp một bữa, anh đã mừng một bũa
Gặp hai hôm, thành nhị hỉ của tâm hồn
Thơ học trò anh chất lại thành non
Và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.
( Áo lụa Hà Đông- thơ Nguyên Sa ).
Thật là những tình ý vừa dí dỏm vừa nên thơ và lạ. Chiếc áo lụa Hà Đông là một hình ảnh quá thông thường, song người ta quên mất vẻ mặt tươi của nó từ bao nhiêu năm. Thơ Nguyên Sa thật đã khéo léo, làm cho mầu áo lụa Hà Đông trở nên thơ mộng và tươi mát như mầu trời xanh. Để bắt đầu từ đó, khởi sự một thương yêu, một lần tâm hồn mở cửa để trở lại và phục hồi nỗi yêu dấu từ ngàn xưa' nhất nhật bất kiến như tam thu hề'.
Bằng một nguồn thi hứng mới mẻ, một diễn tả tự nhiên- Nguyên Sa đã phong tỏa lên tình yêu thứ men nồng cửa rượu, khiến giọng thơ trong tựa hồ ngọn suối reo và tươi mát như giàn hoa lý.
Đọc thơ Nguyên Sa, ta còn tìm ra vô số những ý tứ mới lạ, bất ngờ mà cái mới lạ, lại bắt đầu bằng một hình ảnh thông thường, quen thuộc như' Trời mưa thang sáu':
Tháng sáu trời mưa em có nghe mưa xuống?
Trời không mưa em có lạy trời mưa?
Anh vẫn cầu mưa phong tỏa đường về
Anh vẫn xin mưa mặc dầu mây ảm đạm
Da em trắng anh không cần ánh sáng
Tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân
Trên cuộc đời sẽ chẳng có giai nhân
Vì anh gọi tên em là nhan sắc
Anh sẽ vuốt tóc em cho đêm khuya tròn giấc
Anh sẽ nâng tay em cho ngọc sát vào môi
Anh sẽ nói thầm như gió thoảng trên vai
Anh sẽ nhớ suốt đời mưa tháng sáu.
( Tháng sáu trời mưa).
Thật là tha thiết trong mơ mộng. Thứ thơ mộng ẩn giấu trong những hình ảnh tầm thường, nhưng người ta không khám phá ra nó. Nguyên Sa tìm ra và đặt nó vào khoảng nồng độ của cảm giác thơ, nên vừa binh dị, vừa thơ- để kết tụ thành một bản tuyên dương nhan sắc, tình yêu. Thứ tình yêu ấy, tình yêu của hôm nay tự nó đã có ý nghĩa như một bất trắc - nên khi yêu đã chấp nhận cô đơn, vì cô đơn ũng là thứ ma túy của tình ái:
Có phải em về đêm nay
Trên con đương thời gian trắc trở
Để lòng anh đèn khuya cửa ngỏ
Ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh
Như lá vàng về vơi lá cây xanh
Trong những chiều gió đưa về cuội.
( Có phải Em về đêm nay ).
Không thể ai chối từ được yêu thương- nhưng có em trong hồn mà câm tay em trong tay, lòng vẫn nứt rạn. Tình yêu trong thơ Nguyên Sa mở tầm tay từ đó.
Phần triết học đời sống cao nhất của thời đại bây giờ là tình yêu. Nhưng trong yêu thương vẫn còn dấu tích đổ vỡ. Vì ' Anh' hay' Em' vẫn cảm thấy sấu xa rằng mình chỉ là khách bộ hành đơn độc mà cuộc đời chỉ là những chuỗi dài phiêu lãng... Nguyên Sa thường đưa người đọc vào một thế giới hỗn tạp của yêu thương, pha trộn nỗi cô đơn và sự bất hạnh của kiếp người:
Tôi mang trên vai tuổi hai mươi
Cuộc đời vẫn trắng hai tay
Như đời hai mươi thế kỷ
Đời để quanh tôi những lao tù cơ cực
Tuổi hai mươi chưa đến đã bay vèo
Hai mươi năm
Thỉnh thoảng có một người yêu
Chạy qua cuộc đời
Như gió thổi
Nhưng rồi đêm khuya
Nằm nhìn những đầu tay đưa vào tình ái
Nhìn hai tay mười ngón
Tôi mới biết rằng
Cuộc đời vẫn trắng hai tay.
Trong cái thú yêu thương và hương nồng của tình ái, Nguyên Sa vẫn thường day dứt trước nông nỗi của thời dại. Yêu đối với ông khơi từ đáy tâm hồn và luyện qua đường gân mắt, thấu vào tận con tim, mạch máu- nhưng trí óc thì vẫn dằng co trong cơn bỏng cháy của suy tư và đẩy nhà thơ vào một khung trời bàng hoàng những mệt mỏi, chán chường:
Tuổi ba mươi và bấy nhiêu cũng thừa đau khổ
Nhân danh bàn tay một trái nghi ngờ
Nhân danh vầng trán quê hương lo ngại
Nhân danh mái tóc chờ mưa sa mạc
Như vật lễ trong ngày, lại quả gởi về
Chẳng còn nguyên vẹn anh trả lại em những mùa lá thu vàng
những ước mơ những lâu đài kỷ niệm
Anh trả lại em cả cặp môi trên gò má lá thư xanh và
ngón tay tuổi trẻ
Vỗ mái thuyền xô động với nếp trán phế binh với đôi mắt
dã tràng mệt mỏi anh đi vào ngôi nhà nguyện tâm hồn.
( Bài Giã biệt ).
Huyền Tôn say đắm Dương Quý Phi, Napoléon đắm đuồi một Désirée và đẹp hơn ngàn lần nữa là Hạng Võ và Ngu Cơ... Lịch sử đi như dòng nước và soi mòn kim cổ nhưng ái tình thì còn lại.
Ái tình lại theo thời gian mà thay đổi sắc màu. Ái tình bây giờ là những nụ hôn rướm máu, sự giã từ vô duyên, có khi đứng bên nhau mà vẫn một trời xa lạ, và khi bắt đấu yêu như đã sửa soạn giã từ:
Người về đêm nay hay đêm mai
Người sắp đi chưa hay đi rồi
Muôn vì hành tinh run nhè nhẹ
Hay ly rươu tàn run trên môi
( .........)
Sao người không là một con đường
Sao tôi không là một ga nhỏ
Mà cũng có những giờ gặp gỡ
Cũng có những giờ chia tan ?
Trong thơ yêu, Nguyên Sa thành công lớn - vì ông nói lên hết sự thực lòng mình, nói một cách say mê nữa. Một con người tự nó đã mang theo thân phận những yếu tính tự do. Vậy thì tình yêu cũng phải mang bản chất tự do của nó, tự do để thành thực nhìn ngắm nhau, nếu yêu nhau hay có xa nhau- cũng chỉ để thực hiện khả năng tự do kia cũa mỗi con người. Nguyên Sa bám víu những khả năng tự do ấy để rồi mới yêu, mới nhớ. Từ xao xuyến trong phút yêu thương hay khắc khoải khi xa vắng, hoặc đơn côi trong khoảng giã từ - Nguyên Sa nói lên bằng thơ một cách trung thực rất người, nghĩa là mang đủ vóc dáng tâm thể năm trong tầm vóc trái tim. Cứ một ưu điểm ấy đủ đặt ông vào hàng những nhà thơ giá trị lớn.
Cũng trong thế giới yêu đương, Nguyên Sa còn định nghĩa cả thái độ sống với con mắt nhìn cuộc đời :
...Tại sao đời cho tôi 20 tuổi
Để tôi ngồi đây
Thở khói thuốc hơi tròn
Nhìn mưa bay
Nhớ những người yêu cũ
Và nghĩ thầm:
Đời là một têếng cười to .
( Hai mươi) .
Đơn côi như con thuyền lênh đênh giữa lòng thế kỷ đầy những biến động, con người đã phải chịu sự phá sản ngay trong tâm hồn và bất an trong một vũ trụ mà Thượng Đế đang bị thoá mạ, bi mưu đoạt quyền cao. Từ sự thế đó, nó chi còn lại một ' tình ái'. Thơ Nguyên Sa mang dấu tích kia và tình ái trong thơ ông không là thứ tình ái Bôn-xê-vích, cũng không là thứ tình ái Tự lực văn đoàn. Một ái tình của toan tính vội vã, của những nếp nhăn trên vầng trán suy tư, của cả một trời xa lạ- mà trong đó đôi lứa đang ngụp lặn trong nỗi chán chường và đuổi theo nhau trên đường mòn thế kỷ. Một thứ yêu đương không hò hẹn hôm mai. Một thứ tình yêu để cho những chân tình đột khởi, trong một giờ, một ngày - mà không cần tạo nền mầu hồng cho trăm năm Tình Ái !.
Thơ tình yêu của Nguyên Sa đã thể hiện rõ rệt tâm trạng chung con người thời hậu chiến. Trên thế giới này đầy bao trùm bất hạnh ! Chiến tranh để lại những gì, nếu không là thảm trạng ghê tởm bày ra trước mắt chúng ta . Kết quả là gì - nó đã dìm thân phận con người dưới những âm thừa của sự đổ vỡ. Yêu để khám phá ra nhau và tìm thấy nhau trong đổ vỡ kia !
Điệu Valse hay bước đi của điệu Tango không đủ ma lực hấp dẫn lòng khát vọng của con người bây giờ. Cái thú trong yêu thương như là tiếng rạn vỡ, bước đi của nó nhu nụ hôn, mang theo cơn cuồng loạn của một điệu Rock and Roll hya một điệu Twist. Có thét lên, có cử động mạnh cho da thịt rung chuyển, thì mới thỏa mãn khát vọng bừng cháy trong lòng người. Tiếng thơ Nguyên Sa không là điệu Twist- nhưng nó là tiếng lèn clarinette của chàng da đen vang lên, từ đáy đam mê cuồng loạn, từ cuống phổi cháy bỏng trong khúc nhạc Jazz. Thể chất thơ như vậy thì không thề đòi hỏi ở Nguyên Sa những qui luật cho Thơ được !
Khi chủ âm đã mất ngôi vị chúa tể trong thể nhạc bây giờ, thì khuôn sáo cũng không có lý do tồn tại trong tình yêu- vì nó thừa, lại vô vị, thêm nữa giả tạo - chỉ làm cạn nguồn rung động của thi nhân.
Nguyên Sa không những chỉ đưa thi hứng vào tình yêu qua một khóe mắt, mà còn vô vàn những khóe mắt trôi nổi trên giòng thơ của ông. Từ vô vàn những khóe mắt kia, nhà thơ như có tham vọng tìm bản chất con người, để khám phá ra tinh lực sự sống - và yêu như là để thõa mãn cơn tù túng cô đơn, rồi phá tan gông cùm của thời hiện tại từng xích vào chân, vào cổ con người trong những tin yêu vỡ vụn.
Trong Thơ Hôm Nay, Nguyên Sa tạo riêng cho ông một thế giới biệt lập. Một thế giới của yêu đương, qua thanh âm, qua đam mê thành khẩn, và rạn vỡ... Ông là một nhà thơ tự do thật sự - và ông đã tránh được những cái gọi là ' lập dị'. Tuy phá bỏ âm vận thơ cũ, nhưng thơ ông vẫn có âm điệu rất riêng. Ông dùng hình ảnh mới- và những hình ảnh mới ấy rất thích hợp với tình ý giãi bầy, lại thể hiện trung thực nhiều hình tượng của đời sống.
Lẽ dĩ nhiên, thơ Nguyên Sa không có sự gò bó- thơ ông hồn nhiên như tiếng nói. Tiếng nói của một tâm hồn thật-người, giữa những thô bạo vữa nát của thời đại. Tiếng thơ ông như tiếng nói của loài khao khát kỳ hoa dị thảo lạ lùng, lại bất thường,. và cung bậc luôn luôn đổi thay- để bắt được nhịp thanh âm đời sống trong bản hòa tấu cuộc sống hôm nay. Ta hãy cùng nghe tiếng nói thơ thật tự nhiên, và truyền cảm :
Hãy đưa tôi ra sông
Để tôi nhìn thấy rõ
Tôi nhìn dòng nước chẩy
Tôi nhìn tôi bơ vơ
Nhìn bờ sông tìm bờ sông bên kia
Khi lòng sông gặp biển
Hãy đưa tôi ra bờ sông
Để tôi nhìn hò hẹn
Rồi tôi rủ tôi quên
Quên thời gian trôi
Bằng bước chân giòng sông
Không để lại gì trên cát .
( Hãy đua tôi ra bờ sông ).
Nguyên Sa là nhà thơ chịu ảnh hưởng sâu đậm thi ca tây phương, nhưng đã đồng hóa một cách đáng yêu trong giao cảm, thi hứng của nhà thơ. Ông lại có nhiều khám phá rất mới, tạo được những nét dung dị, qua sự lựa chọn, từ hình ảnh đến ngôn từ . Với Nguyên Sa, có thể kết luận: ".. phàm một nhà thơ có đủ tầm vóc thơ, thì sáng tác của họ- là thơ Đường, thơ Mới, Lục bát hoặc thơ Tự Do đều có sự truyền cảm mạnh mẽ, kích động sâu xa - vì thể thơ chỉ là phương tiện chuyên chở chất thơ mà thôi".
Tuy nhiên, Nguyên Sa sáng tác nhiều khúc thơ, mà người ta cho rằng: ông đã đi quá xa con đường"Thơ Tự Do Bây Giờ" , chỉ riêng về mặt ý tưởng- chẳng hạn :
Năm ngón tay
Trên bàn tay năm ngón
Có ngòn dài ngón ngắn
Có ngón chỉ đương đi
Có ngón tay đeo nhẫn
Ngón tay tô mặt
(...........)
Ngón tay lái xe
Ngón tay thử' coóc-xê'
Ngón tay cài khuy áo
Em còn ngón tay nào
Để giữ lấy tay anh ?
( 5 ngón tay ).
Bài thơ " Năm ngón tay" đã gây một dư luận không tốt về thơ Nguyên Sa. Tuy rằng quan niệm ấy xuất xứ từ sự nông cạn hẹp hòi lại thiếu tâm hồn nghệ thuật. Nhiều người lên án thơ Nguyên Sa là hiện sinh, bất chất đạo lý. Thực ra, Nguyên Sa chỉ có một nhược điểm trong bài thơ' Năm ngón tay" : ông sử dụng vài hình ảnh kém mỹ quan. Tiếng" coóc xê" là một tỉ dụ. Ngôn từ ấy sẽ làm mất' thi phong' , nếu đưa vào thơ, nó làm hạ giá một" Áo lụa Hà Đông"- bài thơ " Năm ngón tay" tuy có ý mới, lại diễn đạtthô thiển trở thành tầm thơờng. Ngoài điều này, thì không thể lên án bất ưứ một bài thơ nào của Nguyên Sa, hoặc kết tội thơ ông mang chất hiện sinh đọa đầy - bởi lẽ cuộc sống là như vậy, và nhà thơ chỉ nói lên sự thực như vậy là không che giấu. Nếu che giấu thì còn gì là giá trị của nghệ thuật, vì nghệ thuật vốn mang tính chân thiện mỹ.
Khi thời đại đã ungt hối đến xương tủy mà còn phủ lên nó bằng lụa là gấm vóc - thì nhà thơ sẽ không còn gì xứng đáng ở ngôi vị nhân chứng thời đại. Ngược lại, sự ung thối kia được nói lên bằng thơ, thì phải biểu lộ cái xấu qua cái đẹp, nghĩa lả tục mà thanh , như vậy mới gọi là đạt được giá trị cao của nghệ thuật. Không ai có thể hàm hồ mà cho Hồ Xuân Hương tục tĩu- vì cái tục kia đã được nhà thơ thanh sắc hóa. Còn nếu chỉ nói lên một cách trần trụi thì sẽ trở thành một thứ hiện thực thấp kém. Thơ Nguyên Sa mắc phải một vài nhược điểm như vậy.
Nếu bảo Nguyên Sa là chạy theo hiện sinh tây phương, lại bất chấp đạo lý - thì tưực ra Nguyên Sa không phải thế và không thể là một nhà thơ có khuynh hướng như vậy. nếu có, thì Nguyên Sa chỉ là Nguyên Sa trong phần tư tưởng đã chịu ảnh hưởng từ Marcel Gabriel, André Gide, Jacques Perry, Albert Camus- qua lối diễn đạt thơ rất gần Jacques Prévert mà thôi. Còn, nếu nói về sự phi-đạo-lý ( amoral) có hay không có trong thơ, thì vấn đề lại khác, và noi ra lại rất dài dòng! Có một điều thi ai cũng phải thấy một cách đơn giản- bản thể cao nhất của nghệ thuật lại thường vượt trên đạo lý, nên trong thơ đã hàm dưỡng chất phi-đạo-lý rồi ! Từ phi-đạo-lý ở sáng tác để trở thành đạo lý- khi kẻ khác nhìn vào rồi quán định nội dung của nó theo tâm nhìn mỗi người. Còn, nếu bảo văn chương phải là" dĩ văn tải đạo", thì ai cũng dễ dàng đồng ý như vậy. Nhưng nhớ là không phải" tải đạo" theo kiểu" tải củi"; một bài thơ không thể là bài kinh cầu hoặc một bài giảng về luân lý giảng cho học trò nghe.
Một nhà thơ giá trị có thể khởi xướng lên một đạo lý mới thì đạo lý ấy được phát hiện qua một hình ảnh thông thường, một ngôn từ thông dụng hoặc có khi nằm ngay trong sự truy hoan, hành lạc. Nguyên Sa luôn là một nhà thơ có khuôn dáng yêu đương thơ và mộng. Thơ ông đã thể hiện tâm trạng thời đại của ông. Thơ ông cũng không phải và cũng không thể là hiện sinh kiểu Jean-Paul Sartre. Ông là nhà thơ của một dòng hiện sinh trong hiện hữu Nguyên Sa im lìm mà khuấy động yêu đương trong rạn vỡ. Dòng hiện sinh ấy mang theo tình yêu như một tình cờ.
Tuy nhiên, Nguyên Sa hơi có vẻ bỡn cợt với thi ca. Mọi sự bỡn cợt không phải là thách đố, có lẽ do sự' tếu" để mua vui cho chính ông và để thay đổi món khai vị cho gíác quan thơ . Bài Hịch là một thì dụ:
Ta truyền,
Để cuộc nghênh đón ta thêm phần trọng thể
Những người con gái ngây thơ hãy trở về nhà đi
Ngủ, sau khi đánh răng, rửa mặt, chải đầu ,
Và đọc kinh cầu nguyện ban đêm.."
( Hịch).
Giá trị của Nghệ Thuật không cho phép một nhà thơ đưa thi ca vào sự đùa cợt cuộc đời, với sự tầm htường qua hình ảnh, ngôn từ tầm thường. Bài Hịch trên đây, Nguyên Sa như muốn thổ lộ một phần nào những ý nghĩ của ông về sự sống, thái độ cần phải có, của một người tự hào mình có khả năng - và rung động cách sáng suốt,nhìn thẳng vào đời sống- nhưng lại không thể nhìn sự thể ấy cách bỡn cợt- nếu cần bỡn cợt thì nên đưa vào thơ trào phúng.
Tuy có tứ thơ hay, nhưng lại đặt vào những hình ảnh và ngôn từ quá tầm thường - nên che lấp cả giá trị của thơ Nguyên Sa, vốn khởi phát từ một tâm hồn thật thơ, nhạy cảm.
Tuy vậy, rất ít gặp trong thơ Nguyên Sa nhược điểm trên - trừ một hai bài ( đan cử trên kia) . Tổng quát, thì ông là một nhà thơ đạt được giá trị của nghệ thuật thơ.
Gần đây, chúng tôi tìm đọc đơợc một bài thơ ' Xin lỗi Quá khứ' của Nguyên Sa. Đọc xong, cảm giác đầu tiên là thích thú. Sự thích thú kia được nhìn ngắm một nhà thơ đã có sự nghiệp thơ - một tứ thơ nhung gấm trên Thiên Đường Tình Ái Thơ- bỗng dưng thoát thân đứng dậy phản tỉnh để nhìn ngắm thân thế mình, đồng bào, bạn hữu mình- Nguyên Sa viết :
Bây giờ khẩu Garant ta mang trên vai
Bây giờ khẩu trung liên Bar ta mang trên vai
Ta mới biết rằng những thỏi sắt đó nặng như thế
Ta mới biết rằng trong cuộc đời dạy học
ta là một thắng dốt nát
Trong mười mấy năm ta làm bao nhiêu tội lỗi
Trong mười mấy năm ta không nói cho học trò ta biết
Những thỏi sắt đó nặng như thế
Ta không nói cho vợ con bạn bè đồng bào ta biết
Anh em ta và quê hương ta
Vác những thỏi sắt nặng như thế
Từ bao năm nay
(..........)
Hãy tha thứ cho ta
Những anh em đã chết
Những anh em chết ở bờ ở bụi
Những anh em chết ở đồn vắng chết trong rừng sâu
Những anh em chết khi đi hành quân
Những anh em chết khi đi phục kích
Những anh em mặt đẹp như hoa
Một ngàn lần hơn ta
Cũng chết
(........)
Những anh em đáng sống một ngàn lần hơn ta
đã chết
đang chết
và còn chết
hãy tha thứ cho ta .
( Trích xin lỗi về những nhầm lẫn Dĩ vãng ).
Đây là một bài tiêu biểu cho giai đoạn thoát xác trong thơ Nguyên Sa.
Những chân dung trung thực của hồn thơ ông vẫn là một .
Thơ Nguyên Sa ở thi tập này đã tái bản tới lần thứ ba và tự nó đã mang thực chất thơ- trong một nội dung mới của tâm hồn thơ, cộng thêm vẻ lạ hình thức, qua cách cấu tạo thơ và ngôn từ Thơ. Ông lại đáng được ngợi ca, vì đã đóng góp không nhỏ Sự hình thành của Thơ Tự Do. Giả thiết, nếu vắng một Nguyên Sa hôm nay, thì diễn đàn thơ Tự Do đã bỏ lại một khoảng trống. Và nếu thiếu một thơ Nguyên Sa- thi ca hôm nay sẽ mất đi rất nhiều những hương sắc tươi trẻ, sâu đậm. []CTD.
( trích - Văn học hiện đại / Thi Ca & Thi Nhân / Cao Thế Dung ( tr. 85- 97).
( Nxb Quần Chúng, Saigon 1969).
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ