CUỘC PHỎNG VẤN VĂN NGHỆ CỦA BÁCH KHOA / NGUIỄN NGU Í phụ trách.
Lời dẫn:
Thập niên 60 ( thế kỷ XX), tạp chí Bách Khoa tổ chức cuộc phỏng vấn các nhà thơ, nhà viết truyện, nhà soạn kịch ( đợt 2 : 1962 ). Riêng nhà văn khoảng 100 người được hỏi, thì 70 trả lời. ( trong số này , có hai bạn: một bạn ở miền Trung và một bạn ở hải ngoại trả lời riêng cho người phỏng vấn, bài phải để lại- Nguiễn- Ngu -Í không nêu danh tính. ).
Theo người phỏng vấn - hạng viết trước Cách mạng 45 : 26 người - sau CM 45 : 23 - và từ hiệp định Genève là 21.
Về quan niệm sáng tác, Nguiễn Ngu Í cho biết, có bạn không ý thức được tại sao cầm bút, có bạn vì không khí gia đình, hoặc xung quanh thúc đầy, thành" lây bệnh" viết, có bạn háo danh khi còn trẻ, có bạn cám cảnh xã hội bất công, dùng ngòi bút là phương tiện gỉai thoát.
Còn viết văn cho mình hay người - đa số tự nhận cho bản thân trước. Còn cho bây giờ hay mai sau thì một số trả lời: chưa được đặt ra.
Đưa ra kết luận, Nguiễn- Ngu- Í dẫn lời một nhà văn hiện đại Pháp- Bernard Pingaud - :
"... nhưng sâu xa hơn, người ta viết để tự vệ. Kẻ thù mà ta chiến đấu, ta không bao giờ tóm được , nó là chiếc bóng, một khoảng trống, một chỗ vắng mặt. Chữ viết không nhằm lấp chỗ trống vắng kia, mà chỉ mong phát giác được đâu là chỗ trống vắng ấy..." .
Người phụ trách nhấn mạnh:
"...Nhà văn nước ta viết vì một sự ngạc nhiên nào đó và để thỏa mãn cái " tôi" hơn là vỉ xã hội. Trường hợp một Lỗ Tấn ở Tàu bỏ con dao giải phẫu y khoa, một Nhất Linh ...vứt cây cọ hội hoạ để nâng lấy bút(...) là trừong hợp ít thấy ở giới văn nghệ nước ta ...(.....) Nhờ bẩy chục nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch đã vui lòng cho biết quan niệm và kinh nghiệm của mình mà giờ chúng ta có thể nói:
" -muốn xây dựng một công trình văn nghệ có giá trị, người cầm bút trước hết phải chân thành, thiết-tha, rồi hiểu hoàn cảnh mình định gợi, thấu rõ nhân vật mình tạo, sao cho chất Sống của cuộc đời linh động bàng bạc trong tác phẩm: sau đó, diễn tả cho trung thực, và tránh việc" làm văn chương" (1).
5 câu hỏi phỏng vấn được đặt ra:
I.- Sáng tác để làm gì? Để cho mình hay cho thiên hạ ? Để cho bây giờ hay mai sau ?
II.- Sáng tác theo một đường lối nhất định nào hay là tùy hứng ?
III.- Những gì đã xảy ra trong tâm trí và trên trang giấy của tác giả từ khi tac phẩm bắt đầu thai nghén cho đến lúc nó thành hình?
V.- Những kinh nghiệm sống và sáng tác thích nhất.
- Có những nhà văn tầm- tầm - như tôi chẳng hạn - khởi viết từ hiệp định Geneve 54- thì mau mắn trả lời , gửi ảnh và thư qua bưu điện - đây là cơ hội tốt - trưng "mặt" lẫn " lời" trên báo . Còn nhà văn tiền chiến, tầm cỡ, như chủ soái Tự Lục văn đoàn ( Nhất Linh), Hàn Thuyên ( Nguyễn Đức Quỳnh ), Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Vi Huyền Đắc... ( hình như ) Nguiễn Ngu Í phải đôi, ba lần đến tư thất, hẹn được ngày, giờ để phỏng vấn, chụp ảnh, ghi lời phỏng vấn tại chỗ : đem về viết lại, đưa đọc trước, được phép, đăng báo sau cùng .
Qua" Tổng kết cuộc phỏng vấn quan niệm sáng tác các nhà văn "(1) in chân dung : Vũ Hoàng Chương, Vi Huyền Đắc, Xuân Việt, Minh Đức- Hoài Trinh , Triều Đẩu, Nguyên Sa ( Duy Thanh phác họa), Hoàng Anh Tuấn, Lan Đình, Phú- Đức*, Đông Xuyên, Hoàng- Khanh,Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn- Vĩ, ( đúng phải là VỸ*) , Linh- Bảo, Nhất-Linh, Thế Phong, Võ Hồng, Bàng Bá Lân, Ái Lan, Vũ Hạnh, Thu Vân ( Nhất Linh in tác phẩm đầu tiên trên Văn Hóa Ngày Nay), Hà-Thượng-Nhân, Mặc-Thu, Lưu-Nghi, Nguyễn-Văn-Hầu, Bàng-Bá-Lân, Hư-Chu, Ái-Lan, Vũ-Hạnh, Vũ-Hân, Thế-Viên, Thạch- Hà ( anh ruột cùa Linh Bảo & Minh Đức- Hoài Trinh ) , Anh-Tuyến, Doãn-Quốc Sĩ ( đúng ra phải là SỸ- Duy Thanh phác họa ), Nguyễn-Mạnh-Côn, Lê-Văn-Siêu, Nhật-Tiến, Phan-Du, Hợp-Phố ( em gái của Thiên Giang *), Đỗ-Tấn, Mai-Trung- Tĩnh, Vương- Đức -Lệ, Nguiễn- Ngu- Í ...v.v...
( tiếc thay, vào giờ chót, vì lý do kĩ thuật, chúng tôi không thể đăng hết ảnh các nhà văn, đành để số sau đăng tiếp. Xin các bạn đọc và bạn nhà văn cảm phiền - L.T.S. ) .
" THANGPHAIGIO 'S BLOG đăng lại 2 bài :
1) - Thằng Phải Gió trả lời phỏng vấn ( qua thư gửi bưu diện ).
2) - Nguiễn Ngu Í phỏng vấn nhà văn Nguyễn Mạnh Côn tại nhà trong vòng 2 tiếng đồng hồ ...
( liên hệ chuyện bênh Hoàng Trọng Miên" đạo văn" một tác giả miền Bắc 1956) - NMC. hung hãn tấn công lúc đầu - sau, từ từ nhũn mềm tạ lỗi T.P. ).
Nguiễn -Ngu- Í thực hiện cuộc phỏng vấn văn chương " không tiền khóang hậu" - đâu đó khoảng bẩy chục vị trả lời- từ nhà văn tiền chiến vô Nam trước và sau 1954 - tới các nhà văn đương thời . Quả là, ông đã cung cấp nhiều tư liệu quí giá về một " thời đoạn lịch sử ở miền Nam : 1954-1975"- tất nhiên , nó sẽ giúp ích không nhỏ cho những ai muốn nghiên cứu văn học hậu chiến hậu bán thế kỷ XX. []
----
(1) Tạp chí Bách khoa , chủ nhiệm: Lê Ngộ Châu ( tr.163-176)
* cụm từ B.T.
Thếphong
(I ) .- THẾ-PHONG
Tên thật: Đỗ-Mạnh-Cường ( đúng : Tường ). Sanh năm 1930 ( 1932) ở Nghĩa Lộ
( Việt Bắc).
1952: cùng Hồ-Nam, Huy-Sơn, Huyền-Giang chủ trương tờ" Quê hương" 1954: phóng viên các báo" Thân dân"," Dân chủ", cọng tác với các báo:" Đời mới, Nguồn sống mới, Thời đại, Việt chính". Xuất bản tác phẩm đầu tay" Tình sơn nữ" ( truyện dài) và" Đợi ngày chiến thắng"; rồi" Cô gái Nghĩa -lộ" .
1956: xuất bản Muồn hiểu chính trị.- Sinh hoạt chính trị Nhật bản.- Làm lại cuộc đời ( truyện ngắn).
Viết xong bộ" Lược sử văn nghệ Việt-nam", gồm 5 cuốn ( 4 tập), nhưng chỉ mới xuất bản được quyển thứ IV; tức là quyển" Nhà văn Hậu chiến ( 1959).
Hiện cộng tác với tạp chí " Văn- hóa Á-châu".
I và II .- Cho đến hôm nay, quan-niệm văn-nghệ của tôi nhận định về một tác phẩm ( truyện ngắn, truyện dài...) vẫn nằm trong tiền-đề nguyên -tác" ghi lại hình tượng thời-đại mà chúng ta đang sống và dựa vào đấy có phẩn" hướng thựong" ( réalisme orienté) - Bertrand Russell nói khác đi- là hướng dẫn thế-kỷ tiến bộ. Cùng một nghĩa.
Tôi thích Khái Hưng viết truyện ngắn, chẳng hạn như" Đợi chờ", tôi thích Tô Hoài qua" Xóm giếng ngày xưa", thích Nguyên Hồng" Những chiều đông xám", Văn An* qua" Bến Cũ", Phạm Thái* qua" Truyện 5 người thanh niên" ( truyện dài), Nguyễn-Thị-Vinh qua" Đồng 5 xu", Đình Quang**
" Bàn tay", Nguyễn -Hoài- Văn qua " Chiếc mũ lá"...
Nói như thế, tôi không những chỉ thích một truyện hay của một tác-giả này, mà tôi còn thích các tác-giả khác diễn tả hình tượng cuộc đời trong một khuynh hướng " reálisme orienté"(1). Tôi không cho rằng đọc truyện, ta phải tìm tác- giả đứng trong nhóm nào, giới hạn văn-nghệ nào ? ( démarcation littéraire) , quen hay không quen... nhưng điều ấy không quan-hệ. Bới lẽ lịch-sử một quốc-gia cũng như lịch-sử văn-nghệ bao giờ cũng diễn tiến,tiếp nối không ngừng. Không ai có thể cắt xén, đánh giá ( cả hai) tốt đẹp khi mà thực chất giá- trị cả hai chưa có thời gian lắng đọng xét lại, hoặc thái-độ của người xét bảng giá-trị có giá-trị không ?
Tôi đọc " Đởi chờ" của Khái Hưng khi cuộc đời thôi ám khói muốn có phút mơ mộng; đọc Tô Hoài qua
" Xóm giếng ngày xưa" để hiểu rõ người bạn nông dân của ta mức sống ra sao ? ( tinh- thần, vật-chất), đọc Nguyên Hồng qua" Những ngày đông xám" để nhận một giá- trị nhân-bản cao độ và vật nào sinh ra trong trời đất đếu có ích lợi, nếu biết sử-dụng...
III và IV.- Vii thế, nên tôi không tin rằng Maxime Gorki là cộng -sản chuyên -nghiệp như đa số bạn bè mặc cảm cho rằng, hể đứng về phe nào ( cứ theo chiến-thuật, chiến-lược) vội kết-luận bằng nguyên-tắc. Tôi cho rằng Maxime Gorki của thế kỷ giao thời đây đi tìm lẽ sống của con người bị thống-trị.
Trong" Truyện một mùa thu" ( Conte d'un automne) hoặc " Grand père Arkhip et Lenka" (2), " Dans le steppe" (3) là những truyện đầy hình-tượng cặn bã của thân phận con người sống dưới thời phong-kiến Nga-hoàng.
Nói chung, tôi vẫn có thể thích John Steinbeck khi đọc" Un American à Paris et a New York" (4) ( truyện ngắn) nói nhiều về tự-sự bước đướng đầu tiên dằn vặt phải tranh đấu với đời. Albert Camus qua " L'Hôte" ( L'exil et le Royaume) (5) nói lên sự đấu tranh của người dân Bắc Phi chống người da trắng đi thống trị.
Những truyện ngắn ( nói riêng) mang tính chất bị thống trị, dẫu là thứ thống trị nào? hòa hợp với sự tranh-đấy vong tồn qua một nghệ- thuật viết già dặn,cảm động - tôi tưởng đó là những truyện của muôn đời còn được nhắc đến.
Bởi rằng văn-nghệ là một gạch- nối ( trait d'union) cho con đường" dẫn lộ nhân sinh cua các thê kỷ sau và trước "[]
THẾ-PHONG .
------
(1) Chúng tôi tạm dịch: " tả chân được hướng dẫn".
(2) "Ông nội Arkhip và Lenka."
(3) " Trong cánh đồng hoang."
(4) "Một người Mỹ ở Ba-lê và Nữu-ước."
" Người khách trọ" ( Sự lưu đày vỉ vướng quốc).
( tất cả lời chú trong bài là của Nguiễn-Ngu-Í.)
* xem " Lược sử văn nghệ Việtnam / Nhà văn hậu chiến : 1950-1956 / Thế Phong
( Đại nam văn hiến xuât bản, Saigon 1959).( tập III)
** xem " Lược sử văn nghệ Việtnam / Nhà văn kháng chiến chủ lực : 1945-1950 / Thế Phong
( tập II ) - Đại Nam văn hiến xuất bản, Saigon 1960.
( II ) NGUYỄN MẠNH CÔN
Sinh ngày 7 tháng 4 năm canh thân ( 15-3-1920 ).
Từng làm chủ nhà in ( 1940), sĩ quan trong một bô Tham mưu lục quân Nhật ( 1942-43), đại biều đoàn thể ( Cách mạng hải ngoại) trong Quốc hội 1945, dân quân du kích xã ( 1948-49), nhân viên Võ bị Trần Quốc Tuấn 1949-50) , giáo sư tư thục ( 1953-54), thiếu úy ( đồng hoá) quân đội Việtnam cộng hoà , hiện thời giúp đài phát thanh quốc gia và viết báo.
Cộng tác với báo Đông Phap ( 1949), chủ bút tuần báo Thông tin ( 19440 quản li báo Thống nhất ( 1945). chủ nhiệm báo Phục quốc ( 1946), chủ nhiệm báo Tin tức ( 1954), sáng lập báo Chỉ đạo ( 1956) và làm chủ bút báo này một dạo ( 1961), chủ bút báo Văn hữu ( 1959).
Đã xuất bản : Việt Minh, ngươi đi đâu ? ( 1956) - Chống Mác xít ( 1957) - Đem tâm tình viết lịch sử ( 1`957, kí Nguyễn Kiên Trung ),- Kỳ Hoa Tử ( truyện 1960)- Truyện ba người lính nhảy dù lâm nạn ( 1960) v.v....
Đã qua đời sau 1975 trong trại cải tạo ở Xuyên Mộc* ( Bà Rịa)
---
* chú thích của BT.
Tôi ( Nguiễn- Ngu -Í ) đến thăm anh vì nghe tin anh bất thình linh bị đau. Trong căn phòng tối mờ mờ, hai con mắt tôi ở ngoài nắng mới vào chỉ nhìn thấy một ngọn lửa ở giữa đi- văng, và, phía sau ngọn lửa, một bóng người quáng chân mỏng, ngồi dựa lưng vào tường. Tôi bắt tay, hỏi thăm, hai bàn tay lành lạnh mà dâm dấp mồ hôi.
Có lẽ đoán được ý tôi muốn hỏi về bệnh trạng của anh,. anh nở một nụ cười mệt nhọc:
-Phải gió , anh ạ ! Bây giờ thì tất cả thường, nhưng surmenage kế đó đã lâu quá đến lúc quị thì kích thích tố tiêm vào người như nước lã.
Nghỉ một chút, anh nói tiếp:
-Bọn chúng mình... viết bài ăn tiền không cố gắng, không đúng hẹn, không đủ sống. Mà cố gắng... mấy hôm nay tôi tự nhiên thấy sợ tương lai, thấy mình già hẳn đi, mệt mỏi, lo lắng không biết sau này bất khả năng lao động rồi thì kiếm sống bằng cách nào !
Nghe anh nói mà buồn. Nhung tôi lại nhớ đến một vài ý kiến gần đây thường cho anh thuộc loại nhà văn được" chiêu đãi" , tôi muốn nhắc đến điều đó, nhưng nghĩ anh đương mệt, lại thôi. Nhưng sau cùng, chúng tôi cũng thông cảm được với nhau : chủ nhân thỏa thuận với tôi, bằng lòng trả lời bất cứ câu hỏi nào của tôi, về đời sống riêng cũng như lập trường văn nghệ. Theo ý anh, sự ao ước thứ nhất của con người cầm bút là được đi vào văn học sử, mà đã đi vào được văn học sử thì không còn cá nhân riêng tư, bới vì một thái độ quan trọng của một người còn thể do một hoàn cảnh tâm lý rất tế nhị tạo ra, nếu người đó giữ kín thì về sau không ai có thể biết và những nhà nghiên cứu văn học về sau sẽ hiểu lầm tất cả.
Vậy đồng ý không có chuyện giữ bí mật, kể cả về gia đình, về tiền bạc, về tính tốt cũng như về nết xấu của người ngồi đối diện với tôi. Trừ trường hợp bí mật liên hệ đến người khác, mà người đó muốn giữ. Tôi thấy cần phải mở cho anh một con đường rút lui, bằng cách hỏi thẳng anh:
-Ý kiến ám ảnh nói đây là ý kiến anh vẫn có từ lâu, hay chỉ mới có nó được ít bữa ?
-Xin anh yên tâm, nó không phải sản phẩm của bệnh hoạn đâu. Tôi có quan niệm này từ lâu rồi, nhưng không ai hỏi, thì không thể nói ra đấy thôi.
Tôi được biết như vậy rồi, bèn trở lại ngay vấn đề" kiếm sống" của anh. Tôi hỏi:
-Tôi nghe mấy anh em nói anh hiện thuộc vào hạng kiếm được nhiều tiền nhất. Hình như mỗi tháng 2, 3 chục ngàn, có phải không ?
Anh trả lời không nghĩ:
-Đâu có, anh ! Có lẽ mấy anh bạn tôi gộp số tiền tôi được lĩnh lương hàng tháng năm ngoái vào số tiền hiện tôi kiếm được hàng tháng bây giờ.
-Sao lại có sự khác biệt như vậy ?
-Vì năm ngoái tôi được một cơ quan nghiên cứu chính trị và xã hội trợ cấp* cho mỗi tháng 10 ngàn để viết văn chống Cộng, nhưng cơ quan này không phải là một tờ báo, nên thật ra 10 ngàn là cho không..., tôi lĩnh được một năm, thấy mình sắp sửa đâm lười biếng, vội xin thôi ngay. Tôi bỏ trợ cấp, đi làm cho" Sàigòn Mai" được 15 ngày , rồi được làm tờ" Chỉ Đạo" lương 8 ngàn, và viết giúp Ngôn Luận, tính tiền bài, và
" Văn nghệ Tiền phong" tính tháng, cộng tháng nào đủ 3 bài cho Ngôn Luận thì được 8 ngàn nữa. Như thế được 10 tháng, tôi không làm Chỉ Đạo nữa, , tôi viết cho đài Phát thanh Sài Gòn, công chung mỗi tháng kiếm được 12 ngàn đồng, tôi phải viết 50 ngàn chữ, tức là khoảng 130 tờ đánh máy, giá trung bĩnh 4 chữ được 1 đồng. Nhưng cái khó, khó hơn cả viết ra, là nghĩ làm sao cho nó có từ 15 đến 20 đề tài mà vêết.
Tôi hỏi:
-Anh nói đề tài ở đây, có phải đề tài chính trị không ?
- Không nhất định , anh ạ. Đài Sài gòn thi luôn luôn đòi bài tố Cộng, VNTP thì đúc kết tin tức" Bẩy ngày đêm, tính quẩn chuyện đời" , còn Ngôn Luận thì lại muốn viết về xã hội, tâm lý hơn về chính trị Nói lại, là bình luận.
Tôi hỏi anh sao không viết bài bình luận hoặc sáng tác văn nghệ. Anh cho biết:
-Bình luận văn nghệ thì không có chỗ đăng. Sáng tác thì không làm được, vì tôi viết loại này khó khăn lắm. Có khi băn khoăn cả tháng không viết được một bài.
Tôi nhắc lại gần đây anh viết trong tờ " Tin Sách" , bài " Tâm sự tác giả" , có nói anh viết thuần theo tưởng tưởng tượng, mà cũng theo anh, anh có sức tưởng tượng phong phú lắm. Anh giải thích:
-Vầng, thưa anh, tôi có cảm giác rằng khả năng tưởng tượng của tôi có phong phú thật, bởi đôi khi nó làm cho tôi quên hẳn được thực tại. Nhưng tưởng tượng không, không đủ. Hay nói cho đúng hơn là, đối với tôi trong lúc này, chưa đủ. Vì tôi còn mang một nhược điểm rất nặng là luôn luôn viết truyện có luận đề. Có lẽ thằng người luân lý trong tâm hồn tôi lúc nào cũng phẫn nộ vì thái độ hèn hạ của kẻ này, vì sự dại dột hiểu lầm của kẻ khác, nên vẫn chưa thoát được cái tư tưởng " thầy đời" rất thông thường trong những con người còn bị quá khứ của nó ám ảnh. Tôi tự thấy mình kém xa các nhà văn Tây phương là những ngươi có thể thực hiện được cái tốt cũng như cái xấu ở đời một cách hòan toàn khách quan như André Gide, Steinbeck chẳng hạn.
-Anh chio nhà văn nên có thái độ khách quan đối với đời sống hay sao ?
-Vâng, hiện nay thì tôi nghĩ như vậy, có lẽ vì tôi hoàn toàn theo chủ quan nên kính phục thái độ khách quan, chắc lúc đó lại ngưỡng mộ nhưng ngòi bút chủ quan có sự thành khẩn, sự tha thiết với đời sống. Nói tóm lại, có lẽ là" đứng núi nọ tưởng núi kia là cuối" đó thôi !
Tôi nhắc lại bài tựa cuốn KỲ HOA TỬ, trong đó anh viết rằng truyện là viết theo chỉ thị cấp trên, và hỏi:
-Như thế, anh viết cho anh, cho xã hội, hay cho ai ?
-Sụ thật, tôi đã nói rồi, là tôi say mê lắm mà không dám nghĩ mình có thể viết truyện ngắn, truyện dài gì được. Chắc anh còn nhớ, vào hồi 1940-1945, chỉ có viết truyện mới được gọi là nhà văn, hai chữ" nhà văn' đẹp gấp nghìn vạn lần tấm Bắc đẩu bội tinh, cho nên bọn người có học, ai cũng ham. Cũng bởi thế, những người viết xã thuyết, bình luận, chỉ được gọi là" nhà báo", hay cao hơn nữa, là" học giả" : hai chữ học giả cũng đã kêu lắm, nhưng vẫn chưa ăằng nhà văn. Tôi từ nhỏ, vẫn được các bậc cha chú cho là có khiếu" chính trị" cho nên đến lúc ra đời, tôi viết và làm chính trị với một tinh thần chủ quan khá hỗn xược và kiêu ngạo, cả sau khi bị bắt mấy lần rồi vẫn thế. Nhưng về văn nghệ -ở đây là viết truyện - có lần tôi viết một truyện ngắn dài 2 cột, đăng trên tờ báo do tôi làm chủ bút, mà đến khi cắt bài này đem đến" thỉnh thị" anh Nguyễn Tuân, thì anh Tuân ngồi uống xong bữa rượu cả 3 tiếng đồng hồ không nói câu nào, mà tôi thì buồn đi tiểu đến chết được vẫn không dám đứng lên, sợ đứng lên giữa lúc anh định cho biết ý kiến...
-Ý kiến anh Tuân thế nào ?
-Sau cùng tan bữa rượu, tôi phải về, cố thu hết can đảm hỏi anh một lần nữa, anh mới chợt nhớ ra, đem tờ báo ra xem, lướt thật nhanh, rồi nói ":
:-Ừ, cũng có tâm sự đấy chứ !"
-Anh có giận anh Tuân không ?
--Thú thật với anh là có giận, và buồn, điếng cả người.
-Sau đó anh nghỉ không viết nữa phải không ?
-Tôi nghỉ luôn cho đến cuối năm 1956,tôi bắt đầu viết những truyện mới được in gần đây. Đó là trường hợp viết do chỉ thị cấp trên mà anh vừa nói đến vừa rồi.
Đến đây, tôi chợt thấy tôi có cơ hội để đặt một câu hỏi mà, xưa nay rất ít người trả lời thành thật. Tôi hỏi:
-Trong thời gian nghỉ viết sáng tác hơn" 10 năm" , anh có lần nào thấy thèm khát được viết không ? Nói cho rõ hơn, là tôi xin anh cho các bạn đọc của Bách Khoa biết, anh có thấy công việc sáng tác văn nghệ là cần thiết cho đời sống của anh không ? Và, nếu có, xin anh cho biết, vì lòng yêu nghệ thuật hay vì lẽ gỉ ?
Anh cười:
-Tôi sẽ trả lời" tôi không thể sống không sáng tác" , anh sẽ nghĩ trong bụng rằng tôi nói dối, nhưng vì lẽ này lẽ khác, anh sẽ không nỡ nói ra... mà sẽ viết lại câu nói của tôi, để cho một vài bạn đọc mủi lòng thương con người" bạc đầu vì văn nghệ". Như thế sẽ có lợi cho tôi, phải không anh ?
" Nhưng bây giờ tôi xin trả lời sanh:
-Tôi chẳng hề thấy cần phải sáng tác vì yêu văn nghệ. Trừ môt trường hợp là, trong mấy năm gần đây, đã thỉnh thoảng được khen tặng đôi câu rồi, thì co vài lần chợt có một cốt truyện thích thú đặc biệt, tôi quả có ý nóng ruột muốn viết ra, , đăng lên báo cho nhanh chóng. Nói tóm lại, tôi viết vì nhu cầu, ( về chính trị, vì kiếm sống) và viết để được có danh tiếng."
Tôi hỏi:
- còn trường hợp anh bị phê bình, anh có nóng lòng trả lời không ?
-Có chứ, nóng ghê lắm.
-Tôi yêu cầu anh cho biết một ví dụ.
Anh nói:
-Như vụ tôi bị buộc, trong một bài đọc sách, là có tư tưởng chủ bại. Tác giả bài báo đó lại không nói thẳng, mà chỉ gíán tiếp nhắc đến đời tư của tôi. Tôi cho làm như thế là sai về tư tưởng, thấp về tam hồn, nên tôi hết sức nóng nẩy, muốn trả lời một cách thật mạnh.
"Tôi ( Nguiễn- Ngú- Í ) nhớ có đọc bài này trrong tờ Chỉ Đạo, dưới hình thức một bức thư ngỏ gửi cho ban Giám đốc tờ báo, bức thư có vẻ bình tĩnh, không đến nỗi nóng nẩy lắm."
Anh giải thích một cách thành khẩn:
- Tôi nói nóng nẩy là sự nóng nẩy trong tâm hồn tôi. Vì nóng nẩy nên sinh ra độc ác, tôi viết bức thư ngỏ đó, ngoài sự tự bênh vực, còn có dụng ý đề cao và, do đó làm cho ban Giám đốc xấu hổ vì thái độ bất chính của người viết bài đọc sách.
Tôi hỏi:
-Nghe nói sau vụ đó, tác gải bài đọc sách kia đã phải nghỉ việc ở tòa báo ấy có phải không anh ? Anh có lấy thế làm hài lòng không ?
-Không, tôi không dám theo dõi vụ đó, vì bài tôi đăng lên báo rồi, tôi thấy mình hèn quá, nên cố quên.
- Sao anh lại nghĩ anh hèn ? Tôi tưởng anh có thể cho anh là anh có quyền trả lời, còn câu chuyện nội bộ của tờ báo kia, anh làm thế nào mà đoán trước được ?
-Không đoán được, nhưng muốn cho nó xảy ra, hành động cho nó xảy ra. Có lẽ tôi có thể cãi rằng bức thư của tôi chỉ nói lên sự thật và lẽ phải...Nhưng nguy nhất là tôi biết trong thâm tâm tôi có ý mong muốn cho người viết bài phải mất viêc. Riêng cái ý muốn cho địch thủ bị thiệt hại đã là tồi lắm, tôi lại nghĩ, mình còn hơn tuổi - do đó hơn kinh nghiệm, thủ đoạn v.v...- mà dùng thủ đoạn như thế để hại người ít hơn mình lối 20 tuổi, thi quả là hèn quá ! Tôi tiếc nhất là không thể xin lỗi tác giả như hồi trước xin lỗi Thế Phong**.
-Tại sao không thể xin lỗi?...
-Vì tác giả cũng có lỗi về tinh thần .
Tôi nhân thấy anh nói " hồi trứoc xin lỗi...." , bèn hỏi anh có thể thuật lại việc đó hay không. Anh cho biết:
-Hồi đó tôi mới đến làm chủ bút tờ Văn Hữu, tờ nguyệt san này lại mới chỉ sắp ra số 2. Mọi sự giao dịch giữa ông chủ nhiệm và tôi đều tốt đẹp. Đến một buổi tối, ông đến chơi nhà tôi, nói chuyện công việc môt lúc rồi ông nhắc đến cuốn sách Hoàng Trọng Miên, và cho tôi biết trong tờ V.H.Á.C. ( Văn hóa Á châu -TP ghi ) có bài buộc H.T.M. và ngỏ ý yêu cầu tôi bênh vực họ Hoàng. Tôi nhận lời, hoàn tòan tin vào là một quyền hạn, hai là sự ngay thật của anh chủ nhiệm. Sự sơ xuất của tôi nặng nề nhất là tôi không biết cả rằng cuốn sách của H.T.M.chính là cơ quan ấn hành tờ Văn Hữu giúp vốn cho in. Tôi chỉ vùi đầu vào đọc có bài của Thế Phong ( ký là Đ.B.B.-Đường Bá Bổn -TP ghi) mà, lúc đó tôi cũng không hỏi cho biết là ai?) và cuốn sách cuủa H.T.M. Thế rồi tôi viết bài bênh H.T.M và tấn công Thế Phong. Bởi đúng như tôi dã viết trong bài của tôi lúc đó, tôi không có cuốn sách của Nguyễn Đổng Chi, nhưng tôi bênh vực H.HT.M, bởi vì bài công kích H.T.M. viết kém quá. Tôi cứ suy nghĩ lối viết văn mà đoán tác giả còn đi học, và dùng luôn chữ" em" để chỉ mặc dầu tôi không có ác ý, m à đọc lên rõ ràng là có ác ý. Bài của tôi đăng lên báo rồi, tôi mới biết tác giả là người, dù còn trẻ, dù mới viết, vẫn có thể gọi là đồng nghiệp với tôi - hai là cuốn sách của H.T.M quả có giống cuốn sách của Nguyễn Đổng Chi,đủ giống để được gọi là đạo văn. Tôi biết thế rồi thì ân hận lắm, và sau đó, tôi đã đi với Đỗ Tốn - tác giả" Hoa vông vang" - đến gặp và xin lỗi Thế Phong ở nhà hàng Thiên Thai..."
-Xin lỗi một bạn trẻ hơn nhiều như thế, anh có lấy làm hổ thẹn không?
Anh trả lời:
- Tôi nghĩ mình có lỗi, mình xin lỗi xong thì nhẹ hẳn tâm hồn đi, chứ sao lại hổ thẹn ? Tôi cho rằng chỉ đáng hổ then, nếu mình có lỗi, mình cứ cãi bừa đi, nhưng rút cuộc vẫn bị người biết rằng lỗi ở mình.." (...........)
Và khi bắt tay anh ở ngưỡng cửa, tôi chẳng thấy khó chịu vì gặp một quái tượng như lắm bạn đã bảo, mà chỉ vui vui vì được 2 giờ " tâm tình" với một hiện tượng (1) []
NGUIỄN-NGU-Í
-----
* thật ra là Sở Mật vụ / giám đốc Trần Kim Tuyến ( T.P. chú thích).
** B.T. cho gạch dưới).
(1) BÁCH KHOA CXXII, số xuân Nhâm Dần ra ngày 1.2.1962. Cảm ơn nhà gia phả học Dã Lan- Nguyễn Đức Dụ ( 1919-2002) cung cấp số báo này. (TP. chú thích).
-
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ