'Nhẹ Như Lông Hồng'/ truyện ngắn; HỒ ĐÌNH NGHIÊM (Canada) -- blog Phạm Cao Hoàng (USA)
THURSDAY, NOVEMBER 30, 2017
232. Truyện ngắn HỒ ĐÌNH NGHIÊM Nhẹ như lông
Snow Sculptures – source: http://rrfdc.blogspot.com
Quán “Lông Ngỗng” nằm cuối đường, thẳng góc với con sông đào. Tôi không ngờ là có khi vác mạng vào làm việc cho Lông Ngỗng, do sở thất nghiệp hối thúc, giới thiệu đến. Tôi chẳng lạ lùng gì quán này bởi tôi từng xô cửa vào gọi một cốc cà phê. Hôm ấy tôi tập đi trượt băng trên mặt sông và tháng Hai có những cơn gió cắt da dễ khiến mình mất hết nhuệ khí. Lạnh buốt, lóng cóng. Không có gì vui thú, ngỡ như mình đang bị trời hành. Tôi nghĩ vậy nên thay giày, cuốc bộ tìm một chỗ ngồi ấm cúng. Lông Ngỗng là một địa chỉ thuận tiện lúc ấy.
Sảng khoái vì uống được cốc cà phê ngon, cái radio dấu mặt đâu đó đang phát ra bản tin về thứ khi hậu khắc nghiệt chừng muốn bao phủ tỉnh bang. Chuyện thời tiết thì không có hấp lực khiến tôi phải để tâm, trong lúc này một người con gái luôn di động sau quầy là thứ đáng để chú ý hơn. Tóc vàng, chiếc áo ấm màu đỏ bó sít sao và tuồng như mọi ngọn đèn trong quán phải chịu lu mờ khi cô bước chân qua. Chẳng quá lời nếu ví von thêm, cô ấy là cái máy sưởi luôn tạo luồng nhiệt lượng, cô mãi xê dịch bởi muốn chia đều hơi ấm ra trong phạm vi chẳng mấy lớn.
Buổi nọ, hàng cây trồng dọc theo chiều dài con sông đang thay màu lá. Thu về làm khung cảnh thay đổi ít nhiều. Tôi cầm tờ giấy giới thiệu việc làm miễn cưỡng bỏ con sông sau lưng để tiến về “Lông Ngỗng”. Định cư ở đây hơn hai mươi năm tôi chưa từng thấy qua hình dáng thực thụ một con ngỗng nào cả. Lông của nó có thể trộn lẫn với các loài lông vũ chim chóc khác dùng độn vào trong áo ngự hàn. Trương phình, ngộ nghĩnh, nhưng chống được giá băng từ Bắc cực tràn về. Chọn thương hiệu lông ngỗng hẳn chủ nhân có mang ẩn ý. Ông Mark khoảng hơn năm chục tuổi chỉ han hỏi tôi đôi ba câu và chấm dứt buổi phỏng vấn bỏ túi bằng hai chữ ô-kê. Gầy, áo quần lấm lem bột mì, ưa chêm tiếng thô tục trong câu nói. Vừa chủ nhân vừa là người tự mình xắn tay làm tất cả các loại bánh, mặn cũng như ngọt. Ông nói, trước có con Julie phụ tao, nó mới sinh con, không biết ả có hứng thú đi làm trở lại hay không? Việc chẳng có gì khó khăn cả, rồi mày sẽ chóng thích nghi.
Mark rót cà phê mời tôi, gỡ từ cái khay lớn ra chiếc bánh paté chaud còn nóng. Cả hai ngồi ở cái bàn đặc biệt nằm sau quầy. Quán chưa có khách, tôi cố nhớ lại hình ảnh một người con gái tóc vàng mặc chiếc áo đỏ. Có thể nhân vật đó mang tên Julie, cô vừa đẻ con và tôi sẽ là đứa điền vào chỗ trống. Quán có chiều sâu được chia làm ba, đằng sau chỗ tôi ngồi là căn phòng có nhiều ngăn kệ đựng đủ thứ vật dụng liên qua tới việc sản xuất ra bánh, chiếc bàn mặt mi-ca trơn láng dùng để nặn kem, cái bồn to lớn có hai vòi nước nóng lạnh, kê sát thân là một tủ lạnh bằng i-nốc to khủng khiếp. Tường vôi tua tủa những cây đinh nhô ra và móc vào đó những thứ có thể treo mình lên phơi khô. Thấy tôi quan sát, Mark nói: Đó là gang sơn của mi, còn đất dụng võ của tao nằm ở phía sau. Không muốn tôi phải tưởng tượng, Mark biểu tôi đi theo để thăm thú. Hơi nóng ở đó ùa tới đón chào, có ba cái lò nướng cả thảy, đốt bằng gaz. Một cái bàn gỗ dài miên man, nơi cho Mark tập Judo bằng cách dùng đòn vai để vật từng tảng bột mì xuống, gần đó là cái máy khuấy bột, những cái xẻn, những cái bay, những con dao hình thù lạ mắt đứng nằm ngổn ngang ở những nơi Mark thuận tay với tới. Ông chỉ vào cái bàn, nói kèm với đôi ba từ thô tục, đó là nơi tao có quyền ngủ một giấc ngắn. Phải ngủ bù giấc trưa vì buổi tối tao luôn mất ngủ. Mark cho hay là bà vợ sẽ có mặt đôi ba ngày nữa, bả về thăm nhà, quê nằm ở miệt miền Nam nước Pháp. Mày biết đó, phải người xứ tao mới đủ uy tín để làm bánh ngon chứ bọn ở đây thì biết cái đếch gì. Tôi đã ăn hết cái bánh nướng nhân thịt băm và ngầm khẳng định lời Mark chẳng phải vô căn cớ.
Rồi vợ ông chủ quán thích chửi thề xuất hiện, chuyến thăm nhà hết hạn kỳ còn dây dưa ghi đậm dấu ấn lên màu da rám nắng biển. Bà bắt tay tôi, tự giới thiệu tên Marcell. Tao đã nghe Mark kể sơ qua, tao rất vui vì có mày vào làm, những đứa con gái thường dễ khiến tao nổi doá. Marcell đẫy đà, có da thịt hơn người chồng xương xẩu. Mỗi ngày bà ta chỉ có uống cà phê, chẳng chất lỏng gì khác và luôn uống nó với viên thuốc Aspirin. Tôi nghĩ đó là thứ dược liệu giúp bà bớt nói đi, bà uống nó để mong người chồng khỏi phải bị nhức đầu. Mark rất ngán vợ càm ràm, vẻ linh hoạt trước đây của ông đã biến mất. Vợ đi nghỉ hè về và bà đã đặt ông vào lại nề nếp cũ. Một sự lẫn trốn có lý do, bị đẩy lùi vào sau, loay hoay câm lặng trong vuông phòng luôn hực nóng bởi ba cái lò nướng. Nhưng tôi tin rằng những tiếng thô tục ông luôn sử dụng không hẳn do người vợ gián tiếp tác động nên.
Marcell mang tật nói nhiều, bà hỏi tôi đủ thứ chuyện để thỉnh thoảng chấm câu: Tò mò có phải là tính xấu không? Tôi thành thật: Bà là chủ, bà có quyền hỏi và tôi thấy điều đó chẳng mang tới sự lôi thôi. Phải tìm cách gây sinh khí cho cái quán luôn vắng tiếng động này. Như kiếm tìm đồng minh, bà muốn kéo tôi đứng về phía bà và càng ngày mũi tôi đã ngửi quen hương nước hoa bà xức ở má, ở cổ. Tôi chẳng phải hạng nhiều chuyện nhưng một đứa xa nhà, đứa ấy sẵn lòng tâm sự. Tôi kể cho Marcell nghe là trước đây tôi phụ nấu ăn trong một bệnh viện, đẩy xe chất đầy mâm có đậy kín nắp, vào thang máy đi trao phần ăn tới mỗi giường bệnh nhân. Một bữa, phòng 412 trên lầu 4 có người ốm o nằm trùm chăn, khuôn mặt xanh xao ló ra nhìn tôi: Anh người Việt phải không? Những thức này tôi nuốt không xuống, ngày nào cũng ngần ấy thứ nhạt nhẽo. Đậu hấp, khoai tây nghiền, trứng gà luộc… Tôi sẽ mất sức, tôi sẽ chết sớm. Tô bún bò, một bát phở luôn trốn trong những giấc mơ vụn nát của tôi… Hai hôm sau, vào một ngày chủ nhật, chẳng mấy khó tôi đã mang tới cho con bệnh đồng hương kia một bát phở nhỏ và tôi yêu cầu “xin bác hãy ăn trong chùng vụng, càng nhanh càng tốt”. Trôi được ba ngày, ngày thứ tư bệnh viện kêu đầu tôi lên mắng như tát nước, vi phạm điều lệ, buộc tội giết người không gươm đao. Tôi bị đuổi việc, tôi tới chiếc giường kia nói lời giã từ và nhìn ra những giọt nước mắt của ông ta chảy ướt mặt, sũng giọng nói: Cầu trời phù hộ anh. Tất cả thuốc thang ở cái nhà thương cà chớn này gom lại không cách gì đong đủ dung lượng thần dược bằng bát phở ân tình kia.
Quán Lông Ngỗng đóng cửa vào ngày thứ hai mỗi tuần. Một thứ hai nào đó Marcell gọi điện thoại biểu tôi dắt bà ta đi ăn Phở. Mark ngủ say, ổng là hạng người luôn chê bai thức ăn kẻ lạ. Marcell nói thế khi đi tới quán ăn. Húp hết bát phở, uống hết tách cà phê không đường kèm viên thuốc Aspirin, Marcell chùi miệng: Chồng tôi là một kẻ lạc hậu! Chừng muốn rõ nghĩa thêm, bà nói, thành kiến của Mark sẽ bị sụp đổ nếu lão ta ăn xong thứ gọi là Pho này. Tôi ngắm khuôn mặt giãn nở của Marcell, chưa bao giờ tôi có cớ được nhìn sâu bằng lúc này, những vết nhăn ở đó chỉ là một lưu dấu nhằm nhắc nhở về chân đi của hạng tuổi vượt qua và nó đang dẫm vào cột mốc của sự hồi xuân. Hương mùi phở dẫu có ngát thơm vẫn chẳng tài nào lấn át tinh dầu giọt Chanel mãi đọng ở cần cổ trắng muốt kia. Tôi hỏi về cớ sự cái tên quán. Marcell nói moa chẳng rõ, Mark tự định đoạt lấy, quê hương luỹ có món paté foie gras de canard nổi tiếng, không chừng có dính dáng tới loài ngỗng chăng? Tôi kể thời tiểu học, nhiều bữa đã bỏ học vì có đàn ngỗng đứng chận đường, chúng ưa rượt đuổi bọn con nít để thò cái cổ dài ngoằng ra trước mà dùng mỏ cắn vào đít. Dĩ nhiên đó là thứ chướng ngại đáng gờm nhất, một nỗi ám ảnh đồng thời cũng là sự căm hận. Marcell cười to tiếng, moa đâu lạ lùng gì hình ảnh đó và thú thật nó góp phần làm đẹp một bức tranh quê đầy sinh động, đầy an lành; sống trong thành phố lòng dạ con người dường như bị thu hẹp lại giữa bao điều luôn vây khốn, hiểu ý moa nói không? Tôi bắt đầu có cảm tình với Marcell, sự duyên dáng trong cách bày tỏ một câu chuyện và sau cùng, bà mãi ca ngợi những món ăn Việt, hợp khẩu tôi quá. Tôi nhìn chiếc nhẫn vàng có nơi bàn tay Marcell, không dưng nhớ mòn hao tới một cổ tích và tôi thuật lại, ở đất nước tôi có câu chuyện kể về một người con gái bị gả chồng phương xa, như muốn đánh dấu lộ trình băng qua cô ta đã thả rơi những chiếc lông ngỗng lui sau. Marcell ngó tôi bằng đôi mắt xanh chừng đã gạt hết bụi trần bên trong; Lãng mạn và quả có chút dại khờ. Lông rồi sẽ nhẹ dạt bay phiêu bồng mất dấu, tìm đâu ra đường về hư ảo, quá mênh mông.
Rồi tuyết đổ xuống thành phố, lặng lẽ, chuyên cần. Rồi con sông gần quán Lông Ngỗng đóng băng. Tôi mang patin ra sông làm con nít tập đi. Đừng gượng chống, đừng cố sức tìm kiếm sự quân bình, hãy buông thả, chớ ngại bị té. Người giỏi trượt băng đã dạy tôi những điều căn bản tựa thế. Sẽ vấp ngã rồi tự khắc sẽ có lúc thân bạn sẽ khinh khoái lướt trôi. Chưa đổ mồ hôi, chưa xong bài thể dục, chưa loạng quạng trên mặt đá trơn láng, tôi nhát thấy bóng một chiếc áo đỏ ngồi trên băng ghế sát bờ. Đỏ là thứ sắc màu sắp hàng theo cam về độ mạnh khi muốn truyền đi một tín hiệu. Tù nhân sở dĩ chịu mặc áo màu cam là bởi người cai quản dễ phát hiện khi anh ta lỡ dại khờ vượt xa cả ba bốn cây số. Chạy trời không khỏi nắng. Hôm ấy trời không nắng, xám xịt và cái đốm màu đỏ mọc cô quạnh bên tuyết băng trắng lạnh biến thành một ngọn lửa. Trên đôi chân của người say, sắc đỏ kia biết phát ra hấp lực kéo tôi về chập choạng. Những sợi tóc vàng rối rắm lòi ra dưới cái nón len cố chụp thật kín, một khuôn mặt từng thấy qua tới độ quen thuộc và tôi đã gọi đúng tên cô khi ngồi kề bên. Julie hơi ngỡ ngàng, hơi lúng túng, hoài nghi làm mắt cô đọng thành một dấu hỏi: Toa là ai, sao biết tên moa? Chúng ta đã từng gặp qua?
Tôi cố giữ sự điều hoà trong hơi thở. Trong tất cả mọi bộ môn liên quan tới thể thao, điều cần thiết nhất là làm chủ được nhịp thở, rối loạn khiến anh chóng thua. Cái bàn gỗ trải mi-ca trơn bóng, vách sơn màu cà phê sữa, một cái tủ nhỏ đựng những vật dụng dùng để nặn kem lên mặt bánh. Mặt sau cánh cửa có dán tấm ảnh một người nhìn xuống hàng chữ “mừng sinh nhật Julie” với những cây nến lung linh cháy. Tôi làm ở đó đã hơn một năm. Hơn 365 ngày đều thầm lén thấy ra một dung mạo. Julie không trở lại chỗ ấy sao?
Không đời nào. Vậy là họ đã kiếm ra người. Và lần này họ thôi tuyển đàn bà con gái. Bạn biết thêm điều gì về tôi? Họ, bà Marcell nói gì về tôi? Tôi ngó màu áo đỏ, những kẻ yêu chuộng màu đỏ thường mang sự quyết tâm, cứng rắn, hoặc chẳng mỏi mệt để đạt mục đích. Một chuyên viên về thời trang may mặc đã đưa ra nhận định: Tôi lấy làm lạ, cái thành phố quanh năm mùa đông như chốn này tại sao ra đường ít khi bắt gặp những sắc màu vui tươi. Julie có cứng rắn, có vui tươi? Tôi hoài nghi tất cả những lượng định. Cái đốm đỏ kề bên tôi đang giữ riêng cho nó sự ủ rủ, hết phô trương. Tôi nói chậm, nhỏ tiếng: Tôi chỉ biết có mỗi chuyện, ấy là bạn có thai, nghỉ làm để sinh con, chừng như họ e dè lãng tránh về cái tên Julie. Khi nói tôi nhìn ra bao quát, chẳng có người nào đẩy xe, chẳng có ai ôm con mọn giữa nơi lắm gió lạnh như chốn đây. Tuy không nhìn thấy nhưng tôi vẫn hỏi: Cháu được mấy tháng tuổi rồi? Trai hay gái? Julie moi trong túi áo ra bao thuốc lá, cô tháo găng và những ngón có tô sơn đen ở mỗi móng tay vừa kẹp lấy điếu thuốc. Hút không? Tôi cụng đầu vào để đón nhận ngọn lửa bé bỏng luôn chực tắt. Khói thuốc vẫn luôn kích hoạt, thay thế cho một sự thúc dục, sau khi ủ chín trong trí não. Một là trầm ngâm hai là nói ra với tính suy. Julie thở mù luồng khói: Moa đâu có sinh con, moa phá bỏ nó, moa chịu thêm một tổn thất khác là phải để vuột mất một cuộc tình. Moa ngồi đây vì có cái hẹn với Mark, lão đã vừa rời đi sau khi trao nốt những đền bù tổn hại mà moa phải trả. Giúp moa giữ kín chuyện này nhé và bạn làm ơn hãy xé bỏ tấm ảnh dán trong cái tủ ấy giùm.
Bạn hứa không? Bạn đang nghĩ gì? Tôi nghĩ tới những con cá đang bơi lội bình thản dưới mặt nước đóng băng kia. Dòng sông thực sự vẫn luân lưu, vẫn sống thở, vẫn dấu dưới lòng nó những nhịp đập ấm áp. Tôi từng nghĩ là mình có chịu được, có sống qua những mùa đông ở chốn này. Chúng ta hãy làm bạn với nhau, bạn nghĩ sao? Julie trao cho tôi số điện thoại: Ừ, chúng ta là những con cá. Moa thích ngồi ngoài trời, hoặc đi bộ loanh quanh trong khu phố cổ. Nó dễ chịu hơn là chúng ta dọ tìm ra địa chỉ của nhau để rồi gặp nhau giữa những vây hãm bức bối chật chội. Đồng ý không? Nam nữ thọ thọ bất tương thân? Có phải hàm ý ấy được Julie diễn dịch bằng cách khác? Tôi bắt tay người mặc áo đỏ, người chung nghề, người tiền nhiệm đã từ bỏ quán Lông Ngỗng. Rời đi mà chẳng biết có rụng một sợi lông?
Là cựu nhân công, Julie biết rõ thời khoá biểu của chốn làm việc cũ. Điện thoại ré lên vào sáng thứ hai. A lô, có thích đi uống cà phê cùng tôi không? Nếu bận thì hôm khác. Tôi đang ngồi ngáp vặt. Tôi trả lời và nghe tiếng cười của Julie, gần như thể cô đang đứng ngoài cửa. Julie nói địa điểm, tôi nhìn đồng hồ. OK, khoảng nửa giờ thì tôi tới, vẫn mặc áo đỏ chứ? Vẫn, tại sao? Tại dễ nhìn nhận, lâu ngày quá khiến tôi bắt đầu quên dung mạo của Julie. Đùa đấy à? Ừ, chỉ giỡn chơi thôi, tôi không tài nào quên được, có khi trong giấc ngủ tôi vẫn nhìn thấy Julie. Lại nói đùa? Lát nữa gặp. Julie gát máy.
Tôi đi thay áo quần. Trong ngăn tủ, toàn bộ y phục tôi sắm thảy toàn màu xám và đen. Những bộ sậu như thế sẽ thuận tiện nếu bạn mặc đi dự đám cưới hoặc đám ma. Cười hay khóc cũng dễ hoà nhập vào mà không ai có thể bắt bẻ. Cái điện thoại thô kệch với dây nhợ lòng thòng kia cũng bóng màu nhựa đen, nhiệm vụ nó mang là truyền đi giọng thăm hỏi công ăn việc làm của sở thất nghiệp, của những kẻ lạc thần hồn gọi nhầm số và sau cùng là giọng của bà chủ Marcell đầm ấm, của Julie thanh cao. Người thích màu đen, xám hẳn nó cô đơn, thiếu vắng bạn bè? Tiếng chuông điện thoại chẳng mấy khi reo, thin thít.
Tôi trao cho Julie tấm ảnh tôi gỡ ra từ chỗ làm, tôi nói: Bạn biểu tôi thủ tiêu nó nhưng tôi chẳng đành lòng. Julie đón lấy, cô xé nhỏ, vụn vằn. Tôi không thích nhìn lại dấu vết những ngày cũ. Tôi sẽ đi xa, tôi đến một thành phố khác để tìm việc và bạn là người cuối cùng gặp mặt tôi. Giọng Julie chừng như bị hụt hơi. Gió lộng làm lá cờ xanh in bốn bông hoa huệ trắng treo trên toà nhà thị chính run phần phật.”Que né sous le lys. Je crois sous la rose”. Rồi Julie sẽ mang đoá hoa hồng chìm trôi. Tôi nói vậy là chìm dưới sâu con sông kia tôi làm con cá lẻ bạn. Julie vén những sợi tóc vàng mãi bị gió đùa: Tôi sẽ mời cà phê, uống để khuây đi. Tôi cũng cần tìm sự cứng rắn trước khi lên đường.
Chúng tôi vào ngồi trong quán cà phê thật nhỏ nhắn, thật vắng tẻ. Nhạc trôi rã rượi, blue chen cài cùng jazz khiến thời gian chừng như sững lại, thôi vận hành giữa bốn bức vách treo đầy ảnh đen trắng. Cà phê chẳng ngon có lẽ vị giác hôm nay trở chứng, y như thứ nước màu nâu đen này luôn có mặt ở những bến xe, bởi tiễn đưa ai rời đi ắt hẳn người ta nhấm phải vị đắng chát tồn đọng. Một sum vầy thì đã khác, hon hoan chẳng còn lòng dạ để thưởng thức.
Trước khi rời ra, Julie trao tay một cái phong bì nhỏ, dán kín. Cô nói, có thể xem là một món quà, tuỳ ở bạn. Chưa mang găng tay, xúc giác tôi nhận biết sau mặt giấy là cộm nổi bốn năm viên thuốc, hoặc là thứ hạt giống gì đó sẽ gieo xuống đất khi xuân về, tuyết tan. Bà Marcell vẫn còn uống Aspirin chứ? Ừ, vẫn còn. Bạn có muốn thử cho bà ấy uống loại này không?
Đây là thứ thuốc mà lão Mark đã lén cho tôi uống. Và lão đã vật tôi xuống cái bàn dài nằm gần lò nướng. Lão chở tôi về ga tàu điện ngầm, tôi đi xuống đường hầm tựa một đứa mộng du không hay biết điều gì vừa xẩy ra.
Chỉ choáng váng, chỉ say một giấc tủi nhục và biết rõ mình đang nhơ nhuốc. Marcell chỉ mới bốn mươi, Marcell vẫn còn gợi cảm, sức quyến rũ ấy có thể khiến bạn dễ tìm ra sự can đảm và những viên thuốc này, biết đâu làm bà quyến luyến bạn, mang ơn bạn…
Tôi làm ở Lông Ngỗng gần hai năm. Lương có tăng chút đỉnh, vẫn thường khi nghe Marcell cằn nhằn Mark về một khoản tiền hao hụt vô cớ, vẫn đòi rủ tôi đi ăn phở và tôi vẫn đón nhận một hương mùi quen thuộc, không đổi. Tới một khoảng thời gian nào đó, tác động bởi một nguyên cớ nào đó, Mark nói cùng tôi, không quên đệm tiếng chửi thề: Mày có từng thắc mắc tại sao bọn tao chẳng có con? Lỗi hoàn toàn ở phía Marcell, bả bị mắc chứng gì đó buộc phải cắt bỏ buồng trứng. Bả luôn xốn đau và dần dà đâm lãnh cảm chuyện vợ chồng. Trước, bả đáng yêu, sau này đâm gắt gỏng. Mỗi năm phải để bả đi về xứ thay đổi không khí mà khi trở lại vẫn chứng nào tật đó, chẳng nguôi ngoai.
Marcell vẫn uống Aspirin, hoặc cái lọ kia dùng nguỵ trang để đựng loại dược liệu khác. Tôi vẫn còn giữ phong thư dán kín của Julie, có khi buồn tay tôi ưa khui mở để ngó qua mặt ngang mặt dọc những viên thuốc “thần tiên” kia. Tôi đã dằn lòng, tôi thử mường tượng ra phản ứng của Marcell, cách bà biểu tỏ khi ngấm thuốc, dật dờ như con cá nằm trên thớt…
Lợi dụng một bữa hai vợ chồng chủ quán cãi vã lớn tiếng, tôi đi rửa tay rửa mặt và tôi sửa giọng tuyên bố: Quá mỏi mệt, nghỉ việc. Cơn giận ngút ngàn chưa nguôi khiến họ chẳng thèm quan hoài tới cái quay lưng của đứa đệ tử trung thành. Tôi ra đứng ngoài đường, vác mặt trông lên cái bảng hiệu “Lông Ngỗng”. Những bông tuyết nhẹ bay, hờ hững rồi tan đi, mất dấu. Cả đoạn phố đen đủi những bóng bộ hành câm lặng sải bước. Tuyệt không có lấy một màu áo đỏ làm ấm lòng. Đơn côi.
Hồ Đình Nghiêm
tháng 9.2016
----------------------------------------------------------
trích từ TRANG VHNT PHẠM CAO HOÀNG
----------------------------------------------------------