nguyễn đình toàn viết về hoàng hải thủy + www.gio-o.com giới thiệu thơ hoàng hải thủy -- trích lại từ blog phan nguyên
HOÀNG HẢI THỦY.
NGUYỄN ĐÌNH TOÀN.
VIET TIDE số 38 -- . ngày 31 Tháng 12, 2008.
Hoàng Hải Thủy và Sống & Chết ở Sàigòn
(ảnh: baotreonline )
Hoàng Hải Thủy là một trong những nhà văn đã nổi tiếng ở Sài Gòn trước năm 1975. Ông nổi tiếng trước nhất như một người viết phóng sự, sau đó, như một dịch giả và một người viết tạp văn.
Từ tạp văn ở đây hiểu theo nghĩa, gặp gì viết nấy, trộn lộn cả phóng sự, văn chương, trích dẫn thi ca, âm nhạc, những ngôn ngữ do ông sáng tạo, bịa đặt ra.
Cái cách viết của ông có thể có nhiều người không thích. Nhưng khi người ta nói không thích cách đùa cợt trớt nhả của ông, có nghĩa là người ta đã đọc ông rồi.
Có phải như vậy chăng?
Phải công nhận rằng, tất cả những gì Hoàng Hải Thủy viết , đều có một sức hấp dẫn, dù nó được ký tên Hoàng Hải Thủy hay Công Tử Hà Đông. Đang viết bình thường, ông thêm vào một chữ “vưỡn“, “em vưỡn yêu anh, mí nị em thơm như múi mít.”.
Trong ngôn ngữ miền Bắc của chúng ta, hai từ “mí nị“, cũng có người nói là “mí lỵ” là hai tiếng “mới lại” được phát âm trẹo đi. Hoặc, những tiếng “ê, a” không có nghĩa gì, nhấn mạnh vào những chữ ấy chỉ để chê bai, chọc quê. Nghe một người con gái nói: “Em vưỡn yêu anh”, thì có lẽ không anh nào dám tin đó là sự thật. Cái phần sự thật có thể có đó, so với cái phần sự thật có thể không trong câu nói nghiêm chỉnh hơn “Em vẫn yêu anh” có gì khác.
Trong ngôn ngữ miền Bắc của chúng ta, hai từ “mí nị“, cũng có người nói là “mí lỵ” là hai tiếng “mới lại” được phát âm trẹo đi. Hoặc, những tiếng “ê, a” không có nghĩa gì, nhấn mạnh vào những chữ ấy chỉ để chê bai, chọc quê. Nghe một người con gái nói: “Em vưỡn yêu anh”, thì có lẽ không anh nào dám tin đó là sự thật. Cái phần sự thật có thể có đó, so với cái phần sự thật có thể không trong câu nói nghiêm chỉnh hơn “Em vẫn yêu anh” có gì khác.
Các bông đùa của Hoàng Hải Thủy luôn ở trên lằn ranh vui buồn, thật giả đó.
Đọc “Sống và Chết ở Sài Gòn” người ta được biết những chuyện liên quan tới một số văn nghệ sĩ, trí thức, như Vũ Hoàng Chương, thượng toạ Trí Siêu (Lê Mạnh Thát ), Thanh Nam, Vũ Bằng, Duyên Anh, Thái Thủy, Mai Thảo, Trịnh Viết Thành, Hoàng Anh Tuấn, Uyên Thao.. .., về Trại Giam Phan Đăng Lưu, nơi Hoàng Hải Thủy đã trải nhiều năm tù.
Chương ? Hoàng Hải Thủy kể lại những năm tù ở Trại Phan Đăng Lưu với nhiều tù nhân khẳng khái ,được nhà văn Đặng Trần Huân coi là một chương tuyệt tác.
Người ta nhớ lại những năm sau 1975, hầu hết các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn cũ, đều bị bắt giam.
Hoàng Anh Tuấn sau khi được thả, đã được thân nhân bảo lãnh ra khỏi nước. Hoàng Hải Thủy có mấy câu thơ gửi Hoàng Anh Tuấn được các bằng hữu của ông thỉnh thoảng nhắc lại:
Hai chuyến xe hoa về đất mẹ,
Bây giờ xa-lộ sáng đèn chưa ?
Ở đây thì chán, đi thì nhớ,
Sài Gòn mưa mà Mỹ cũng mưa.
Hẳn nhiều người đều biết Hoàng Anh Tuấn ngoài việc làm thơ còn là một đạo diễn điện ảnh. “Hai Chuyến Xe Hoa” “Đất Mẹ” và “Xa Lộ Không Đèn.”, Hoàng Hải Thủy nhắc trong bài thơ trên những cuốn phim Hoàng Anh Tuấn đã thực hiện.
Sống và Chết ở Sài Gòn được viết theo kiểu tùy hứng, nhớ đến đâu viết đến đấy.
Chương ông viết về việc ông bỏ lỡ chuyến di tản năm 1975 là một chuyện cười ra nước mắt.
Khi đó, Hoàng Hải Thủy đang làm việc cho USIS tức Sở Thông Tin Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Trước ngày 30/4 ông Giám đốc USIS cho biết sẽ cho nhân viên đi nhưng con trai các nhân viên phải dưới 17 tuổi mới được đi theo bố mẹ. Nhân viên phàn nàn, ông nói ông phải làm theo lệnh của chính phủ Việt Nam, không thể làm trái luật pháp, cũng không thể nhận diện em nào trên hay dưới 17 tuổi. Ngay lúc đó Hoàng Hải Thủy thật thà không hiểu câu nói của ô. Giám đốc Alan Carter, ý ông muốn bảo “các anh cứ khai các con anh 16 tuổi chứ tôi có cần các anh chứng minh đâu“. Y hệt như câu thơ của T.T.K.H, “đến khi tôi hiểu thì tôi đã” muộn mất mấy chục năm rồi.
Trước ngày 30/4 ông Giám đốc USIS cho biết sẽ cho nhân viên đi nhưng con trai các nhân viên phải dưới 17 tuổi mới được đi theo bố mẹ. Nhân viên phàn nàn, ông nói ông phải làm theo lệnh của chính phủ Việt Nam, không thể làm trái luật pháp, cũng không thể nhận diện em nào trên hay dưới 17 tuổi. Ngay lúc đó Hoàng Hải Thủy thật thà không hiểu câu nói của ô. Giám đốc Alan Carter, ý ông muốn bảo “các anh cứ khai các con anh 16 tuổi chứ tôi có cần các anh chứng minh đâu“. Y hệt như câu thơ của T.T.K.H, “đến khi tôi hiểu thì tôi đã” muộn mất mấy chục năm rồi.
Trong cuốn sách Hoàng Hải Thủy có nhắc đến cái chết của các nhà văn Vũ Bằng, Nguyễn Mạnh Côn, nhà báo Minh Vồ, nhiều chi tiết về những năm đen tối, khốn khổ sau 1975 mà người dân miền Nam đã phải trải qua.
Được biết cuối năm 2002 nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội/Hà Nội đã cho xuất bản cuốn “Hai Mươi Nhăm Năm Một Vùng Tiểu Thuyết” ý muốn nói tiểu thuyết ở miền Nam, nội dung đề cập tới tiểu thuyết miền Nam từ 1887 tới Hồ Biểu Chánh rồi nhảy vọt qua tiểu thuyết từ 1975 đến 2000 đề cao những tác giả cộng sản nhất là các tác giả từ miền Bắc vào. Tất cả văn học miền Nam (từ 1954-1975 ) không có một dòng.
Nhà văn Đặng Trần Huân viết:
“Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa.”
“Với chủ trương rõ ràng của nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam hiện nay như thế, thử hỏi nếu không có những bộ sách như Văn Học Miền Nam của Võ Phiến hay những tạp bút như Sống và Chết ở Sài Gòn thì sau này lấy đâu ra tài liệu về văn học và đời sống của văn nghệ sĩ Việt Nam Cộng Hoà ? Ta phải cám ơn Võ Phiến, cám ơn Hoàng Hải Thủy đã giúp ta tài liệu để còn nhớ không quên những văn nghệ sĩ một thời sáng chói, dù nhớ cách nào đi chăng nữa.”
Các văn nghệ sĩ của chúng ta sống ở miền Nam trước 1975, cho đến nay, đã mất đi nhiều lắm. Người chết trong tù, chết trong nước, người chết già, chết bệnh, người chết nơi xứ lạ, quê người, số còn lại e rằng ít hơn số đã mất.
Và, trong số những người còn lại, Hoàng Hải Thủy là người duy nhất cho đến nay vẫn viết và viết được một cách đều đặn. Cách viết của ông gần như không có gì thay đổi, pha trộn văn chương với phóng sự, nửa đùa, nửa thật. Nhưng với cái nhìn sâu sắc của người đã ở ngoài cái tuổi “cổ lai hy”, đọc ông, người ta có cảm tưởng mọi sự trên đời đều hình như lúc nào cũng có hai mặt, một mặt bi thương và một hài hước.
Nói đến mọi sự trên đời, bởi vì, Hoàng Hải Thủy đề cập tới rất nhiều chuyện trong các bài viết của ông, bằng hữu, nghề nghiệp, kỷ niệm, tình yêu, chính trị, thời sự, tù đầy, cảm khái trước cái đẹp của thiên nhiên, thời tiết, kiếp sống tha hương.
Loạt bài mới nhất của ông cho đăng trên các báo chí gần đây, những phê phán chua chát của ông đối với chế độ cộng sản, sách báo của các tác giả ở trong nước và những người ông cho là đến bây giờ vẫn còn bị cộng sản mà mắt, được rất nhiều người đọc. Dù có cùng quan niệm với ông hay không, người ta vẫn thấy ở ông một tấm lòng thiết tha với đất nước, yêu cái đẹp, yêu sự thật.
Tập Đất Hồ Ngàn Năm của Hoàng Hải Thủy cho xuất bản mới đây gồm 8 đoản văn: Huyền thoại Vương Chiêu Quân, Giang Tả Cầu Hôn, Rồng Nằm, ngựa chạy, Sự Tất Như Thử, Trăm Năm Binh Lửa, Thơ và Sự Khốn Cùng, Mơ Ngày Về Vẽ Lông Mày, Thiên Long Tình Sử.
Hoàng Hải Thủy cho biết ông bắt chước ông Lê Quý Đôn ghi lại những chuyện hay hay đọc được cùng với những suy luận, những nhận xét của mình.
Qua cuốn sách người ta được biết thêm một Hoàng Hải Thủy rất yêu thơ, đọc rất nhiều thơ Đường, dịch nhiều thơ Đường và còn có thể làm thơ bằng chữ Hán nữa.
Đoản văn về “Thơ và Sự Cùng Khổ” của Hoàng Hải Thủy gây nhiều xúc động trong lòng độc giả. Hoàng Hải Thủy viết đoản văn này sau khi đọc một bài thơ của Nguyễn Du trong “Bắc Hành Thi Tập”, chắc Nguyễn Du đã sáng tác trong chuyến đi sứ sang Bắc Kinh và qua nơi có ngôi mộ Đỗ Phủ.
Thi hào Đỗ Phủ trong một chuyến đi xa đã nhuốm bệnh và chết trên một con thuyền trên sông Tương. Vì nhà nghèo, vợ con không đưa được ngay di hài ông về quê nhà, phải tạm chôn ở Nhạc Châu. Bốn mươi năm sau, người cháu của Đỗ Phủ là Đỗ Tư Nghiệp mới rời được hài cốt Đỗ Phủ về Yểm Sư, mai táng trên núi Thú Dương, thuộc Hà Nam.
Tuy vậy ở Lỗi Dương vẫn có ngôi mộ giả của Đỗ Phủ do viên Huyên lệnh Lỗi Dương họ Nhất xây để tưởng niệm nhà thơ lớn.
Người Hoa ngày xưa thường xây những ngôi mộ giả các nhân vật họ kính trọng.
Đỗ Phủ thơ hay tuyệt thế nhưng suốt đời nghèo khổ, nghèo đến độ không nuôi nổi vợ con và thân mình, để đến nỗi một người con nhỏ của ông phải chết vì thiếu ăn.
Nguyễn Du đặt câu hỏi, ông (Đỗ Phủ) cùng khổ đến thế phải chăng vì thơ ? Phải chăng ta có thể quy tội làm ông khổ là thơ ?
Chính Đỗ Phủ khi nhớ tới Lý Bạch, nhớ tới Khuất Nguyên tự trầm mình ở sông Mịch La đã
than thở:
“Làm thơ hay như Khuất Nguyên, như Lý Bạch mà cuộc đời khổ sở đó là vì văn chương ghen ghét những người mệnh đạt. Văn chương không cho những người làm thơ được thành công trong đời.”
than thở:
“Làm thơ hay như Khuất Nguyên, như Lý Bạch mà cuộc đời khổ sở đó là vì văn chương ghen ghét những người mệnh đạt. Văn chương không cho những người làm thơ được thành công trong đời.”
Bàn về thơ và sự cùng khổ Âu Dương Tu, một danh sĩ khác của Trung Quốc viết: “Không phải thơ làm người ta cùng khổ. Chính vì người làm thơ có cùng khổ thơ của người đó mới hay.”
Đỗ Phủ nói:
“Văn chương ghét mệnh.”
“Văn chương ghét mệnh.”
Nguyễn Du cho rằng:
“Làm gì có chuyện văn chương ghét mệnh. Làm gì có chuyện trời ghen với người.”
“Làm gì có chuyện văn chương ghét mệnh. Làm gì có chuyện trời ghen với người.”
Nhưng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lại viết :
Lạ gì bỉ sắc, tư phong.
Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.
Hoàng Hải Thủy viết:
“Đây không phải một điều mâu thuẫn trong quan niệm về nhân sinh của thi sĩ. Không phải Nguyễn Du bất nhất trong quan niệm của ông về đời người. Ý thức của chúng ta rất phức tạp, đa dạng. Nguyễn Du tất nhiên là phức tạp hơn người thường.”
“Đây không phải một điều mâu thuẫn trong quan niệm về nhân sinh của thi sĩ. Không phải Nguyễn Du bất nhất trong quan niệm của ông về đời người. Ý thức của chúng ta rất phức tạp, đa dạng. Nguyễn Du tất nhiên là phức tạp hơn người thường.”
Hoàng Hải Thủy lấy trường hợp của ông để nói thêm về câu hỏi được nêu ra: 'Thơ có làm cho người làm thơ phải khổ sở không '?:
“Viết tiểu thuyết từ năm 25 tuổi, có thể nói tôi suốt một đời yêu thương, gắn bó, sống chết với việc viết truyên. Với tôi, viết là hạnh phúc. Tôi đã sống để viết, viết để sống và trước năm 1975, tôi đã sống được với việc viết truyện của tôi. Trước 1975, ở Sài Gòn, Thủ đô Quốc Gia Việt Nam Cộng hòa của tôi, trong hai mươi năm, tôi đã sống để viết và đã viết để sống. Sau 1975, tuy biết viết là tù tội, tôi vẫn viết. Dù vậy tôi vẫn không thể trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Thơ có làm cho người làm Thơ cùng khổ hay không ?”
Tôi thấy Nguyễn Du đúng khi thi sĩ nói:
“Chữ tài liền với chữ tai một vần.”, “ngu si hưởng thái bình.”
Người có tài thường gặp tai họa.
Chuyện đó tôi thấy thường xẩy ra trong đời và trong thời loạn.
Chuyện đó tôi thấy thường xẩy ra trong đời và trong thời loạn.
Tôi chịu câu nói của Âu Dương Tu:
“Thơ không làm cho người làm thơ cùng khổ. Chính vì có cùng khổ thơ mới hay.”
Nguyễn đình Toàn
nguồn: VIET TIDE/ 2008
Nguyễn đình Toàn
nguồn: VIET TIDE/ 2008
nguyễn đình toàn [1936- ] -- (bên trái)\
(ảnh chụp ở Saigon)
(ảnh chụp ở Saigon)
Thơ
HOÀNG HẢI THUỶ
Yêu Hoài Ngàn Năm
Yêu nhau ngày tháng qua nhanh
Ba mươi năm lẻ chúng mình yêu nhau
Từ xanh đến bạc mái đầu
Tình ta nước biển một mầu như xưa
Yêu bao giờ, đến bao giờ,
Thời gian nào rộng cho vừa tình ta?
Lòng em hoa vẫn tươi hoa
Môi em thắm đến em già chưa phai
Yêu kiếp này, hẹn kiếp mai
Ngàn năm yêu mãi, yêu hoài nghe em.
Mặt trời có lặng về đêm
Sáng mai em dậy bên thềm lại soi.
Cuộc đời có khóc, có cười
Có cay đắng, có ngọt bùi mới hay.
Thu về trời lại xanh mây
Đầy trời anh thấy những ngày ta yêu
Càng yêu, yêu lại càng nhiều
Nhớ em, anh nhắn một điều: Yêu em .
Làm tại Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, Xà-lim Số 15, Khu B, Tháng 10-1977
Chợ Tân Định 77
Mình anh ăn miếng soài này
Năm năm soài chín nhớ ngày em đi .
Phải cùng chăng, tiếc làm chi
Năm năm soài chín chợ thì vắng em .
Tưởng em xa nước em thèm
Còn anh soài đỏ, soài đen quản gì .
Chúng ta vùi một cơn mê
Có bao giờ tỉnh ? Còn gì là ta ?
Hướng dương em có như hoa
Vườn anh nắng đã chiều tà, em ơi .
Có còn nhau nữa hay thôi
Yêu nhau em hãy hẹn lời: Kiếp sau
Ba Mươi Sáu Câu Cho Alice
Anh không biết ngày xưa em trẻ
Khi em yêu em đợi, em chờ
Có bao giờ em buồn như thể
Sáng nay em trong cửa mong thơ ?
Niềm hy vọng trong em chợt hé
Người phát thư xe đạp đi qua
Chưa bao giờ thấy em buồn thế
Khi nghiêng vai, em trở vào nhà.
Em yêu ơi … Tim anh như xé
Chưa thương em đến thế bao giờ .
Anh lặng biết em không cần kể
Những xót xa, ly tán, đợi chờ
Hồn em nặng sầu non, muộn bể
Những đau thương ray rứt không bờ
Từ cơm áo rã rời sinh kế
Đến oan khiên tù tội không ngờ
Đau chồng con chia từng giọt lệ
Thương hôm mai biết đến bao giờ
Đời u tối như chiều đông xế
Môi em thâm nên mắt em mờ
Nên em buồn não nùng như thể
Sáng nay em trong cửa đợi chờ .
Sáu năm dài dập dồn dâu bể
Đời sống ta cơ cực Thành Hồ
Anh lặng biết sao em buồn thế
Sao em gầy, sao tóc em khô!
Trên mái tóc thu về đã trễ
Trên đôi môi thoáng bóng hư vô
Trong ánh mắt não nùng xiết kể
Trên đôi vai xuân đã mơ hồ
Anh thấy cả một trời dâu bể
Anh chưa đau đến thế bao giờ
Anh lặng hiểu sao em buồn thế
Sao em mong người phát thư vô
Niềm mơ ước trong em thật bé
Em chờ mong chỉ một thùng đồ.
Còn Xót Xa Nào
Mất nhau trong cuộc biển dâu
Hồn anh hoa muộn, lá sầu hoang sơ .
Tim anh quằn quại bóng cờ
Tai anh mán hú, mọi hờ quanh năm .
Trời bỏ ta, khóc đi em
Em ơi sương lạnh trên thềm đau thương .
Ô Giang vó ngựa ngập ngừng
Cùng đường Hạng Vũ, đoạn trường Ngu Cơ .
Anh hùng lệ cũng sa mưa
Em ơi lệ ấy bây giờ đang rơi .
Câu Hỏi
Lò cừ nung nấu sự đời
Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương …..
Khóc tình tang, xót tình thương
Giữ tình ta nhé, đoạn trường vẫn yêu .
Áo vân em gửi mây chiều
Chiều nghiêng mây bạt, chiều xiêu mây về .
Lửa đời nấu mộng, nung mê
Em nghe câu hỏi não nề không em ?
Nhà Tù Số 4 Phan đăng Lưu
Nằm trong khám tối âm u
Buồn nghe đêm lạnh sương mù sa mưa
Bồi hồi tưởng mái nhà xưa
Ngày đi đã nát, bây giờ ra sao?
Thương em nhạt phấn, phai đào,
Đêm đêm trở giấc chiêm bao một mình.
Ngủ đi em, mộng bình minh
Mưa bao nhiêu giọt là tình bấy nhiêu.
*
Nằm trong khám tối nghe mưa
Đêm nào cũng thấy đêm thừa trống canh
Thương nhau nên ngủ không đành
Nhớ nhau nhưng mộng không thành, em ơi.
Anh nghe từng tiếng lệ rơi,
Biết em đang khóc nên trời đổ mưa.
*
Đêm đêm nghe tiếng tắc kè
Tưởng như tiếng gọi “Sắp về ..!” bên tai .
- “Sắp về ..!” nghe suốt đêm dài
Mơ màng cũng ấm lòng ai muốn về.
- “Sắp về ..!” nhờ chú tắc kè
Lòng ta dịu nỗi não nề thương đau.
Ngày về quyết chẳng quên nhau,
Mua ngay tặng chú một bầu rượu ngon.
Gửi người thiếu nữ ở Xà-lim bên cạnh
“Bầu ơi thương lấy bí cùng”
Tuy rằng khác vụ nhưng chung một nhà.
Xà-lim ngăn cách đôi ta
Thấy em thì thấy nhưng mà thấy thôi
Thương em gan ruột bồi hồi
Muốn kêu một tiếng xé trời – “ Thương em …”
Tại Sao
“Hốt tình, hốt vũ, thiên vô định
Vi hải, vi tang, địa diệc lao …”
Thay đổi nào ai biết tại sao?
Tại sao? Câu hỏi tự khi nào?
Cũng buồn, cũng giận trời mưa tạnh
Cùng khổ, cùng đau đất biển dâu.
Ai thua, ai được, người điên tỉnh
Khi còn, khi mất, vật thương đau.
Hỏi sao thay đổi, sao mưa tạnh?
Đất dại, trời ngu có biết đâu !
Hỏi Đỗ Phủ
“Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc thâm
Cảm thời hoa tiễn lệ
Hận biệt điểu kinh tâm”.
Ôi Thơ Đỗ Phủ ngàn năm
Sao tình phương bắc, trời nam ta buồn!
Vượn kêu ba tiếng lệ tuôn
Vượn kêu trăm tiếng ta còn gì đâu?
Cảm thời hoa cũng thương đau
Biệt ly, chim cũng qua cầu đắng cay.
Nhà tan, sông núi sao còn đẹp ,
Nước mất, thành xưa ai thấy xuân!
Ai mơ Trang tử, mê hồ điệp,
Ai mộng công hầu, mị giả chân?
Ta đọc Đường thi, thương Đỗ Phủ,
Cảm thương người hay cảm thương thân?
Người lạc Quì Châu, liêu Kiếm Các
Ta sinh Hà Nội, sống Sài Gòn
Cuối thu sông khói, thuyền cô tịch
Người nhớ quê nhà giọt lệ tuôn .
Quê ta đất giải hai ngàn dặm
Đỏ nọ, vàng kia mấy chục năm
Thân làm Do Thái mơ Thành Cổ,
Mà Cổ Thành không chỗ đặt chân.
Người dâng kế sách, công danh bạc.
Ta viết ngàn trang truyện não nề.
Thế loạn người thương đời đói rét,
Tàn trận ta sầu cuộc chuyển di.
Công hầu đệ trạch giai tân chủ
Văn vũ y quan dị tích thì.
Được thua, còn mất, kim như cổ,
Riêng có Thơ ngàn thuở vẫn Thi.
Khi ai đó đã lên Cung Nguyệt,
Ngọc Thố, Hằng Nga đã bắt đi.
Ai nằm gác lạnh, ôm đêm lạnh,
Nghe tiếng thời gian chậm bước đi?
Hồn ai địa chấn, tim lôi vũ,
Nghe đáy mồ xưa quỉ xướng thi !
HOÀNG HẢI THỦY
Thơ làm ở Sài Gòn những năm 1977. 1978
--------------------------
nguồn:
© gio-o.com 2010
=================
=================
---------------------------
trích lại từ BLOG PHAN NGUYỄN
==============================
trích lại từ BLOG PHAN NGUYỄN
==============================
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ