Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2016

jane katz phỏng vấn nhà văn 'boat writer' mai thảo [1930- 1998] / jane katz (blog anhbasam)

tựa chính, 'hành trình tự do, nhà văn thuyền nhân mai thảo'
blog anhbasam


                                   jane katz phng vn nhà văn
                             boat writer mai tho (*)
                                                                         jane katz



                                           ảnh 1- trên xuống) : ARTIST IN EXILE American Odyssey
                                                                                                             /Jane Katz (USA, 1983)
                                                                 ảnh 2- 'To Mai Thao with gratitude for your beautiful
                                                                                                             interview'/ JANE (signed)
                                                                 ảnh 3 - BOLSA SENOIR APARTMENT: - khu chung cư  dành
                                                                          [cho người] cao niên; ở phía sau nhà hàng Song
                                                                          Long. (căn phòng 209, nơi ở  nhà văn Mai Thảo)
                                                                 ảnh 4 'Thế giới có triệu điều không hiểu/  Càng không
                                                                       hiểu lúc cuối đời ...'  được ghi trên mộ nhà văn MT.

                                                                                     (bìa sách + ảnh in kèm bài)
                                                                   ---
                                                                    * chỉ in phần Jane Katz phỏng vấn nhà văn Mai Thảo. (Bt)


                         Và sau đây là bản lược dịch ... từ nguyên bản tiếng Anh 'Những nghệ sĩ lưu vong/ Hành trình tới Mỹ quốc
                         (trích từ 'ARTIST IN EXILE/ American Odyssey /Jane Katz .  (Stein & Day Publishers/ New York,1983).


Tôi sinh năm 1930 [1927] tại tỉnh Nam Định, bắc Việtnam.  Cha tôi là một điền chủ thành đạt, ông được dân làng kính trọng.  Ông là chủ gia đình; mẹ tôi  ở nhà với những người giúp vệc.  Tôi và các anh em tôi đều rất tuân phục cha tôi.

Sau khi có người Tây phương xâm nhập, đã có tình trạng bất hòa giữa thế hệ trẻ và già.  Nhưng những người ngoại quốc ấy đã không thể phá vỡ nền tảng gia đình đất nước chúng tôi.  Đó là một trật tự lâu đời, không ai có thể hủy hoại.

Cha tôi quản lý các trang trại.  Ông giàu có, nên không để chúng tôi làm công việc đồng áng.  Tôi phải tới trường đi học, nhưng sau lớp học; thì tôi lại rong chơi ngoài đồng ruộng.  Với những con trâu kéo cày trên những thửa ruộng nơi châu thổ sông Hồng.  Đồng cỏ  thì phì nhiêu, xanh tươi.  Một số người trong làng làm công cho cha tôi; một số khác có ruộng đất riêng của họ.

Dân tộc tôi yêu đất đai; họ tin rằng có hương hồn tổ tiên trong đó.  Mọi gia đình đều làm việc ngoài đồng áng; không có ai phải đói kém.

Khi tôi 10 tuổi; thì cha tôi mất hết ruộng vườn.  Gia đình tôi phải rời về Hànội.  Thật khó khăn cho cha tôi phải rời bỏ đất đai của tổ tiên + làng mạc.  Trong làng, ông quen hết mọi người.  Ông đã có một căn cước ở đó; mà, ông không thể tìm thấy lại nơi thành phố.

Ở Hànội, tôi được thấy thành quách+ những ngôi chùa cổ; qua các triều đại, từ thế kỷ thứ VIII và thứ X.  Một ngôi chùa có tên Ngọc Sơn, một ngôi khác có tên là Quán Thánh.  Trung tâm thành phố là một hồ lớn; nơi mọi người gặp nhau, sau một ngày dài làm việc.  Vào màu hè, chúng tôi đi biển.

Cho dù sống ở đô thị, chúng tôi vẫn giữ các tập tục cổ truyền: như kính trọng người già; tưởng niệm các ngày lễ theo truyền thống.

Tinh thần quốc gia là một phần của truyền thống Việtnam.  Trong 1000 năm, người Việt bị người Tàu đo hộ; với ảnh hưởng trên nền giáo dục+tư tưởng; nhưng chưa bao giờ người Việt bị khuất phục. 

Tới thế kỷ XIX, khi người Pháp đánh chiếm nhiều tỉnh của Việt nam; thiết lập nền hành chính đô hộ, mở trường học+ các cơ sở dân sự địa phương.

Năm 16 tuổi, tôi gia nhập phong trào kháng chiến chống Pháp.  Chúng tôi tổ chức chương trình ca nhạc kịch, trong các làng xóm; để khích động lòng yêu nước.  Chúng tôi viết những câu chuyện về lịch sử + khát vọng tự do.

  Tôi đã từ bỏ kháng chiến 4 năm sau; khi biết được CS đả sử dụng phong trào kháng chiến, để phá vỡ trật tự xã hội cổ truyền; và, cổ võ cho đấu tranh giai cấp.

Chiến tranh Việt Pháp chấm dứt năm 1954; đất nước bị phân đôi.  Gia đình chúng tôi di cư vào Sàigòn.  Đó là một hình thức phản kháng những người CS.  Cha tôi không tin họ; và họ cũng không tin cha tôi ... (*) Trí thức thì bị khống chế; và thường bị cưỡng bức vào quân đội.
---
*  ... -- tạm lược một số chử; có thể nhiều, hoặc ít. (Bt)

Từ năm 1958; khởi sự có đối đầu công khai giữa 2 miền Việtnam : miền Bắc là chế độ CS, hậu thuẫn bởi Trung Cộng+ Liên Xô; và, miển Nam không Cộng sản, hậu thuẫn bởi Hoa Kỳ + các nước đồng minh.

   (...)

Trí nhớ của tôi về những năm chiến tranh còn rất sống động.  Tôi vẫn còn thấy được những căn nhà bị đánh bom, cây cối thì cháy lá trơ cành.  Một ngôi đền cổ bị bốc cháy; những trẻ con bụng ỏng, mất mắt, cụt chân; bà cụ già không nhà cửa đi lang thang như người mất hồn .

Tôi viết văn từ năm 1950. Ở xứ sở tôi; nhà văn + nhà giáo rất được kính trọng.  Sách của tôi được các công ty nhỏ tư nhân xuất bản ở miên Nam Việtnam, rất phổ biến -- một số sách đã trở thành 'best-sellers'; nhưng để sống bằng nghề cầm bút rất khó.  Tôi viết rất nhiều truyện+ tiểu thuyết.  Chúng tôi không có nhiều dịch giả; các sách của tôi không được dịch ra ngoại ngữ.  Tôi cũng làm chủ bút một vài tờ báo + tập san văn chương.

Tôi  rất thích thú đọc các nhà văn Mỹ: Henry Miller, Hemingway, John Steinbeck; qua các bản dịch tiếng Pháp. Các tác giả này không ảnh hưởng tới văn phong tôi.  Nền văn học cúng tôi rất khác; chúng tôi có truyền thống văn học riêng, từ ngàn năm.  Nền văn học húng tôi rất quy cách, với mục đích 'thăng tiến xã hội'.

Có một truyện ngắn tôi đã viết; và, ưa thích có tựa đề 'Bản chúc thư trên ngọn đỉnh trời' .

 Một người đàn bà + một người đàn ông chung sống trong một căn nhà nhỏ bên suối.  Người đàn bà không hiểu tại sao người đàn ông đã bỏ đi.  Hành trình người đàn ông là leo lên tới đỉnh cao nhất; của một ngọn núi phương Đông.  Ông muốn biết ngọn núi cao bao nhiêu; đi tìm kiếm một chân lý tuyệt đối + hạnh phúc.  Khi tới được đỉnh cao nhất ngọn núi; thì, ông ta tuyệt vọng; vì ý thức được rằng 'chân lý tuyệt đối không bao giờ có thể đạt được'.  Người đan bà đi tìm kiếm; thấy xác người đàn ông nằm bên bờ suối.  Không ai biết người đàn ông đã chết [ra sao].  Người đàn bà đưa xá về làng; tự hỏi 'tại sao người đàn ông chết'.  Và cuối cùng, người đàn bà nghiệm ra 'trên đường đi tìm chân lý, người đàn ông đã chọn cái chết'.

Như một nhà văn, tôi đề cập vấn đề nhân sinh; không có ý đi tìm một giải pháp.  Đa số sách + truyện của tôi dựa trên kinh nghiệm bản thân; [hoặc] của những người tôi quen biết.  Sự kiện ghi nhớ trộn lẫn hư cấu; văn phong (style) là điều quan trọng.

Người Mỹ rút khỏi Sàigòn năm 1975.  Do các bài viết chống Cộng trước đó; tôi bị liệt kê trong 'sổ đen' những nhà văn có nguy hại cho chế độ.  Hầu hết các nhà văn có tên trong danh sách ấy; đều bị bắt đi tù -- nhiều người bị chết trong tù, vi thiếu ăn, thiếu thuốc men.

Cộng sản ra thông báo: 'bất cứ ai tán trợ những nhà văn có tên trong 'sổ đen'; sẽ bị bắt giữ'.  Hệ thống an ninh của họ rất chu đáo. Họ chỉ định những người hàng xóm canh chừng nhau,[rồi] báo cáo lện chinh quyền địa phương. Nhưng vẫn có nhiều người liều mạng; che chở tôi.  Họ che giấu tôi trong 8 căn nhà khác nhau, trong vòng 2 năm trời.  Tôi sống trong căn hầm tối; vì bất cứ ánh sáng; [hoặc] sinh hoạt nào bị hàng xóm phát hiện, sẽ gây hiểm nguy  cho gia chủ.  Phải là những căn nhà không có trẻ em; vì các gia đình luôn luôn dạy con em không được nói dối. Cộng sản đã lục soát một số nhà; nhưng không hiệu quả -- và, họ đã không tìm ra tôi.

Tôi sống như một con vật trong bóng tối; ẩn mình trong suốt 2 năm.  Có những đêm mất ngủ; những ngày giống nhau buồn chán. Một người ban đem đến cho tôi [một] cỗ mạt chược; tôi chơi một lúc ở cả 2 phe.  Đôi khi quá tuyệt vọng; tôi phải tìm cách ra ngoài một cách bí mật trong đêm.  Đôi khi; tôi không thể tưởng tượng rằng đã phải sống trong những điều kiện như vậy.  Có lúc tôi cảm thấy tuyệt vọng; và, tưởng tượng rằng đã phải sống trong những điều kiện như vậy; tưởng tượng [ra] sẽ có một giấc ngủ dài, không trở dậy nữa. 

Những người Việt có thói quen chịu đựng [để] vượt qua. Tôi sâu sắc cảm thấy 'nhà văn là xã hội+ quần chúng; mà họ đang sống [cùng]'.  Với những người đã cùng nhau hợp tác cứu sống tôi; tôi thấy mình phải can đảm [sống]; để xứng đáng với sự trợ giúp, mà tôi đã nhận. 

Tôi không phải là Phật tử; dù gia đình tôi theo Phật giáo.  Là một nhà văn + một người suy tưởng; tôi phải nhìn lại đời sống mình; và cố gắng tìm ra ý nghĩa. Trong nhiều giờ mỗi ngày; tôi đã tịnh tâm+ suy niệm.   Đặc biệt trong hoàn cảnh như vậy; người ta phải di tìm sự thật + ý nghĩa cuộc sống.  Tôi đã có cơ hội đó; tin rằng mỗi chúng ta có một Thượng đế trong chính mình.  Một người có thể tự cứu rỗi đời sống chính mình; qua những hành động + suy nghĩ.  Sự tỉnh thức này luôn luôn có trong tôi.

Cuối năm 1977; có các tổ chức tư nhân giúp người vượt biên.  Họ liên lạc với tôi; bảo tôi cứ chờ ở nơi đang ẩn lánh.  Tôi hiểu rằng đào thoát là một dịch vụ tốn kém; [riêng] tôi không có [lấy] một xu.  Tôi không có cách nào liên lạc với gia đình; mà không gây nguy hiểm cho họ.  Tôi [vẫn] chờ đợi -- [thì] một đêm tối trời,[có] một người mặc áo đen đi xe Honda, [đợi] ở dưới một giốc cây sau căn nhà hướng dẫn tôi ngồi lên xe gắn máy;[rồi] lặng lẽ chạy ra hướng bờ sông Sàigòn -- nơi có một chiếc thuyền đánh cá nhỏ đang chợ.  Tôi được [dặn là]
'nên chèo ghe; giả bộ như một ngư dân'.  Sau 2, 3 giờ đồng hồ; tôi được chuyển sang một thuyền máy trên biển.  Bây giờ thì người đàn bà chủ tàu bảo: 'tôi có thể hút thuốc'.  Tôi nhìn một lần chót thành phố Sài 'gòn, bật khóc; vì hiểu rằng 'tôi chẳng còn bao giờ thấy [Sài 'gòn] nữa'.  Người dân miền Nan hết sức gắn bó với một thành phố  mang tên Sàigòn. Tôi có cảm tưởng đã quay lưng vơi di sản chính mình.

Trên biển cả; tôi có cảm giác được phóng thả.  Tôi đã là một con người tự do.

Đó là một đêm tối đen, không trăng.  Chúng tôi ra được biển khơi; nhưng lại có một cơn bão thổi tới; từ Phi-luật- tân [Philippin] vật vã con tàu nhỏ; bắt buộc chúng tôi phải trở lại bờ.  Tôi trở lại nơi ẩn náu.  Vài ngày sau đó, tôi được tin cha tôi chết' ở tuổi 82.   Đối với tập tục Á đông; một đứa con phải về chịu tang bố mẹ; hoặc, mang tội bất hiếu. Nhưng các anh tôi khuyên tôi không nên về nhà; và, điều ấy làm [tôi] dịu nỗi đau.

Rồi có một chiếc xe gắn máy khác tới trong đêm tối.  Chuyến đào thoát thứ 2 [này] nguy hiểm hơn lần trước. Chiếc thuyền đánh cá nhỏ đưa tôi tới một chiếc chòi; tôi phải núp ở đó suốt 2 ngày, trong vùng xình lầy có cây che khuất.  Cuối cùng; thì một chiếc ghe tới đưa tôi ra khơi trong đêm tối; [sau] được huyển qua chiếc tàu đánh cá lớn .  Bất chợt, có một tín hiệu đèn; và không có một tiếng động: 'đó là một tín hiệu có nhiều may mắn'.  Tôi bước lên một con tàu có sức chứa 20 người; nhưng số người len tàu là 58. Chúng tôi phải rất tiết kiệm nước+ gạo; vì không [còn] chỗ chứa [thức ăn].  Mọi người ăn uống rất ít; không có ai chết.

Trên tàu có những người tị nạn chính trị, sinh viên học sinh, người già, các gia đình+ trẻ thơ. Chúng tôi trải qua 6 ngày đêm.  Mọi người đều đói khát. Khi chúng tôi tới gần Mã lai [Malaysia]; biển ặng, trời trong, mọi người bắt đầu cất tiếng hát.  Họ yêu cầu tôi ngâm một bài thơ; tôi đọc một bài thơ của một người bạn nói về 'một người đàn ông rời nhà ra đi; không có một ai tới nói lời giã từ'. 

Tới Malaysia; họ không muốn tiếp nhận chúng tôi.  Các giới chức tỏ vẻ không thân thiện; do có quá nhiều tàu tỵ nạn tới đây.  Là một quốc gia nghèo; họ không thể cưu mang tất cả.  Mỗi lần [tàu] chúng tôi cố cập bến; họ đẩy chúng tôi ra xa.  Cưới cùng, một ngư phủ Malaysia ra dấu cho chúng tôi: 'cứ ủi tàu vào bãi; nếu tàu bị hư hại, thì họ phải nhận chúng tôi'.

  Đã làm như vậy; và có hiệu quả [thật]. Con tàu chúng tôi bị vỡ; chúng tôi giúp trẻ em+ người già bệnh hoạn lên bờ.  Viên chức cứu trợ Liên hiệp quốc tới gặp chúng tôi: 'tặng tiền để chúng tôi mua thực phẩm'.  Món hàng đầu tiên mà tôi mua là một bao thuốc lá. Họ đưa chúng tôi tới trại tỵ nạn.  Trại rất đông; nhưng có đủ thực phẩm+ lều trú; và, chúng tôi thì tự do.  Chúng tôi không bị giam hãm trong trại.  Tội bắt đầu yêu mến người dân Malaysia.  Trong trại có đài phát thanh; tôi được yêu cầu viết một bài đọc [để] trên chương trình. 

Tôi cũng [được cử] giữ chức chủ tịch trại.

Tới Mỹ, đã có 2 em tôi ở đó -- và, tôi cũng quen biết một số nhà văn Việt nam tới trước.  Bây giờ, tôi đang viết về kinh nghiệm của chính mình.  Hy vọng các tiểu thuyết của tôi được dịch sang tiếng Anh; và tôi cũng đang vận động trả tự do cho các văn nghệ sĩ còn bị cầm tù ở Việt nam.  Toi e rằng: 'nền văn học nghệ thuật của chúng tôi sẽ bị tiêu vong'.

Tôi gửi tiền về cho mẹ tôi, cũng mong bà sang đây; nhưng bà [lại] không muốn là gánh nặng cho các con ở Mỹ. Và, bà cũng không muốn chết ở một nơi xa quê nhà.

Tôi muốn nói với thế giới rằng: '20 năm chiến tranh đã tàn phá đất nước tôi.  Nhà cửa có thể xây dựng lại; nhưng vẻ đẹp của đất đai + tâm hồn dân chúng thì không.' 

Khi chúng ta đang nói chuyện nơi đây [với Jane Katz]; [thì] sự hủy hoại vẫn tiếp diễn dưới chế độ CS.

Có lẽ một ngày nào đó: 'Việt nam sẽ tự do, tôi có thể trở về'.  

Tôi đang hạnh phúc ở đây; nhưng nội tâm thì rất buồn bã.  Buồn cho dân tộc tôi. Tôi không biết 'liệu chúng tôi còn có một tương lai. Xa rời quê hương thật khó; mà, duy trì truyến thống của chúng tôi. Chúng tôi như cảm thấy như bị đánh mất phần hồn'.   ...

 jan katz
 NGÔ THẾ VINH  lược dịch

 https://anhbasam.wordpress.com/2016/12/11/11-000-hanh-trinh-den-tu-do-nha-van-thuyen-nhan-mai-thao#more-178906 


0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ