Thứ Sáu, 22 tháng 10, 2021

đọc thêm (3) : " Phạm Công Thiện (1941- 2011 ) -- source : http://phanguyenartistblogspot.com/

 


Thursday, 14 August 2014

Phạm Công Thiện (1941 - 2011)















Phạm Công Thiện

Pháp danh: Nguyên Tánh
(1/6/1941 - 8/3/2011)
Hưởng thọ 71 tuổi
Học giả, Nhà thơ, Nhà văn, Dịch giả, 










Phạm Công Thiện sinh năm 1941 tại Mỹ Tho.
Là một học giả, nhà văn, nhà thơ, cư sĩ Phật giáo, một người tự học (autodidacte) được xem là một triết gia thần đồng, một hiện tượng dị thường của miền Nam Việt Nam những năm 60 của thế kỷ trước.
Từ 13 đến 16 tuổi ông là cộng tác viên của Tạp chí Bách Khoa.
Năm 15 tuổi, đã đọc, viết năm ngoại ngữ Anh, Pháp, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha và đã cộng tác với các báo Bông Lúa, Phổ Thông, Văn, Giữ Thơm Quê Mẹ v.v 
Ngoài ra ông còn biết tiếng Sanskrit và La Tinh.
Năm 16 tuổi, Phạm Công Thiện xuất bản cuốn tự điển Anh Ngữ Tinh Âm
Năm 1960, 19 tuổi ông khởi viết cuốn Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học. Thời kỳ này Phạm Công Thiện viết nhiều sách về Phật Giáo.
Năm 23 tuổi ông là giảng viên môn Triết học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, dù chưa thi Tú Tài và chưa học trường Đại học nào.
Cũng năm 23 tuổi ông đã nổi tiếng với cuốn Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma, Tổ Sư Thiền Tông.
Đến năm 26 tuổi ông đã viết hàng chục cuốn sách Triết học, Tiểu luận và Thơ
Đầu năm 1964, ông chuyển ra sống ở Nha Trang và quy y ở chùa Hải Đức, lấy pháp danh là Nguyên Tánh.
Từ 1966 đến 1968, ông là Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa tại Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn, và giữ chức Trưởng khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện, đồng thời là người sáng lập và chủ trương tạp chí Tư Tưởng.

Phạm Công Thiện rời Việt Nam năm 1970 và sinh sống tại Pháp, tại đây ông trút bỏ áo cà sa và lấy vợ 

Ông sang Hoa Kỳ năm 1983, định cư ở Los Angeles, dạy lý thuyết Phật giáo tại College of  Buddist Studies và tiếp tục viết sách, phần lớn nghiên cứu về đạo Phật.

Ngày 8/3/2011, ông qua đời tại Houston, Texas, Hoa Kỳ
Hưởng thọ 71 tuổi.




























Tối hôm kia thức suốt đêm và bù lại tối hôm qua ngủ lại trọn đêm. Giấc ngủ vô cùng cần thiết như cái chết vô cùng cần thiết cho đời sống. Thử tưởng tượng mình mất tất cả những gì mình đang có trong giờ phút nầy thì mình mới có được cái nhìn thân yêu đối với tất cả mọi sự đang xảy ra tại chỗ.
Mỗi một ngày là một đời sống thâu gọn, không có đời sống nào khác trong thế giới này, ngoài ra mỗi ngày và mỗi đêm duy nhất.

Ngày mai lại là một ngày và một đêm.


Mỗi ngày là một giây phút và mỗi đêm là một giây phút vừa lướt qua và đang tới. Tất cả vĩ đại linh thiêng, qúi phái, thơ mộng, tuyệt đẹp, chỉ nằm trong một phút giây phút, một cái nhìn trong giây phút, một sự im lặng trong giây phút, một ý tưởng trong giây phút, một cảm giác trong giây phút, một sự nhàm chán trong giây phút, một sự cô độc trong giây phút, một sự mệt mỏi muốn bỏ cuộc chỉ xảy ra trong nhấp nháy; chỉ cần một hơi thở nhẹ nhàng trọn vẹn cũng đủ để chuyển hóa sự thất bại thành ra sự phong phú tràn trề của một cánh đồng hực lửa khi mùa xuân đang tới. 



Hốt nhiên thấy mọi sự đều thơ mộng trong giây phút này, những lời những tiếng tới tấp hiện đến, tất cả những gì xảy ra đều linh thiêng, cảm thấy thương hết tất cả, thương hết những gì động đậy trên mặt đất và ngoài cả mặt đất; mỗi sự sống đều động đậy và ngay đến sự chết cũng động đậy, cái gì động đậy thì có tiếng, có âm thanh, dù là sự im lặng cũng có tiếng và có âm thanh; mỗi một chữ xuất hiện thì một tiếng cất lên và một thế giới sinh thành hoại diệt, rồi thì tất cả mọi sự đều "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu", một trong những cao siêu nhất của Khổng Giáo; tất cả đều đáp ứng kêu gọi nhau; sự nông cạn kêu gọi sự sâu thẳm, thế giới này kêu gọi thế giới khác ...




Trích đoạn: Những ngày hoang vu trên mặt đất



Phạm Công Thiện 

























Phạm Công Thiện lúc trẻ 









































Tác phẩm đã xuất bản













1
Tiểu Luận Về Bồ Đề Đạt Ma



nxb Tân-Ý-Thức
(1964)

















2
Ý Thức Mới Trong Văn Nghệ Và Triết Học 


nxb An Tiêm
1965

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8401&rb=08











3
Trời Tháng Tư 

nxb An Tiêm
(1966)










































4
Ngày Sinh Của Rắn 



nxb Hoa Nắng
(1967)








Ngày Sanh Của Rắn











I



tôi đi đông chìm
trời âm u thung lũng khô
nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi
dưới kia sụp đổ
núi cấm nổ tôi ra
cửu long ca từ tây tạng
tôi về
tôi hiện
đèn tắt trời gió tắt trăng
chim lạ
kêu tiếng người
hố thẳm ra đời
tôi bay trên biển 





II 



tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
nước chảy lên vùng phố tịch liêu
tôi nhớ một lần cây quế mọc
tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều 





III 



mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bông 





IV 



trời mưa nữu ước cây mọc
nhớ hương trời mưa ngày tháng
nhớ hương đường hoang mái vắng
nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ
tim anh tràn máu
con chim đã bay về rừng đạn
anh không còn làm tu sĩ
anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương
đổ vào tám tách cà phê đen anh uống mỗi đêm
tại greenwich village
tại làng thi sĩ
tại đường khói bay
tại hương trong giấc ngủ
tại chiều ba mươi tết ở việt nam
bây giờ anh xa hương đến mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời hương khóc
hương còn ca hát
hương còn phơi áo giữa phố buồn
hương còn cười
mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ quế hương
tóc anh mọc dài
che chở hương
lúc mưa rơilúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê ý đại lợi
trên chiến tranh
của quê hương
của quế hương
còn anh 





rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng 
đợi kinh đào chảy ngược 
cửa nhỏ đóng kín 
những chiếc cầu tuổi dại 
mười sáu năm tôi thức trong đời 
mười sáu con kinh đào không bao giờ chảy ngược 
đứng ngang cầu pont-neuf 
nhìn sông seine tôi thấy cửu long 
paris đuổi mất mây mộng hoang đường 
đập vỡ cơn điên trên triền đá sương 
tôi trốn giặc đời 
tắm trong hồn hương 
trái đu đủ 
trong khu vườn xưa 
con rắn nhỏ 


VI 

tôi chấp chới 
đắng giọng 
giữa tháng ngày mơ mộng 
nốt ruồi của hương 
hay nốt ruồi của rigvéda 
tôi mửa máu đen 
trên nửa đêm paris 
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng 
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người 
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ 
mặt trời có thai! 
mặt trời có thai! 
sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt 


VII 

tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire 
từ xóm saint-germain-des-prés 
mọc lên giáo đường hang động 
cà phê biến hồn đầu thai 
hoá thành một triệu con ma đen 
nhảy múa trên núi lửa đầu tôi 
tôi mặc đồ xanh 
và mang đồng hồ da đen 
tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên 
trong sáu diêm quẹt còn rớt lại 
tôi gọi hương và tôi chết giấc 
tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm 
máu đổ mưa đen 
ồ cây mồng tơi 
của thời trẻ dại 
tôi gọi thầm 
rắn cuộn tròn 
tương lai 


VIII 

mười năm qua gió thổi đồi tây 
tôi long đong theo bóng chim gầy 
một sớm em về ru giấc ngủ 
bông trời bay trắng cả rừng cây 
gió thổi đồi tây hay đồi đông 
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng 
trong mơ em vẫn còn bên cửa 
tôi đứng trên đồi mây trổ bông 
gió thổi đồi thu qua đồi thông 
mưa hạ ly hương nước ngược dòng 
tôi đau trong tiếng gà xơ xác 
một sớm bông hồng nở cửa đông 


IX 

rắn trườn vỡ trứng chim rừng 
tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm 
khuya buồn tủi nhục môi em 
mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ 
tiếng ru chín đỏ điện thờ 
hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu 
tay còn ôm giữ tình yêu 
tôi về phố động những chiều hư vô 
đời đi trên những nấm mồ 
đau tim em hát cơ hồ khăn tang 
phố chiều tôi bước lang thang 
nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh 
nửa đêm khói đốt đời anh 
yêu em câm lặng khô cành thu đông 
lời ca ru cạn dòng sông 
trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên 
bỏ mình nước chảy đồi tiên 
theo con chim dại lạc miền thiên hương 
về đâu thương những con đường 
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa 



mùa xuân bay thành khói 
tôi ca hát một mình 
suốt đời không biết nói 
nước chảy tràn con kinh 
quá khứ bay lên trời 
biến thành cánh chim non 
tôi quì hôn lá mới 
đau khổ trắng linh hồn 
hư không đổ ra khơi 
kỷ niệm trôi qua cầu 
bãi chiều chưa người tới 
tình nhỏ quên từ lâu 
xuân bay trắng núi đồi 
tôi nằm ngủ mơ chim 
bỗng hét lên trong tối 
ngồi thức dậy bảy đêm 
trời cuối năm gác trọ 
đèn tắt suốt đêm dài 
con chim mười năm nhỏ 
bay về đậu nơi đây 
hơi thở giết thời gian 
bướm nằm chết thang lầu 
tiếng chim ru ngày tháng 
máu chảy về sông sâu 
suốt đời không biết nói 
tôi ngồi thức một mình 
đốt thuốc lên nhìn khói 
đêm rạng điềm hư linh 


XI 

tôi lái ô tô buýt giữa thành phố new york 
mỗi ngày tôi lái ô tô buýt đi trên những con đường không người những con đường chim chết 
những con đường của mỗi ngày 
từ riverside drive đến broadway đến đại lộ thứ năm rồi đến washington square 
công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát 
từ greenwich village tôi đi về chinatown 
mười lăm xu mỗi chuyến 
xa hay gần hay mau hay chậm 
tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc không mây 
mùa lá hay mùa kèn nửa đêm 
dong buồm thổi đến honolulu lặng gió 
xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm 
tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước 
chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài 
trên những con đường mỹ châu trống rỗng 
chuyến xe không về harlem đói lửa 
vì mỹ châu trống rỗng trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay hương khóc 
tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối 
đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác 
tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa nhà mồ mỹ châu lạnh lẽo mưa đen 
đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt 
giữa con đường 42nd hay times square 
tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời vẫn mọc trên rắn lửa 
trên mái ô tô buýt chiều thu 


XII 

buổi chiều mưa đụng tim 
mưa đụng máu 
đèn đường đổ xuống nước xanh 
xin hét lên rừng u minh đầu đông 
tử hình trong ngục 
nhốt vào trong ngục 
suốt đời trong ngục 
khói vóc lửa núi 
nhóm nước đầu thu 
xin đừng nói 
lá chuối 
lá me non 
xanh nhà thương 
ngồi trong thành phố 
hoa trắng không còn 
con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày 
chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ 
bông trắng quá nhỏ 
buổi chiều ích kỷ 
con đường quá dài 
những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa 
một người hoạ sĩ thất tình 
nhân loại đều thất tình 
nói đi thật nhiều 
khoai tây 
lang thang ngược vòng những vũ trụ 
anh nói gì 
tôi không nghe 
xuống phố và lên phố 
chạy hun hút qua hai nghĩa địa 
cây trắc bá 
chôn vùi con chó nhà ga 








Thủ bút Phạm Công Thịên


"Hiu hắt quê hương"

đoạn 8 tập thơ Ngày Sanh Của Rắn
đã được Nhạc sĩ Lê Uyên Phương phổ nhạc 
với tựa đề:



Tôi Đứng Trên Đồi Mây Trổ Bông


Thơ: Phạm Công Thiện
Nhạc: Lê Uyên Phương
Tiếng hát: Lê Uyên Phương



https://www.youtube.com/watch?v=uTgRtJobHC8


































5
Im Lặng Hố Thẳm 


(1967)
(1967)

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10033&rb=08












7
Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực 


8
Chỉ Còn Tiếng Thơ Trên Mặt Đất - Trở Về Rainer Maria Rilke


(?)

 (1969)
















9
Henry Miller

nxb Phạm Hoàng (1969)


















10
Bay Đi Những Cơn Mưa Phùn



(1970)







Thực Sự Hôm Nay





                                                 Truyện có nghĩa là gì? 

                                                             





Thực sự hôm nay tôi không còn muốn sống nữa. Tôi cũng không còn muốn tự tử. Tôi cũng không sợ chết. Đôi lúc cũng sợ chết, đôi lúc thôi. Cái chết đối với tôi như một chiếc xích lô máy. Nhiều lúc ngồi xích lô máy, tôi tự hỏi: tại sao nó không lủi vào xe nhà binh cho rồi; nhưng lại có nhiều lúc khác, ngồi thúc chân trong chiếc xích lô máy, nhìn lên một chút trời nắng, tôi thấy rằng sống lờ phờ cũng vui và dễ, như đèn đỏ tắt thì đèn xanh cháy lên. Đỏ và xanh, sống và chết, vui và buồn, yêu và ghét, tôi bỗng thấy ghét mấy chữ “và” này. Và thế rồi một buổi chiều, tôi thấy yêu chữ “và” này. “Và thế rồi”, ba chữ này, ba tiếng này, tôi nghĩ rằng không thể tìm được một loạt chữ nào ở thế giới khả dĩ gọi lại tất cả lù mù hiện lên trong đó. Và thế rồi, không có quyển sách nào ở thế giới mà không lệ thuộc vào điệu cải lương: “và thế rồi...”, thế mà không ngôn ngữ nào ở thế giới có được âm thanh leo xuống và kéo dài ra như một con sông chảy ngược. Âm thanh bắc thang, tôi muốn viết một cuốn tiểu thuyết lãng mạn như thành phố Đà Lạt, mang nhan đề là “âm thanh bắc thang”. Ngày nhỏ, mỗi lúc em tôi làm lỗi, tôi bênh vực nó và mẹ tôi hay nói: “Mầy đừng bắc thang cho nó leo”. Thuở đó, tôi hay giựt mình và lấy làm lạ: “Tại sao không có thi sĩ nào dùng kiểu nói bắc thang để bênh vực cho mùa hạ?”. Tôi ghét mùa hạ và thích viết một quyển tiểu thuyết thực lạnh, không phải lạnh hiểu theo nghĩa bóng mà lại là thứ lạnh thực đen, lạnh vô cùng lạnh. Tôi lại thích viết một quyển tiểu thuyết mà nhân vật chính trong đó hay thích dùng mấy chữ “vô cùng”. Thí dụ bây giờ trưa và trời lại tối vì sắp mưa, nhân vật chính ấy đi vô đi ra trong nhà và nói lí nhí trong đầu: “Đời sống sao khó hiểu vô cùng, nhưng mình phải chịu đựng, dù sự chịu đựng ấy quả là vô cùng. Ngày mai, tôi sẽ bắt đầu lại, yêu mọi sự, ông sẽ chết, tôi và ông sẽ chết, tôi buồn vô cùng”.
— Tại sao hồi nhỏ ông hay giựt mình?
— Khoan khoan đã, ông hãy để nó giựt mình, để tôi kể tiếp...
— Hãy kể tiếp, chậm rãi, hãy kể một cách bình thản.
— Tôi nói đến đâu rồi?
— Vô cùng...
— À, mà ông biết xích lô máy là cái gì không?
— Ở Nữu Ước không có loại xe này, nhưng ông hãy kể tiếp về nhân vật yêu thích dùng mấy chữ “vô cùng”...
— Ở xứ tôi có xích lô đạp, rồi đến xích lô máy...
— Thôi, đúng giờ rồi, ngày mai, ông trở lại đây như thường lệ.
Tôi xô cửa, cửa nặng quá xô muốn té nhào. Chuyến xe lửa chiều nay chạy băng qua trên đầu tôi, tôi bước xuống hầm xe lửa, mua một đồng xu nhỏ bỏ vào máy, đi vào hầm đợi, đi trờ tới chỗ bán báo của ông Mỹ bụng phệ, mặc áo ca rô xanh đỏ, đeo kính trắng. Tôi dở tờ Playboy ra đọc mục lục, thấy bài phỏng vấn mục sư Martin Luther King và ngó sơ qua những hình đầm mộng mị. Đại khái cũng thế thôi, mỗi khi tôi tự bắt chợt mình đang làm chuyện cấm thì tôi liền độc thoại nội tâm: “Đại khái thì cũng thế thôi.” Thực ra,Playboy cũng chẳng có gì đáng gọi là chuyện cấm, nhưng đứng chờ xe lửa, bên cạnh ông Mỹ bụng phệ hút xì gà và chờ tôi trả tiền (vừa hút xì gà vừa chờ lấy tiền báo) thì tôi lại đồng hoá sự chờ lấy tiền của ông ta với chuyện chờ xe lửa của tôi; đứng lờ rờ ngó hình màu và bắt buộc người ta phải chờ mình như chờ xe lửa thì đó cũng là một thứ chuyện cấm đối với ý thức gương mẫu của một người “tự trọng”. Xe lửa rồ tới, tôi nhảy ngay vào cửa hé, ngồi ngay hướng thuận đi tới (ngồi nghịch hướng, chóng mặt chút ít). Hai người da đen đang đùa giỡn với nhau, anh lùn nhón người lên thọc thọc vào nách anh cao và nói một tràng bi bô, rồi cả hai cười ầm lên như khỉ (khỉ có cười không? Khỉ thường nhe răng. Hồi nhỏ đi sở thú, tôi hay lấy đá vụn liệng vào hạ bộ của mấy con khỉ và chúng nhe răng khè khè như ông kẹ. Từ đó, tôi bỗng thấy răng tất cả thi sĩ đều giống khỉ. Nguyễn Du là một con khỉ, một loại khỉ trắng, ngồi buồn trước thu phong). Tôi ngó chung quanh tôi, những người ngồi trong xe lửa đều giống khỉ hết, nhưng một loài khỉ không có đuôi và làm bằng sáp cứng. Khỉ bằng sáp mà cũng biết đi, biết đứng, biết nói và biết cười. Tôi cũng là một con khỉ, tệ hơn là khỉ nữa, vì tôi không biết cười, không biết nhe răng; ngồi trong chiếc xe lửa chạy giữa thành phố Nữu Ước mà tôi nhảy liệng từ nước này qua nước khác, từ Sài Gòn qua Hồng Kông, từ Bangkok qua Calcutta, từ Lhasa qua Téhéran, từ Cà Mau qua Mexico, từ lúc ba tuổi cho đến lúc hai mươi tuổi, từ mười sáu tuổi cho đến lúc tám mươi tuổi: tôi tưởng tượng mình là con voi già chống gậy đi lụm khụm trên những chiếc lá vàng, trông thơ mộng và mất dạy như chuyện cổ tích trẻ con. Tôi bước xuống xe lửa và leo lên bậc thang đá dẫn ra đường thứ mười bốn, tôi thả bộ đi xuống Greenwich Village. Vừa bước đi vừa tìm một hiệu sách chịu mua sách cũ, trong tay tôi có cả một túi ny lông, đựng năm quyển sách đóng bìa dầy, bìa cứng thực mới. Một cuốn nói về sự thông minh của loài khỉ đột, một cuốn Kinh Dịch được dịch ra chữ Anh, hai cuốn của Sayoran và một cuốn về thần học của Thomas D’ Aquin (lúc ấy tôi có ghi học mấy giờ về thần học thời Trung cổ ở trường đại học Columbia, một trường đại học mà tôi ghét đến độ muốn ăn trường trai luôn), tôi mới vừa mua năm cuốn ấy vào tối đêm qua, tiêu hết năm mươi dollars cuối cùng, sáng nay lại thèm uống cà phê, lại đói vào lúc trưa và lại không muốn chìa tay mượn tiền bạn bè nữa, tôi liền nghĩ ngay việc thủ tiêu năm quyển sách này với giá thật rẻ. Hiệu sách chịu mua sách cũ, trả tôi mười dollars để đổi lấy năm quyển sác tôi chỉ dở đọc sơ một quyển của Thomas d’ Aquin và phải nằm ngáp năm lần rồi ngủ quách với bầy chữ La Tinh vo ve trong tiềm thức). Văn minh ngàn năm của nhân loại bây giờ thực rẻ: chỉ việc vứt nó đi thì được mười mỹ kim. Với mười mỹ kim này, tôi được hai bao thuốc Pall Mall đỏ, hai buổi cơm sinh viên nghèo, ba bốn tách cà phê suốt đêm ở quán Feenjon (hay Feenjohn, tôi không rõ tên, có những tên đáng nhớ hơn như: Brooklyn, Jamaica, Untergang nhưng ngược lại khó nhớ rõ: I ging hay I king hay I jing hay là Y ching?)

Khi tôi bước vào quán cà phê Feenjon thì trời đổ mưa, đường bên ngoài ướt hết. Người đàn ông và người đàn bà ôm nhau hôn ngay lối đi còn sót lại trong quán cà phê. Tất cả bàn đều ứ người. Mùi thuốc lá ngầy ngầy bay sà vào mũi, có khác gì mùi giấy cũ pha một chút nước mưa trộn lẫn với mùa nóng có người phát thư ban đêm đi qua nhà với tay cầm đuốc đang khi người ta đốt vải rách liệng ra ngoài sân để đuổi tiếng ó ma lai kêu vọng lại từ bên kia rừng cây, bên kia đồi đá? Đà Lạt hiện ra giữa quán cà phê đông người vào một buổi chiều mưa Nữu Ước. Tôi đã làm gì cho tôi? Một chút nước mưa, một chút nước biển, một chút đá, một chút ham muốn, một chút đói bụng, đói, đói, đói, đói đủ thứ. Đói cả sự chết, đói cả sự đói, đói óc, đói tim, đói hai ngón tay cái, đói mười ngón tay (quên cắt móng, dính đất đen thui, dơ một cách dễ chịu đựng vô cùng).
— Tại sao không dọn cơm ăn đi, đói quá rồi.
— Chờ một chút xíu thôi.
— Chiều nay ăn cơm với su luộc?
— Có đậu nữa, giàn đậu chim bay về phá quá.
— Tối chạng vạng heo rừng đã về phá rau cải lung tung.
— Mầy sợ ma không?
— Ma lai hả?
— Ma, ma rừng, ma núi, ma truông, ma bờ, ma bụi.
— Đèn cầy còn hết, nhớ nhắc mai ra chợ mua thêm một hộp đèn cầy nữa, mua thứ đèn cầy lớn đó.
— Ừ mầy nhớ nhắc má mua đèn dầu lửa cho tao, tao cần thức đêm để viết bài đăng bào kiếm tiền tháng tới.
— Má có mua rồi, để ở đầu tủ sau giường anh đó.
— Hôm qua tao thấy ma hiện về, nó ngồi ngay cửa lớn, ca hát giọng gì lè nhè như con gà bị bóp cổ. Con ma nó nói nó đói quá, nó đòi ăn đèn cầy trắng...
Tôi chỉ là một con ma đói ở giữa thành phố lớn nhất thế giới. Quán cà phê này là nơi tôi lai vãng để tìm lại một chút khí dương giữa cõi chết. Đà Lạt và Nữu Ước. Đà Lạt gần gũi tôi hơn đang lúc bước vào quán cà phê ở Nữu Ước này. Tôi cần một chút Đà Lạt để sống, xin cho tôi một chút Đà Lạt, chỉ một chút, một chút thôi. Trời Nữu Ước trở lạnh, tôi cuộn khăn nỉ quanh cổ, đốt một điếu thuốc, ngồi giữa sự bình an của một mớ hình ảnh trong đầu. Một ngôi nhà to lớn, cũ, đầy rêu, nhện, chim và bồ câu, trước nhà có một hàng cây xưa cao vút và già như mấy cái cây thông rừng, ngôi nhà nằm trên một ngọn đồi ở ngoại ô Đà Lạt, trên đường đi về Dran. Một con bò nhai cỏ trườc nhà, trên cao là một đám mây. Tôi không còn nhớ mây màu gì? Mây ở Đà Lạt có màu khác hẳn tất cả màu mây ở nơi khác. Màu trắng? Không, một màu nào đó không có trong đôi mắt của người tình. Có lẽ là một màu nào đó trong mắt của người nhìn nước chảy, nước chảy trên cổ trắng thon thon của một người đàn bà vừa cắt tóc thật ngắn để trá hình trong một sự đổi thay của Định mệnh.

Tôi làm gì để sống bây giờ? Tôi không đòi hỏi gì hết. Tôi chỉ cần ăn hai bữa hay một bữa trưa cũng được, tôi cần một gian phòng nhỏ, một cái bàn viết, một cây viết và một xấp giấy trắng. Thỉnh thoảng cũng cần một chút trời mưa, mưa dai và dài cả đêm cả ngày, rồi lại nhiều ngày cũng cần có một vài chiếc lá xanh trong ly nước để trước mặt, không có lá xanh thì có cỏ xanh dài cũng được. Chỉ cần một chùm cỏ xanh để trong ly nước dựng nơi bàn viết là tôi đủ sinh tố để sống một trăm ngày trọn vẹn. Còn hoa? Tôi không dám đòi hỏi nhiều. Có hoa trong ly nước thì cũng đẹp, nhưng đẹp hơn vẫn là cỏ, cỏ héo cũng được vì cỏ héo thì cũng là cỏ, một thứ cỏ mặn mà như đất già. Hoa héo không còn là hoa nữa, giống như là đàn bà viết văn thì không còn là con gà ở rừng lúa nữa mà lại trở thành gà được nuôi bằng những thực phẩm hoá học nhập cảng từ Hiệp Chủng Quốc. Hoa héo là hoa héo, chấm một chấm xuống hàng.
Tôi đã hút đến điếu thuốc thứ mấy rồi? Năm nay là năm gì, năm của Thiên Đàng hay năm của Hoả Ngục? Không bao giờ tôi sống bình thường được, có nhiều lúc sao thấy thì giờ kéo dài ra như một người đàn ông cao gần hai thước và nằm dài trên cái giường một thước rưỡi — để hai chân lông lá thò thò dư dư ra. Có đôi lúc thì giờ giống như cây bút chì, chuốc hoài mà vẫn mòn đi, vì thân mềm như bún, bết trên giấy trơn tru như xe lửa chạy trên đồng bằng. Tôi cứ tự dạy: hãy bò thực chậm như đứa con nít bò trên sàn nhà, bò bằng hai tay và hai chân. Nhưng rồi bài học cũng khó thuộc: thường khi tôi muốn phóng nhanh hơn cả nai rừng. Tôi không chịu đi hai chân, không chịu chạy và cũng không chịu bay. Tôi muốn xẹt xẹt như làn chớp lúc trời bão. Xẹt trên trời một cái, xẹt dưới đất một cái, xẹt xuống con đường, cánh đồng, ngã tư, ngã ba. Rớt xuống một vệt sáng ở đây, ở đó, rồi tắt ngúm như lửa rạ. Viết văn không khác gì sống mỗi ngày, mỗi trang giấy trắng là mỗi ngày, muốn làm gì làm thì cũng bị nhốt vào trang giấy trắng, mỗi lần ngồi trước trang giấy trắng thì tôi chỉ lặp lại cái việc thức dậy mỗi buổi sáng, tôi ngồi thừ ra, lừ đừ như con vịt đực; viết một chữ trên trang giấy là bị lôi vào những gì không thể tránh được đi theo sau chữ ấy, đi theo một cách tế nhị khó ngờ được; chẳng hạn như khi tôi viết “gió” thì những gì không thể tránh được là “gió thổi trên thung lũng, gió về với mùa thu, tóc bạc trắng, vân vân”, hay dù tôi có nói ngược lại đi nữa thì cũng là ngược theo chiều gió, tức là một cách cuốn theo chiều gió, một cách lộn lại như hột vịt lộn. Điều đau đớn là không thể chạy trốn ở đâu mà thoát hoạ được, tờ giấy trắng nằm chình ình ra đấy, nếu tôi trốn viết, bỏ viết văn đi nữa thì cái đầu tôi vẫn nằm chình ình ra đấy; cái đầu của tôi, cái óc của tôi mới là giấy trắng, thực thụ, trắng hơn cả tờ giấy trắng, cái óc của tôi, nó làm tờ giấy trắng cho tư tưởng của con tim, rồi con tim của tôi nó lại làm tờ giấy trắng cho dòng máu của tôi; máu chảy trong thân thể tôi lại muốn viết văn trên tờ giấy trắng của con tim; rồi lại đến lượt máu của tôi lại làm tờ giấy trắng cho sự chết: sự chết viết văn trên tờ giấy trắng của máu, và sau cùng sự chết cũng lại phải làm tờ giấy trắng cho cái gì đó không có tên gọi; cái gì đó vô danh, vô tướng lại viết văn trên tờ giấy trắng của sự chết. Nếu tôi không phải là con vịt đực thì tôi phải lý luận rằng mỗi khi ngồi viết văn trước một trang giấy trắng trên bàn thì tôi chỉ lặp lại cái việc của người thức canh xác chết, ngồi trước cái khăn lịm trắng toát, nhưng có một điều khó hiểu nhất: người ngồi canh xác chết lại chính là người đang nằm chết dưới cái khăn lịm trắng kia; lắm lúc bất thần có con mèo đen nhảy phóng qua xác chết thì cái xác kia ngồi dậy bước đi lảo đảo như người say rượu. Tôi gọi con mèo đen ấy là chữ viết.
Đà Lạt mùa này đầy hoa quì rừng, vàng bên kia đồi, vàng bên này đồi, vàng dưới kia đồi, vàng trên kia, trên cao kia, cao và gần trong tầm với của mắt. Tôi bước đi không vững, vì uống cả bình cà phê to, hai bình cà phê to như hai cái lu nước. Tôi thấy chữ A ra chữ B, chữ C ra chữ D, tôi thấy tôi chảy trong cống nước, tôi bay theo khói thuốc.





                                       Trích trong Bay Đi Những Cơn Mưa Phùn 

















11
Ý Thức Bùng Vỡ


nxb Đồng Nai
(1970)













12
Đi Cho Hết Một Đêm Hoang Vu Trên Mặt Đất 
sách tái bản 2001
(1988)













13
Sự Chuyển Động Toàn Diện Của Tâm Thức Trong Tư Tưởng Phật Giáo 

(?)
(1994)













14
Triết Lý Việt Nam Về Sự Vượt Biên

(?) 
(1995)















15
Nguyễn Du, Đại Thi Hào Dân Tộc 

(1996)
















16
Khơi Mạch Nguồn Thơ Thi Sĩ Seamus Heaney

Giải Nobel Văn Chương 1995

(1996)













17
Làm Thế Nào Để Trở Thành Một Bậc Bồ Tát Sáng Rực Khắp Bốn Phương 

(1998)














18
Nét Đẹp Tinh Túy Trong Sáng Của Đạo Lý Phật Giáo

 (1998)
















19
Trên Tất Cả Đỉnh Cao Là Lặng Im
Thơ (2000)




Đi



Đã đi thì đã đi rồi
Thượng phương trùng điệp thấy gì nữa đâu
Hạ phương ngày tháng bể dâu
Sắt son tình cũ phượng cầu túy hương
Có còn gì nữa mà thương
Buổi trưa nằm ngủ thấy nường năm xưa.

Đã đi rồi đã đi chưa
Thượng phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch trùng khơi phong kiều
Chuyển hình trên đỉnh cô liêu
Lửa bay thành ngọn hồng điều mật ngôn

Đại Huyền biến ngưỡng triêu tôn

Tiền thân Tây Tạng nhập hồn chiêm bao

Án nga nga nẵng bạch nào

Một luồng sáng rực chiếu vào trái tim



Năm nàng thiên nữ tôn nghiêm

Trùng quan ngũ sắc ứng điềm tán không

Án Đa La tịch mịch hồng

Mười phương xuất hiện những đồng sinh thiên

Bát Nhã là gái thiên tiên

Khoan thai cởi áo mây hiền trên cao

Gió lùa thơm tóc tơ đào

Thập bát Không Định tiêu dao tiếng đàn

Trời mưa chim ngủ trên ngàn

Sắt son tình cũ nước tràn sang sông



Đã đi rồi có đi không

Thượng phương trùng điệp cỏ hồng thúy hương

Đi đâu mà lại lên đường
Hạ phương còn gặp cô nường năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Sắt son triều ngưỡng tình xưa hiện về
Phượng cầu ngũ lĩnh sơn khê
Một bông hồng nở bốn bề lặng im
Năm nàng tiên đậu vào tim
Âm nhập dương khởi lim dim xuất thần

Nhập định tam muội tần thân
Trở về động cũ như lần gặp xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Đền thiêng triệu ngưỡng người xưa kiếp nào
Tình bay lên nóng trăng sao
Gió lùa thơm tóc cô nào năm xưa
Đã đi rồi đã đi chưa
Thương phương lụa trắng đong đưa giữa trời
Đã đi mất hẳn đi rồi
Hạ phương tịch mịch bỏ đời biệt tăm.



Phạm Công Thiện









Một Đêm Siêu Hình Với Hàn Mặc Tử 

(2000)







Tất cả những gì người ta viết và nói về Hàn Mặc Tử trong vòng sáu chục năm nay đều sai lầm hoàn toàn. Vì sao? Người ta viết và nói đến cái mà Hàn Mặc Tử đã vượt qua trọn vẹn trong mỗi lời và trong mỗi chữ mà Hàn Mặc Tử đã bỏ lại dấu vết trên mặt đất.

Chỉ xin nói lên mười điều chính yếu sau đây về Hàn Mặc Tử, nói mười và thực ra là một và ngay cái một này chỉ là giả danh, vì cái một này vừa hiện ra thì biến mất liền lập tức; cái một này từ có đến không và từ không đến có; không có cái một nào giống y cái một nào, không có cái có nào giống hệt cái có nào, và cũng không có cái không nào giống hẳn cái không nào.

Hàn Mặc Tử đã viết hai câu bí mật đơn giản:

Con sông này đã đi qua.

Suốt đời ta thề không trở lại.

Hiểu được hai câu trên của Hàn Mặc Tử thì không còn muốn hiểu nữa, vì tất cả những gì chúng ta hiểu được thì đã đi qua rồi, cái hiểu của quá khứ không thể là cái hiểu của hiện tại và cái hiểu của tương lai không thể hiểu, như vậy cái hiểu của hiện tại không thể nào có được.


Muốn hiểu và muốn được hiểu là hai trở ngại lớn nhất, ngăn chận lại không cho mìnhnhảy xuống sông để bơi lội như con rồng con, như Long Nữ tám tuổi, như con rắn nước của linh thoại. Tất cả những gì mà người ta khoái trí và khoái chí gọi là hermeneutics, hermeneutic và hermeneutical của giới phê bình gia văn nghệ hiện thời và hậu hiện thời đều sụp đổ ở nơi đây.


Vì sao, và tại sao thế? Vì cái chữ “vì”, vì “vì sao” và vì “tại sao“. Cái gọi là ”principe de raison suffisante”, La Tinh gọi là “principium reddendoe rationis”, Anh Mỹ gọi là “principle of sufficient reason”, Đức gọi là “Grundsatz vom Grund”, là cái nguyên lý tối thượng và tối hậu điều động thống trị toàn thể văn hoá và văn minh Tây phương, thống ngự tất cả triết học, thần học và khoa học, và nhất là thống trị tất cả khuynh hướng phê bình văn nghệ hiện thời và hậu hiện thời (post-modernism).


Chính nguyên lý của lý trí tự túc này đã quay lưng lại với Hố Thẳm (Ab Grund) và đưa đẩy con người lọt vào tất cả những dạng thái khác nhau của chủ nghĩa hư vô (Nihilism, Nihilisme, Nihilismus).


Tất cả chủ nghĩa hư vô là “hý luận” với cái sống và cái chết; tất cả triết học, thần học, khoa học và toán học, tất cả văn hoá và văn minh Tây phương, tất cả phê bình văn học nghệ thuật của Tây phương đều là những trò Hý luận với “hiện tượng” và “bản thể”, “chân lý” và “phi chân lý”, “vật thể”, “hữu thể” và “vô thể”, “tại thế thể” và “siêu việt thể”, “ở trên trời” và “ở dưới đất”, “lý trí” và “phi lý trí”, “nghệ thuật” và “phi nghệ thuật.” Tất cả đều kẹt dính vào nhị biên, nhị tướng, nhị lực, nhị tác, nhị dụng, nhị thể, nhị tánh, nhị nhân, nhị duyên, nhị quả, nhị báo, nhị nguyên, nhị nhị. Dẫu đã tách rời nhị tướng đi nữa để đến Bất Nhị đi nữa thì “để đến” cái Bất Nhị này cũng trở thành hình thể vi tế của cái Nhị bất trị và vô phương giải toả.



Sự điên loạn thần trí và tất cả ma quỉ yêu tinh đều là hậu quả tất nhiên của sự trói buộc vào cái hai cực đoan, hai tướng trạng, hai biên giới, hai chiều hướng đối nghịch, hai nguồn nghịch lưu. Chỉ có sự điên loạn toàn diện mới “chuyển y” được tâm thức bình thường, mới thay đổi trọn vẹn nền tảng cơ sở tầm thường của ý thức phân biệt khả dĩ đưa con người đến sự giải thoát tâm linh hoặc xô con người nhảy xuống hố thẳm của Im Lặng để được giải cứu một cách khác trong cõi Trung Hữu Ấm (Bardo).



Chỉ có Thơ mới là khoa trị liệu thần kinh hữu hiệu nhất để giải cứu nhân loại khỏi điên. Mâu thuẫn thơ mộng nhất là tất cả những nhà thơ thiên tài vĩ đại nhất của nhân loại đều là những người điên thực sự vĩ đại đúng nghĩa. Những bác sĩ, tất cả những bác sĩ chuyên trị bệnh điên đều là những người điên bình thường, nếu không muốn nói là điên tầm thường, cả Laing và Cooper cũng đều điên bình thường; điên một cách tục tĩu nhất là những bác sĩ phân tâm học, bác sĩ thần kinh trị liệu, bác sĩ thần kinh bệnh học, bác sĩ tâm thần, bác sĩ chuyên khoa thần kinh não bộ, bác sĩ giải phẫu não bộ, vân vân. Họ được quyền điên một cách khoa học. Tất cả thế giới và tất cả nhân loại hiện nay đang điên. Chỉ có những người điên thực sự hơn cả những người điên tầm thường hơn cả những người điên bình thường và hơn cả những người điên tục tĩu: đó là những thi sĩ thực sự đúng nghĩa, những nhà thơ trong sạch, những thi nhân thuần tuý.



Hàn Mặc Tử đã nói một câu mà sáu chục năm nay không có ai biết lắng nghe một cách đàng hoàng cho đến độ phải quăng ném tất cả thi ca Việt Nam hiện đại và hiện kim vào cầu tiêu công cộng:



Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo



Tại sao là khách lạ? Tại sao đi giữa?



Tại sao “nguồn trong trẻo”?



Có cần đọc Trakl và Hölderlin mới hiểu thế nào là “khách lạ”? Đó là chưa nói đến Camus hay chưa nói đến Sophocles? Có cần đọc Kant mới hiểu thế nào là “đi giữa”, đó là chưa nói đến Hegel và Schelling? Có cần đọc Hölderlin và những gì Heidegger viết về những con sông Đức trong thơ của Hölderlin mới biết được thế nào là “nguồn” và thế nào là “trong trẻo”? Tại sao phải đọc?



Đọc Thơ cũng giống như đọc kinh. Phải thọ, trì, đọc, tụng.



Đọc không phải để hiểu mà để biết.



Biết cái thâm mật của một giây phút thoáng qua nhanh chóng hơn ánh sáng và biết cái thâm mật của tam thiên đại thiên thế giới, của vô số hằng hà tỉ tỉ thiên hà trong lòng ta và ngoài kia không gian phiêu dật. Mà lòng ta là tất cả không gian phiêu dật.


Tại sao Nguyễn Du thường sử dụng chữ biết trong Thơ và ít khi dùng chữhiểu? Đây là một sự việc quảng mật cần nên biết trong tương lai của văn hoá Việt Nam.

Thơ là cái gì mà chỉ nên biết, chứ không thể hiểu.

May ra thì chúng ta có thể biết được cái thâm mật, cái quảng mật và cáithâm quảng mật, có thể biết được sơ sơ qua loa, chứ không thể nào hiểu được. Đó là diệu nghĩa vô lượng của tam mật tam muội trong Thơ Văn của những thiên tài vĩ đại ở thế giới.

Mười điều chính yếu sau đây về Hàn Mặc Tử được thoát ra từ giữa nguồn trong trẻo của tam mật tam muội (quảng mật, thâm mật, thâm quảng mật); mười điều sau đây có thể được coi như là một thứ “Giải Thâm Mật” của cái gọi là Thi Văn Nhân Loại, và nhất là của cái gọi là “sự nghiệp thi văn” của thiên tài Hàn Mặc Tử.



I. Điều thứ nhất:

Tất cả lịch sử văn học và tất cả phê bình văn nghệ đều chuyên trang điểm cho cái không bao giờ cần được hay bị trang điểm; đứng sau nguồn hay đứng bên bờ nguồn bên đây hay bờ nguồn bên kia để ba hoa lải nhải một cách buồn cười, thảm hại cho chính bản thân sử gia và cho bản thân của phê bình gia; không có sử gia văn học và không có phê bình gia văn học ở khắp thế giới từ cổ đến kim biết được tư tưởng và tơ tưởng (chữ của Hàn Mặc Tử) và sử linh tư tưởng (chữ của Hàn Mặc Tử) là cái gì.

Tư tưởng, tơ tưởng và sử linh tư tưởng, đối với sử gia và phê bình gia, chỉ làtiền tượng, hiện tưởng, tiền hiện tưởng, tiền tượng tưởng (Anh Mỹ gọi làRepresentation, Tây Pháp gọi là Représentation, Đức gọi là Vorstellung hayVor-stellung), chính tất cả thể điệu tiền tượng, nhãn tiền tượng, đối diện tượng, hiện tưởng, hiện tượng, tiền hiện tượng, tiền hình tượng, hiện diện tưởng, đối diện tưởng, tưởng tượng, hiện tưởng tượng, nhãn tiền tưởng, đối diện tưởng, vân vân (tóm lại trong một chữ Đức: Vorstellung) đã đưa loài người đảo lộn đầu nguồn với cuối nguồn; đảo ngược tất cả mọi giá trị, đảo lộn trí tưởng tượng sáng tạo thành ra một hệ thống lý luận chặt chẽ; đảo ngược tư tưởng và đảo ngược sử linh tư tưởng thành ra khoa học lịch sử, khoa học tôn giáo, khoa học về lịch sử văn học, khoa học về phê bình văn nghệ, vân vân.

Chỉ có tư tưởng, tơ tưởng và sử linh tư tưởng là xuất phát từ Hố Thẳm (Tây gọi là Abîme, Tàu gọi là Thâm Uyên, Anh Mỹ gọi là Abyss, Đức gọi làAbgrund; anh bạn ngày xưa ở Việt Nam, thi sĩ Thanh Tâm Tuyền đã cho rằng tôi lấy chữ Hố Thẳm từ Nietzsche, điều này đúng, nhưng chưa đúng đắn hẳn, chính Eckhart, Kant, Hegel, Schelling, Hölderlin và Jacob Boehme mới là những người đầu tiên đã tặng cho tôi hai chữ Abgrund và Ungrund mà tôi đã nhắc trong quyển Im Lặng Hố Thẳm).

Tư tưởng, Tơ tưởng và Sử linh Tư tưởng trú ngụ nơi Hố Thẳm Không Đáymới mở ra tất cả chân trời cho Triết Học, Khoa Học, Toán Học và Tôn Giáo.

Tất cả nền tảng đều sụp đổ, ngay đến Hố Thẳm Không Đáy cũng sụp đổ, và cả đến Hố Thẳm của Hố Thẳm cũng phải sụp đổ, tất cả mọi sự sụp đổ đều phải sụp đổ ngay lập tức, còn nói chi nữa đến những cái gọi là những kiến trúc ý niệm, những xây dựng lý tưởng, những hệ thống ý thức và những tập đại thành của ý tưởng, tất cả những thứ này chỉ là những trò hý luận của những tên hề tài tử, những tên hề tập sự không còn có khả năng để làm cho nhân loại cười to tiếng hay cười nhỏ tiếng.

Một người hề duy nhất thơ mộng làm cho mình mỉm cười sầu mộng mênh mông siêu việt, một người hề đùa giỡn với Hố Thẳm, nhập một với Hố Thẳm, đó là người hề của truyện Smile at the Foot of the Ladder của Henry Miller, nhưng đây là chuyện khác.



II. Điều thứ hai:

Chỉ là lặp lại điều thứ nhất trên một bình diện bất ngờ khác.

Phải viết lại toàn thể lịch sử văn học thế giới và toàn thể văn học thế giới và toàn thể văn học Việt Nam từ khởi thuỷ cho đến hiện nay và cho cả tương lai.

Viết như thế nào? Viết về cái không thể viết được, nói về cái không thể nói được, tư tưởng và tơ tưởng về cái gọi tạm là “Bất Khả Tư Nghị.”

Từ cái “bất khả tư nghị” của Hố Thẳm mới xuất hiện ra những hợp thể phức tạp được gọi tên là “thiên tài”, “văn hào”, “thi hào”, và tất cả những gì gọi “tác phẩm”, “nghệ thuật”, “kỹ thuật” là sự “thành tựu”, “hoàn thành”, “toàn thiện”, “toàn chân”, “toàn mỹ”, “nhất thiết chân pháp”, “nhất thiết thiện pháp”, “nhất thiết mỹ pháp”.

Sự im lặng rùng rợn của Thi Ca và Văn Chương là cái “bất khả tư nghị” của tất cả những đỉnh cao nhất của Thi Ca và Văn Nghệ Nhân Loại.

Im Lặng là gì? Là sự Lặng Im của tất cả câu hỏi, của tất cả nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, của tất cả sắc thanh hương vị xúc pháp, của tất cả nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Đó là sự Lặng Im tinh mật của tất cả hình sắc, tất cả hình tượng, của tất cả màu sắc, của tất cả tình cảm, của tất cả cảm giác, của tất cả xúc động, của tất cả ba động giác quan, của tất cả ba động cực vi tế của một ý tưởng, của bất cứ một sự phân biệt nào đó, của tất cả mọi sự tri nhận và trực nhận; sự Lặng Im của tất cả ý muốn và ý chí, sự im lặng của tất cả ý thức, linh thức, thần thức và vô thức.

Còn lại cái gì?

Hölderlin, một nhà thơ đã điên trong ba bốn chục năm còn lại của đời mình, đã tuyên bố lặng lẽ cho toàn thể loài người rằng:

Nhà thơ phôi dựng những gì còn lại...

Hölderlin là tiêu chuẩn để viết lại toàn thể lịch sử văn học Đức và toàn thể lịch sử văn học Tây phương, cũng như Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử là tiêu chuẩn để viết lại toàn thể lịch sử văn học Việt Nam và toàn thể lịch sử văn học Á Đông.



III. Điều thứ ba:

Tất cả triết học và thẩm mỹ học Tây phương từ Plato cho đến Hegel đều trở thành sai lầm, nếu mình sống được trên nền tảng không nền tảng của Hố Thẳm Không Đáy mà không rơi lọt vào chủ nghĩa hư vô vũ trụ. Tôi nói gì? Muốn nói một cái gì thì đã kẹt vào những “phạm trù” của logos. Như thế nào? Như vầy: không có một triết gia, một tư tưởng gia, một lý thuyết gia, một con người hành động tích cực hay một phê bình gia vĩ đại nào mà không dính kẹt vào những cái này.

a/ Nói hay viết, viết để nói hay nói để viết để nói hay viết về một cái gì đó; (nói theo điệu Triết Học Hy Lạp là: logos như là logos tinos)

b/ Chính cái được nói hay được viết, chính câu nói hay câu viết lại chính là một cái gì đó;(nói theo điệu Triết Học Hy Lạp là: cái legomenon là một cái ti, tức là một cái hiện thể, cái chữ Triết Hy Lạp: on);

c/Người nói hay người viết là một cái gì đó.

Con người là một cái gì đó, lời nói hay câu viết là một cái gì đó, cái được viết hay được nói là một cái gì đó: như thế, chúng ta có ba cái.

Thơ có nghĩa là phá vỡ ba cái trên; Thơ không nói về bất cứ cái gì cả, như vậy mới là tất cả; Thơ chỉ là Thơ và Thơ tự nói về Thơ từ trong Thơ đến trong Thơ: cả cao và thấp, cả trong và ngoài, ở trên và dưới mặt đất, tất cả chỉ là Thơ.

Thơ là Nguồn Trong Trẻo nuôi dưỡng tất cả “thượng thanh khí” của tất cả mọi sự và của cả Hư vô, vì Hư vô không phải chỉ có nghĩa rằng chẳng có gì hết.

Nếu quan niệm Thơ là một cái gì đó, nhà thơ (thi sĩ) là một cái gì đó, bài thơ là một cái gì đó, tác phẩm thi ca là một cái gì đó, người thưởng ngoạn thi ca là một cái gì đó, người làm nghề phê bình văn học là một cái gì đó, ngôn ngữ là một cái gì đó, âm nhạc là một cái gì đó, màu sắc là một cái gì đó, sự im lặng là một cái gì đó. Nếu quan niệm như thế, thế thì quan niệm cái gì?

Vậy cái gì đó là cái gì?

Một hữu thể? Một vật thể? Một sự thể? Một hiện thể? Một tánh thể? Hay vô thể? Hay “cái không có gì cả” cũng là một cái gì?

Còn cái gì của cái gì ấy là cái gì?

Phải chăng đây chỉ là những câu hỏi trừu tượng?

Hàn Mặc Tử đã từng nói:

Triết Lý và Văn Thơ là những danh từ chết.

Những chữ đáng lưu ý ở trên là “những danh từ” và những danh từ, tất cả những danh từ đều đã chết, đang chết và sẽ chết.

Tất cả những trận chiến tranh tàn khốc của nhân loại đã bùng nổ vì những danh từ. Bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã chết vì “những danh từ đã chết.”

Triết Lý và Văn Thơ là những danh từ chết.

Khi Hàn Mặc Tử nói như trên thì chỉ có nghĩa là Triết Lý và Văn Thơ không phải chỉ là “những danh từ”. Triết Lý và Văn Thơ thì khác hẳn, một cái gì không hẳn là một cái gì, cái gì khác hẳn hoàn toàn tất cả mọi sự vật, mọi sự việc, mọi hữu thể và mọi vật thể.

Hàn Mặc Tử: “Tôi không cần ai giảng triết lý.”

Giảng Triết Lý là trói buộc Triết Lý vào những danh từ đã chết.

Hàn Mặc Tử: “Triết Lý là vun trồng, nuôi nấng thi văn, mà Thi Văn là để cắt nghĩa ra Triết Lý.”

Hố Thẳm vun trồng và nuôi nấng thi văn. Phải chăng cái (nghĩa xưa của chữ Mẹ, Má) đã từng “vun trồng nuôi nấng” tất cả thi văn Việt Nam? Không phải Triết Lý cắt nghĩa ra thi văn, như tất cả những lý thuyết gia phê bình văn nghệ lầm tưởng (tất cả lý thuyết gia phê bình văn nghệ đều là những kẻ tập tành hành nghề suy tư qua những ý niệm triết học chưa học hành được đàng hoàng). Hàn Mặc Tử xác nhận rõ ràng: “thi văn là để cắt nghĩa ra triết lý.” Như thế chỉ có nghĩa rằng Thi Văn cắt nghĩa ra tất cả mọi sự việc, vì Triết Lý chính là: Một là Tất cả, và Tất cả là Một (từ Heraclitus đến Kant, Hegel, Nietzsche và tất cả Triết Học Tây Phương chỉ là thế, nếu không muốn nói đến cái gì khác mà cái gì khác cũng vẫn là một cái gì trong nghĩa Triết Học Hy Lạp to on của ta on ta).

Văn chỉ là văn vì có Mẹ là Thi.

Chính Thi Ca xây dựng tất cả linh thoại, thần thoại, sử thoại của toàn thể nhân loại. Không có Thi Ca thì chẳng có Lịch Sử; không có THƠ thì loài người đã bị tiêu diệt từ lâu. Thi Ca phôi dựng tất cả Sử Linh Tư Tưởng.



IV. Điều thứ tư:

Thơ là cái gì?

Tất cả sự nghiệp thi văn của Hàn Mặc Tử là đã sống trọn vẹn với câu hỏi trên. Cả một cuộc đời hai mươi tám năm của Hàn Mặc Tử là sống hoàn toàn hết mình, xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của Thơ và chỉ nhìn thấy Thơ trên trời, Thơ ở dưới đất, Thơ trong tim, Thơ trong óc não, Thơ trong mạch máu, Thơ trong hơi thở, Thơ trong đời sống, Thơ trong cái chết, Thơ trong hiện thể, Thơ trong vô thể, Thơ trong Hư Vô.

Hàn Mặc Tử: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống.”

Chúng ta phải nhập tâm, phải để năm tiếng của Hàn Mặc Tử in dấu sâu thẳm vào tận lòng mình:

“Đến Gần Đứt Sự Sống”

Khi nào “đến gần đứt sự sống” rồi mới biết Thơ là cái gì, mới biết làm thơ, mới biết đọc thơ. Khi mình chưa “đến gần đứt sự sống” rồi thì không được quyền nói bất cứ điều gì về Thơ, về Thi Ca, về Thi Nhân, về Điên Loạn, về Tình Yêu, về Hồn, về Nguyễn Du, về Hàn Mặc Tử hay về bất cứ “một con sông này đã đi qua” trong đời mình.

Hàn Mặc Tử đã sử dụng mấy chữ “cụ tượng” và “trừu tượng” và nhất là câu tuyệt vời: “Cái Thơ Trên Cái Thơ Khác Nữa”.

Thế nào là cụ thể? Hai chữ “cụ tượng” của Hàn Mặc Tử thực là tinh mật, hai chữ “cụ tượng” nói lên tinh tuý rực ngời của tất cả những gì chúng ta vẫn gọi là “cụ thể.” Ở đây, chính Thi Văn đã cắt nghĩa ra Triết Lý; Hàn Mặc Tử chỉ là một nhà thơ mà còn triết lý hơn tất cả các triết gia nhà trường và các triết gia nhà nghề. Không có gì thực sự là “cụ thể” mà chỉ có “cụ tượng”. Dẫu không đọc Kant, nhưng Hàn Mặc Tử đã nhảy vào trung tâm điểm của Triết Học Kant ở đây. (Trước khi chết Hàn Mặc tử thường đọc đi đọc lại Rousseau, một người đã từng ảnh hưởng mãnh liệt đến Kant).

Hàn Mặc Tử đã cho dân tộc Việt Nam một “định nghĩa” phi thường nhất và tuyệt vời nhất về Thể Tính của Thơ: “Màu sắc cụ tượng rất dễ tìm, dễ kiếm, trái lại màu sắc trừu tượng rất khó sáng tạo, vì đây là cái đẹp của thơ, và phải có con mắt của thi nhân, của một kẻ siêu phàm thoát tục mới nhận thấy cái đẹp thiêng liêng, phép tắc ấy, và mới thấu triệt hết tinh hoa của nó.”

Và sau đây là định nghĩa về Thiên Tài của Thiên Tài Hàn Mặc Tử: “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình, khiến cái chết trở nên sống, cho vật câm không còn là câm nữa. Đấy là tất cả nghệ thuật và trí tưởng tượng phi thường của thi nhân, nếu thi nhân là một thiên tài!”

Cái cụ tượng của Thi Ca, ai cũng hiểu, nhưng cái Trừu Tượng của Thơ thì chỉ có Thiên Tài mới biết được Thiên Tài.

Cái Trừu Tượng ở đây “vượt khỏi ra ngoài hư linh” (Hàn Mặc Tử). Tính Thể và Thể Tính của Trừu Tượng Tính là gì?

Chính là cái gì mình gọi là “cụ thể”, “cụ tượng” lại là “trừu tượng” nhất và cái gì mình gọi là “trừu tượng” lại là “cụ thể”, “cụ tượng” nhất. Nhà thơ, nói một cách khác, là con người thực tế nhất; và tất cả con người khác, những kẻ gọi là thành công nhất trong xã hội, đều là những loài súc sinh biết nói mà không hề biết thế nào là “cụ thể”, thế nào là “cụ tượng”, huống chi đề cập đến bất cứ điều gì liên hệ đến “trừu tượng” .

Thơ là trừu tượng trong cụ tượng, và cụ tượng trong trừu tượng; Thơ vừacụ vừa trừu để rồi chỉ còn tượng. Sau cùng, tinh tuý của Thơ là chuyển hoá tất cả tượng thành ra vô tượng: chính vô tượng mới đánh thức dậy Vô Tướng của tất cả hình tượng màu sắc. Đây là Vô Tướng của Thực Tướng Thơ Mộng trong tất cả sự “rung rinh một làn ánh sáng” (Hàn Mặc Tử).

Có biết được như trên, chúng ta mới biết được tại sao một người công giáo thuần thành ngoan đạo như Hàn Mặc Tử mà vẫn tư tưởng và tơ tưởng đượcsử linh tư tưởng như câu nói sau đây của Hàn Mặc Tử:

“Và tôi sẽ ký thuyết minh một cách rất nhà Phật là sắc cũng như không, chết cũng như sống, gần cũng như xa và hư cũng như thực... Những điều phản trái ấy dầu thế nào, cũng có liên lạc mật thiết và thông cảm với nhau.”

Loài người, hạng người phàm phu tục tử, thường bị trói buộc vào cái có và cái không suốt một đời này và vô số kiếp sau nữa; họ điên mà không biết rằng mình điên. Chỉ có thi nhân là tự biết rằng mình điên và được điên thực sự, vì nhà thơ đã trừu tượng hoá tất cả mọi sự: “Tôi vừa thoát ly ra khỏi cực lạc giới, toàn thân tôi rung động như một sợi đường tơ” (Hàn Mặc Tử). Đó cũng là lý do cắt nghĩa tại sao “Thi sĩ rơi xuống cõi đời, bơ vơ, bỡ ngỡ và lạ lùng. Không có lấy một người hiểu mình” (Hàn Mặc Tử)

Vì không có lấy một người hiểu mình, cho nên thi sĩ mới còn được là thi sĩ.



V. Điều thứ năm:

Hàn Mặc Tử đã sử dụng ít nhất hai lần trong toàn thể thi văn của mình: “một đêm siêu hình” (Chơi giữa mùa trăng: Nghĩa là trăng rằm trung thu: một đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng của một nguồn khoái lạc chê chán...)

Cái đêm siêu hình ở đây không có dính líu gì với Siêu Hình Học cả mà lại có nghĩa ngược lại tất cả Siêu Hình Học và Siêu Thể Học Tây Phương, vì Siêu Hình Học Tây Phương vẫn chỉ đặt nền tảng trong một căn bản tối thượng và tối hậu: Hiện Thể (hay hiện hữu) có tính cách hiện thể nhất, Hiện Thể trong Toàn Thể, Hiện Thể như là Hiện Thể, Hiện Thể như là Hiện Thể cao nhất, hiện thể đầu tiên, hoặc Siêu Việt Thể.

“Bắt cái vô hình trở nên hữu hình”, đây là ý nghĩa cụ tượng hoá trừu tượng của Hàn Mặc Tử trong mấy chữ “một đêm...” (nếunhấn mạnh vào mấy chữ “hữu hình” trong câu “bắt cái vô hình trở nên hữu hình”, hoặc nhấn mạnh mấy chữ “một đêm” trong

“một đêm siêu hình”), ngược lại “Bắt cái vô hình trở nên hữu hình”, đây là ý nghĩa trừu tượng hoá cụ tượng của Hàn Mặc Tửtrong mấy chữ “siêu hình” (nếu nhấn mạnh vào mấy chữ “vôhình” trong câu “bắt cái vô hình trở nên hữu hình” hoặc nhấnmạnh mấy chữ “siêu hình” trong “một đêm siêu hình”).

Thực ra, tất cả đêm tối đều là siêu hình, và tất cả ngày đều hữu hình mà vô hình hoặc đều vô hình mà hữu hình. Nói một cách triết lý thơ mộng như triết gia Đức Kant thì “Đêm tối thì cao siêu, ban ngày thì tuyệt đẹp” (Die Nacht ist erhaben, der Tag is schoen). Đây là câu nói tuyệt đẹp nhất và cao siêu nhất được thốt ra từ miệng của một triết gia đúng nghĩa. Chỉ có một người suốt đời sống thường trực bên bờ Hố Thẳm, bên cạnh cơn điên loạn lúc nào cũng rình rập bùng vỡ trong ý thức, chỉ có một người như thế, như Kant và ngay chính cả Hegel, mới hiểu thế nào là sức mạnh hữu hình của “nguyên lý về lý do tự tại, nguyên lý về lý trí tự túc”, mới hiểu thế nào:

Đêm cao siêu
Và Ngày tuyệt sắc.
(Kant)

Hay dí dỏm hơn như Hegel:

Ban đêm thì tất cả bò nghé đều đen thui.

Tuy nhiên, có một màu đen khác mà Hegel chưa biết tới hay không chịu biết đến, đó là màu đen sáng ngời lóng lánh của Hölderlin, người bạn thân nhất “tự mùa đầu tiên” của Hegel. Hölderlin đã viết sầu mộng như sau trong cơn loạn: “Phải giải quyết tất cả những mâu thuẫn, những lạc điệu, những lệch lạc, những bất hoà bằng cách khác”. Không thể giải quyết những vấn đề bằng trật tự phân hai hoặc phân ba (bằng Tri Thức Tuyệt Đối, hoặc bằng Kỹ Thuật Cơ Khí Vạn Năng). Nói một cách khác, một cách mơ mộng như Hölderlin:

Những ai hãy đưa cho tôi
Tràn trề ánh sáng đen tối,
Chén rượu thơm ngát.

Cái ánh sáng đầy đen tối, cái hào quang tối tăm ấy, chính là cái “đêm siêu hình” của Hàn Mặc Tử. Cái tối là cái thâm mật của cái sáng, cái tối “vun trồng nuôi duỡng” cái sáng, và cái sáng “cắt nghĩa ra” cái tối. “Đó là lý do tại sao cái tối có được cái sáng chính

yếu của chính nó” (Heidegger, “Những Nguyên Lý của Tư Tưởng” đăng trongJahrbuch für Psychologie und Psychotherapie, tập 1/3,năm 1958, Verlag Karl Alber, Freiburg và Munich).

“Một đêm siêu hình” của Hàn Mặc Tử chính là một đêm “tràn trềánh sáng đen tối” của Hölderlin.

Có một thứ ánh sáng rực chiếu một cách tối tăm, cũng như có một đêm tối lóng lánh ánh sáng rực ngời, có một màu đen óng lên ánh sáng lộng lẫy, cũng như có một thứ ánh sáng tràn trề đen tối thâm mật.



VI. Điều thứ sáu:

Tất cả ý nghĩa cụ tượng mà trừu tượng, hữu hình mà vô hình, thơ mộng mà triết lý, của tất cả thi nghiệp, tất cả sự nghiệp văn thơ của Hàn Mặc Tử được thu gọn lại trong bốn chữ:

một đêm siêu hình

Phải nhìn hai chữ siêu hình này trong một chớp mắt thu gọn lại thiên thu vĩnh c ưửu, thu tóm lại tam thiên đại thiên thế giới, phải nhìn hai chữ siêu hình này ngoài tất cả siêu hình học, ngoài tất cả thần học và ngoài tất cả hữu tượng và vô tượng.



VII. Điều thứ bảy:

Có đi vào một đêm siêu hình với Hàn Mặc Tử thì mới biết rằng những bài thơ tình yêu và những bài thơ tôn giáo của Hàn Mặc Tử không phải chỉ là những bài thơ lãng mạn về tình yêu và những bài thơ xuất thần về tôn giáo, vì ở đây những bài thơ chỉ là Thơ, có nghĩa là thơ Thuần Tuý mà Thơ vốn là Nguồn Trong Trẻo cho Tình Yêu và cho Tôn Giáo. Vì Thơ là Nguồn Trong Trẻo cho tất cả, cho nên Hàn Mặc Tử mới có thể nói:

Bay từ Đao Lỵ đến trời Đâu Suất



VIII. Điều thứ tám:

Nếu nói Hàn Mặc Tử là nhà thơ của Lãng Mạn, của Tình Yêu, của Sầu Mộng, của Điên Loạn, của Huyền Bí, của Tôn Giáo, của Triết Học, vân vân, thì chúng ta vẫn có thể ung dung nói và viết một cách tầm thường và bình thường như vậy. Bất cứ nhà thơ nhà nghề nào hiện nay cũng đều là những thi sĩ nhà nghề về Lãng Mạn, Tình Yêu, Sầu Mộng, Điên Loạn, Huyền Bí, Đạo Giáo (kể cả thơ Chúa và thơ Thiền), nhưng chỉ có Hàn Mặc Tử là thi sĩ; tất cả Hàn Mặc Tử đều là thi sĩ, nhưng tất cả thi sĩ không thể nào là Hàn Mặc Tử. Tất cả những thi sĩ thiên tài đều là người điên, nhưng tất cả những người điên không thể nào và không thể là thi sĩ; tất cả những thi sĩ thiên tài đều là người cùi, người hủi, người phung (trong mọi ý nghĩa đen, bóng, xám, trắng) nhưng tất cả những người cùi không thể là thi sĩ được (tất cả màvẫn có ngoại lệ như thế tất cả mới có ý nghĩa là tất cả; tuy nhiên người bệnh hủi mà thành thi sĩ thì bệnh hủi ấy đã mất ý nghĩa và không còn là bệnh nữa, mà là ơn phúc hay phúc đức nghịch hành của đêm thiêng liêng, đêm vô lượng, đêm siêu hình).

Chính cái đêm siêu hình đã làm cho Hàn Mặc Tử làm thơ tình mà không phải là thơ tình, làm thơ ly biệt mà không phải ly biệt, làm thơ trăng mà không phải là trăng, làm thơ đạo mà không phải chỉ là đạo, làm thơ về hồn mà không phải là hồn, về Chúa mà không phải Chúa, về Đức Mẹ mà không phảiĐức Mẹ, về Phật mà không phải Phật, về tất cả những người con gái đẹp mà không phải chỉ là những người con gái đẹp.

Tất cả đều là cụ tượng cho Tính Thể Trừu Tượng Hoá của Thể Tính Thi ca:“Tất cả trong thế gian này, hay cả một cõi xuất thế gian nào nữa, những thứ gì đã trụ trong hai thế gian ấy (cõi hữu hình và cõi vô vi) đều là hình ảnh của Thơ cả” (Hàn Mặc Tử).

Nói tóm lại, Thơ là nguyên lý chuyển động tất cả mọi sự, nguyên lý của nguyên lý này lại chuyển động cả Thượng Đế, chuyển độngcả cái gì vượt lên trên Thượng Đế, chuyển động cả “đường ngạ quỷ phơi nhiều trang gấm vóc”: Thơ là nguyên lý chuyển động cảtrời và đất, chuyển động cả những gì “vượt khỏi ra ngoài hư linh”(Hàn Mặc Tử).

Nói một cách dễ hiểu theo điệu triết học của Aristotle (Aristote) thì, đối với Hàn Mặc Tử, Thơ là cái arkhé kinéseos hay arché kinéseos, tức là cái arkhé (arché) cho kinesis (động tính) của tất cả vạn hữu và vạn đại, cho tất cảphusis (physis); cái gọi là “thơ” (poiesis) không còn ý nghĩa “việc làm” “cái làm”, “tác tính”, “tạo tính” hay “kỹ thuật tạo tác” mà “poiesis” lại trở thành “phusis” và không còn đối kháng lại “phusis” (chữ Hy Lạp phusis còn có ý nghĩa sâu rộng hơn cả chữ “nature” của La Tinh, hơn chữ “nature” của Anh, Pháp, và hơn cả “thiên nhiên” của Việt và Tàu; “phusis” có nghĩa: tất cả những gì chuyển động, tất cả những gì mọc lên, tất cả những gì trưởng thành và thành tựu, ngay đến Thượng Đế và tất cả những Thần linh đều lệ thuộc vào “phusis” của Triết Học Hy Lạp tiền thượng cổ. Như vậy, cái gọi là Thơ (poiesis) được thiên tài Việt Nam Hàn Mặc Tử chuyển hoá toàn triệt thành ra phusis; poiesis thường tách biệt ra khỏi phusis, nhưng ở đây poiesisnâng đỡ phusis và trở thành chính phusis (phusis = poiesis). Thơ là nguyên uyên hay uyên nguyên của tất cả động tính (uyên nguyên: arkhé, arché;động tính, chuyển tính, chuyển động tính: kinésis). Arché kinéseos (arkhé kinéseos) có nghĩa là “uyên nguyên của tất cả chuyển động tính”. Đó là ý nghĩa thâm diệu của mấy chữ “Nguồn Trong Trẻo” của Hàn Mặc Tử, nhà thơ được Thơ đưa trở về làm “khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo”.



IX. Điều thứ chín:

Chỉ cần một chữ thôi cũng nói lên được “một đêm siêu hình” là gì, chỉ cần một chữ thôi cũng nói hết tất cả ý nghĩa thâm mật của Thi Ca và Văn Chương của Hàn Mặc Tử.

Đó là chữ Tây: diaphane (xuyên minh, xuyên quang, thấu minh, thấu quang).

Chữ diaphane đã được Hàn Mặc Tử sử dụng trong một bài văn cuối cùng viết thẳng bằng tiếng Pháp La Pureté de l’Âme (Hồn Trong Veo), bài được viết vào đêm 24 tháng 10 năm 1940 (Hàn Mặc Tử mất vào ngày 11 tháng 11 năm 1940, sống được 28 tuổi trong veo trên đời.)

Trần Thanh Mại dịch “diaphane” là “trong mờ” (lueur diaphane: “ánh sáng trong mờ”, theo cách dịch lờ mờ của Trần Thanh Mại). TrầnThanh Mại dịch đúng theo tự điển Tây và tự điển Tây Việt, nhưngdiaphane không phải chỉ có nghĩa tự điển là “trong mờ” mà thôimà còn mang một ý nghĩa xuyên ngữ, và cái nghĩa tuyệt vời thơmộng là “xuyên qua ánh sáng, thấu qua ánh sáng, đâm qua ánhsáng, xuyên qua cái hiện, xuyên qua cái chiếu, xuyên qua cái hiệnchiếu, thấu qua cái chiếu hiện” (Chữ Hy Lạp: diaphanés: xuyên

minh, đâm qua, thấu qua, xuyên qua: dia; phaínein: hiện, chiếu, chiếu hiện; diaphaínein: xuyên qua, thấu qua, đâm qua cái hiện, cái chiếu, cái chiếu hiện; chữ phaínein có liên hệ trực tiếp với gốc chữ Hy Lạp là phós: ánh sáng). Dịch theo tinh thần Hàn Mặc Tử

thì diaphane có nghĩa là “trong trẻo”; có thể dịch lại “Nguồn Trong Trẻo” của Hàn Mặc Tử ra chữ Pháp là source diaphane hayorigine diaphane.

Tất cả Thi Ca Á Đông đều là Hồi Quang, Phản Quang, Phản Chiếu Quang, Tương Phản Quang, Tương Chiếu Quang, Tương Phản Quang Chiếu, Viên Dung Phản Chiếu Quang… Tất cả Thi Ca Tây phương đều là Đăng Quang, cái ánh sáng của bó đuốc hay của cái đèn dầu hay đèn điện, đúng hơn nên gọi là: cốc đăng quang, tức là cái ánh sáng của cái bó đuốc hay của cái đèn dầu trong hang, như cái hang trong triết học của Plato chỉ có Homer, Pindar, và Sophocles là ở ngoài hang. Cái hồi quang, phản quang và phản chiếu quang, và tương phản quang chiếu của Thi Ca Đông phương là cái “phản ảnh” và cái “phục chiếu” của mặt trời và mặt trăng. Nói theo ngôn ngữ của Hölderlin, Tây phương là chốn mặt trời chìm lặn, do đó, Hölderlin réo gọi trở về “Nguồn Trong Trẻo” là Đông phương (Ấn Độ với dòng sông Indus), sông Indus chảy từ vùng núi miền Tây của Tây Tạng; Hy Mã Lạp Sơn, núi cao nhất của Tây Tạng, sông Cửu Long cũng chảy từ Tây Tạng đến Hố Thẳm không đáy là miền Nam Việt Nam và miền Nam của Đông Nam Á Châu. Hố Thẳm và Núi Cao là một; ánh sáng từ thượng thanh khí đâm thấu xuyên qua từ đỉnh núi cao im lặng đến âm hưởng rì rào bất tận của tất cả con sông Á Đông, tính cách xuyên quang của Núi Cao đã chuyển thành hồi quang, phản chiếu quang của tất cả dòng sông của Thơ ở Hố Thẳm.

Con sông này đã đi qua
Suốt đời ta thề không trở lại

Hàn Mặc Tử đã muốn nói khác đi: cái đã đi qua thì đã đi qua rồi và cái không trở lại thì không bao giờ trở lại nữa. Tất cả hồiquang, phản quang, phản chiếu quang, phục chiếu quang, tất cảxuyên quang, thấu quang đều xảy ra chỉ một lần duy nhất. Một lần,

chỉ một lần thôi, một lần duy nhất thôi (R.M.Rilke) Tuy nhiên, tất cả thơ nằm trong hai chữ “tuy nhiên, tuy thế, thế mà”. Tất cả đều đã đi mất, tất cả không bao giờ trở lại, tất cả đều chỉ xảy ra một lần. Dẫu thế, tuy thế, tuy nhiên, dù thế, thế thì… Et pourtant / And yet... Thơ bắt đầu chuyển động sau ba chấm lửng lơ…



X. Điều thứ mười:

Tất cả những bài thơ nào của Hàn Mặc Tử cũng vẫn đều là thơ hay, dù bài nào mà thiên hạ cho rằng dở nhất của Hàn Mặc Tử cũng vẫn là thơ hay mà ít người thấy được tính cách “xuyên quang” và “phản chiếu quang” của một thiên tài vĩ đại của Việt Nam trải qua “một đêm siêu hình” ở dương thế. Bây giờ chúng ta hãy xoá đi chín điều trên, và chỉ còn lại điều thứ mười; tất cả những gì đã nói hay đã viết về Hàn Mặc Tử đều sai lầm, kể cả chín đều trên. Chỉ còn lại tiếng thơ của Hàn Mặc Tử, không cần dẫn chứng dài dòng, và không cần phải chọn nhiều bài thơ khác của Hàn Mặc Tử, chỉ cần thọ, trì, đọc, tụng một bài thơ duy nhất này của Hàn Mặc Tử thì đủ thấy “cái thơ trên cái thơ khác nữa”:

I.

Chửa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn anh theo dõi bóng em đi
Hồn anh sẽ nhập trong luồng gió
Lưu luyến bên em chẳng nói gì

II.

Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng
Mềm mại như lời tơ liễu rủ
Âm thầm trong áng gió băn khoăn

III.

Anh đã ngâm và đã thuộc làu
Cả người rung động bởi thương đau
Bởi vì mê mẩn vì khoan khoái
Anh cắn lời thơ để máu trào

IV.

Lời thơ ngậm cứng không rền rĩ
Mà máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội khắp nơi

V.

Em đã nghe qua em đã hay
Tình anh sao phải chứng mê say
Anh điên anh nói như người dại
Vạn lạy không gian xoá những ngày

VI.

Những ngày đau khổ nhuộm buồn thiu
Những áng mây lam cuốn dập dìu
Những mảnh nhạc vàng rơi lả tả
Những niềm run rẩy của đêm yêu

VII.

Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười
Em cười anh cũng cười theo nữa
Để nhắn hồn em đã tới nơi
(Hàn Mặc Tử, Lưu Luyến)

Ở phần đầu, tôi đã trích dẫn câu của Hàn Mặc Tử:

Con sông này đã đi qua
Suốt đời ta thề không trở lại

Đoạn văn của Hàn Mặc Tử trước hai câu trên là: “Nhà nghệ sĩ bao giờ cũng điên. Tài năng thì có giới hạn. Dám đem tài mọn làm rộn nước mây. Sẽ bị mạng trời đánh ngã. Than ôi! Tài hoa là một điều tai hại!” Hàn Mặc Tử gặp lại Nguyễn Du: “Trăm năm trong cõi người ta, chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Trải qua một cuộc bể dâu, những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” Hồi quang của Thơ là thế, nhưng xuyên quang vẫn là Nguyễn Du: “Tưởng bây giờ là bao giờ, rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao” hay thấu quang qua “nguồn trong trẻo” (source diaphane) như Hàn Mặc Tử: “Anh đứng cách xa hàng thế giới, lặng nhìn trong mộng miệng em cười”.

Nguyễn Du và Hàn Mặc Tử hai người “khách lạ” chỉ cần để lại đời hai câu thơ giản dị như trên thôi thì chúng ta cũng sẵn sàng van lạy thời gian xoá hết tất cả những bài thơ khác trên mặt đất.

Nguồn: Văn học-ngôn ngữ


















20
Khai Ngôn Cho Một Câu Hỏi Dễ Hiểu: Triết Học Là Gì? 

(2000)








21
Đối Mặt Với 1000 Năm Cô Đơn Của Nietzsche 

(2000)




















































Dịch phẩm đã xuất bản (chưa đầy đủ):










1
Jiddu Krishnamurti 
Tự Do Đầu Tiên Và Cuối Cùng 

(1968)















2
Martin Heidegger 
Về Thể Tính Của Chân Lý
(1968)

3
Martin Heidegger 

(?)










4
Triết Lý Là Gì? 
(1969)










5
Friedrich Nietzsche
Tôi Là Ai? 
(1969)
6
Nikos Kazantzakis 
Rèn Luyện Tâm Thuật Huyền Linh 


(1991)






































( ... )


trích   : blog Phan Nguyên



===================

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ