Tố Hữu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Nguyễn Kim Thành
To Huu.jpg
Chức vụ
Nhiệm kỳ7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986
6 năm, 134 ngày
Chủ tịch
(Thủ tướng)
Phạm Văn Đồng
Kế nhiệmVõ Chí Công
Vị trí Việt Nam
Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V
Nhiệm kỳ1980 – 1986
Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV
Nhiệm kỳ1976 – 1980
Nhiệm kỳ1968 – 1982
Tiền nhiệmTrường Chinh
Kế nhiệmBùi Thanh Khiết
Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Chính phủ
Nhiệm kỳ1960 – 1/1963
Tiền nhiệmđầu tiên
Kế nhiệmLê Liêm
Bí thư Trung ương Đảng khóa II, III, IV
Nhiệm kỳ11/1958 – 1980
Thông tin chung
Tố Hữu
Công việcNhà thơ, chính khách
Ngôn ngữTiếng Việt
Quốc tịchViệt Nam
Dân tộcKinh
Học vấnTrường Quốc học Huế
Giai đoạn sáng tác1946-1999
Thể loạiThơ cách mạng
Chủ đềCách mạng
Trào lưuPhong trào Thơ mới
Tác phẩm nổi bậtTừ ấy, Việt Bắc
Giải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh (về văn học nghệ thuật- trao tặng 1996)
Huân chương Sao vàng
Vợ/chồngVũ Thị Thanh
Con cái(1 trai,2 gái)
Nguyễn Thanh Hoa (con gái cả)
Nguyễn Vũ Phương (con trai thứ)
Nguyễn Minh Hồng, con gái út
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002), quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời ông còn là một chính khách, một cán bộ cách mạng lão thành. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Nguồn gốc bút danh Tố Hữu[sửa | sửa mã nguồn]

Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938 ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" (chữ Hán: 素有), lấy từ câu nói của Đỗ Thị[1] "Ngô nhi tố hữu đại chí" 吾兒素有大志. Tố Hữu 素有 có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友", khác với tên do cụ đồ đặt ở chữ "hữu".

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếu niên[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Kim Thành sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại Thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.[2]
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl MarxFriedrich EngelsVladimir Ilyich LeninMaxim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê DuẩnPhan Đăng LưuNguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936 ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương.

Hoạt động cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1938 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. Tháng 3 – 1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum)[2][3] rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên - Huế.
Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
  • 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam;
  • 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ;
  • 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền;
  • 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam;
  • Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức;
  • Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư;
  • Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương;
  • Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị;
  • 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay gọi là Phó Thủ tướng) cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt phong trào Nhân văn – Giai phẩm (1958)[4]. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khoá II và VII.
Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:
  • Bản dự thảo viết: “Thưa đồng bào, Thưa các đồng chí và các bạn”. Tố Hữu sửa lại thành: “Thưa đồng bào và chiến sỹ cả nước, Thưa các đồng chí và các bạn”
  • Bản dự thảo viết: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được”. Tố Hữu sửa lại thành: “Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn”.
  • Bản dự thảo viết: “Phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết”. Tố Hữu sửa lại thành: “Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết”.
  • Bản dự thảo viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Tố Hữu bỏ chữ “sản”, trở thành: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về văn học nghệ thuật.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật ngay trong đợt xét tặng đầu tiên (năm 1996).
Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.

Quan điểm sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Là nhà thơ đã chọn con đường Cách mạng từ thời thanh niên, trải qua những năm tháng tù đày, thơ của ông là tiêu biểu của quan niệm nghệ thuật Cách mạng. Ông quan niệm: "Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng."
  • Ngoài vai trò nhà thơ, ông còn là một nhà chính trị, một chiến sỹ cách mạng trung thành với lý tưởng Cộng sản, ông có một số bài thơ ca ngợi các lãnh tụ phong trào cộng sản quốc tế như Vladimir Lenin (Người đứng đó, Lenin), Stalin (Đời đời nhớ Ông), Mao Trạch Đông (Đường sang nước bạn), Hồ Chí Minh (Bác ơiCháu nhớ Bác Hồ), Fidel Castro (Từ Cuba)... Khi Liên Xô tan rã, Tố Hữu phê phán sự tráo trở, phản bội lý tưởng với những lời lên án gay gắt, xót xa: "Cả đàn sói chồm lên, cắn vào lịch sử/ Cào chiến công, xé cả xác anh hùng/ Ôi! Nỗi đau này là nỗi đau chung/ Lương tâm hỡi, lẽ nào ta tự sát". Đồng thời, ông vẫn kiên định vào niềm tin, vào lý tưởng của mình: "Lũ phản bội, điên cuồng, hèn nhát/ Và cả bầy quân cướp nước, giết người/ Chớ vội cười! Chân lý vẫn xanh tươi""Chí ta sáng mãi một niềm tin" (Ta vẫn là xuân 1997), "Tôi giữ trọn lương tâm và lẽ phải/ Bởi Việt Nam là Hồ Chí Minh"[5][6]
  • Từ thập niên 1990, mặt trái của cơ chế thị trường bộc lộ, con người chỉ biết chạy theo danh lợi, trở nên tha hóa về đạo đứclý tưởng. Tố Hữu đã trình bày trong thơ những tâm sự, nỗi niềm trăn trở của mình. Ông đã sớm lên án và cảnh báo sự suy đồi của đạo đức xã hội trong nhiều bài thơ như "Mùa xuân mới", "Chào xuân 99" với những câu thơ: "Mặt nạ người che lòng dạ quỷ""Mặt đất mù sương/ Thiên hạ bâng khuâng. Rối rắm những con đường""Cạm bẫy mạ vàng, hãy cảnh giác người ơi"... Tâm sự của nhà thơ Tố Hữu cũng là những nỗi niềm không chỉ của riêng ông mà còn là trăn trở của những người nặng lòng với đất nước, tâm sự đó mang tầm vóc thời đại và vẫn luôn thể hiện ý chí, khí phách Việt Nam và niềm tự hào dân tộc cao độ theo một giọng điệu hào sảng[6].
  • Ông từng tâm sự: “Bây giờ có người bảo thơ tôi chỉ là “thơ thời sự”, tôi đồng ý ngay vì khi làm thơ, tôi đâu có mơ nó tồn tại thiên thu. Lại có người nói thơ tôi là loại “thơ phải đạo”. Tôi bảo họ, anh nói không sai vì cổ nhân nói “văn dĩ tải đạo” (văn là để chở đạo lý), vậy tôi cũng chỉ làm thơ theo lời dạy của cổ nhân thôi. Xét cho cùng, riêng cho tôi thì chẳng có gì đáng nói, nhưng tôi không biết lớp trẻ bây giờ có hiểu sai lạc thời kỳ đẹp nhất của văn nghệ nước ta?”. Khi qua đời, Tố Hữu để lại mấy dòng thơ thể hiện triết lý cuộc đời mình: "Tạm biệt đời ta yêu quý nhất/Còn mấy dòng thơ, một nắm tro/Thơ gửi bạn đường. Tro bón đất/Sống là cho. Chết cũng là cho."[7]

Đóng góp văn học[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”, "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”[7]
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sỹ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như "Việt Bắc", "Lượm", "Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên", "Việt Nam Máu Và Hoa", "Từ Cu-ba",..
Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người 'đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ' hay 'người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu' (nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh[6].

Các tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Bài thơ tiêu biểu[sửa | sửa mã nguồn]


Phong tặng và Giải thưởng văn học chính[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải nhất giải thưởng văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc)
  • Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ "Một tiếng đờn".
  • Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)
  • Huân chương Sao Vàng (1994)
  • Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...

Sự kiện rắc rối sau khi ông mất[sửa | sửa mã nguồn]

Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệbáo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7 tháng 5 năm 2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dânTiền Phong Chủ NhậtNgười Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi các người này.
Bài phỏng vấn được thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được các tờ báo chính thống ở Việt Nam phổ biến. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa[9].

Câu nói, câu thơ nổi tiếng[sửa | sửa mã nguồn]

Đấu tranh chống Nhân văn giai phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người kiên quyết phản đối và tham gia dập tắt Nhân văn – Giai Phẩm, một phong trào mà ông cho là đã lợi dụng phê bình văn nghệ để tuyên truyền chống phá về chính trị, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:
Lật bộ áo "Nhân Văn – Giai Phẩm" thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, Trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd)... Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn – Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm như sau: Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo, phản đối văn nghệ phục vụ chính trị nhưng thực ra là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân, muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động, đả kích nền văn nghệ kháng chiến, đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký của mình, sau khi nhắc tới tên một số người trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm cũng đã cho hay: “Bọn họ có người nói: Đừng viết nữa, để dành cho trẻ viết. Vô luận một bài, một sáng tác nào của anh em mà họ gọi là “cây đa cây đề”, họ đều gạt đi, cho là tồi. Trong khi đó thì họ tâng bốc những bài của họ mà phần lớn là không ngửi được!” (trích nhật ký ngày 23 tháng 1 năm 1956).

Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]

Tố Hữu được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam”,”một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng – Nghệ thuật – Tình yêu”, “một viên ngọc trong nền văn hóa Việt Nam”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”[7]
Tố Hữu không chỉ nổi bật trong tư cách nhà thơ, ông còn là nhà lãnh đạo chủ chốt của mặt trận tư tưởng, văn hóa văn nghệ Việt Nam trong thời gian dài. Ông hăng hái xây dựng nền văn hóa, văn nghệ nhân dân, say mê nền văn hóa mới mang đậm tính dân tộc, tính tiên tiến và tính nhân văn. Tố Hữu rất coi trọng việc khai thác và phát huy các vốn cổ dân tộc, những loại hình văn học nghệ thuật dân gian, cổ truyền của cộng đồng, của từng dân tộc và từng địa phương[11].
Nguyễn Huy Tưởng đã dành cho Tố Hữu những dòng bày tỏ sự yêu quý, kính trọng, như: “Tố Hữu vững chắc quá, được toàn thể anh em văn nghệ sĩ kính phục” (trích nhật ký ngày 28 tháng 9 năm 1949); “Nghĩ đến Tố Hữu, rực rỡ như vàng, như ánh sáng” (trích nhật ký tháng 12-1949); “Hôm nay lại tranh thủ ý kiến Tố Hữu. ý kiến hay...” (trích nhật ký ngày 28 tháng 4 năm 1959); “Lên chơi Tố Hữu. Thoải mái. Nói chuyện sắp đi Vĩnh Linh. Tố Hữu tán thành. Cần phải đi cho biết rộng” (trích nhật ký ngày 8 tháng 8 năm 1959); “Lên gặp Tố Hữu. Nhắc chuyện 1956, một dự định kịch và tiểu thuyết của ta cái hồi ấy... Tố Hữu đã góp cho nhiều ý kiến về vấn đề này”. Qua buổi gặp đó, Nguyễn Huy Tưởng thấy “yêu Đảng, yêu cách mạng” (trích nhật ký ngày 11 tháng 10 năm 1959)
Nhà văn hóa Đặng Thai Mai nhận xét: “Trong thơ Tố Hữu, nét nổi bật đáng quý là sự nhất trí. Nhất trí giữa đời sống và nghệ thuật. Nhất trí giữa tình cảm, tư tưởng và hành động. Nhất trí giữa con người với thời đại, với tập thể... “Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người yêu người sống để yêu nhau”[7]

            Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

            • Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Mối tình của hai người được họ tự khen ngợi là một mối tình đẹp và bà Thanh đã viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại.[15] Bà qua đời năm 2012.
            • Vợ chồng Tố Hữu có ba người con, hai gái và một trai.[cần dẫn nguồn]

            Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

            • Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở thủ đô Hà Nội, nối từ ngã tư Khuất Duy Tiến - Lê Văn Lương đến đầu phố Yên Lộ. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, đường Tố Hữu là một con đường chính nối ngã tư chợ Ga Nam Lý đến đường Hữu Nghị đi qua bến xe Nam Lý. Ở Huế cũng có một con đường mang tên ông.
            • Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996

            Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

            1.  (...)

            Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]