Thứ Tư, 8 tháng 11, 2017

về nhà văn trần vũ [i.e. lưu linh vũ saigon 1962- ] -- blog phan nguyên

Sunday, 10 April 2011


Trần Vũ


















Trần Vũ
(1962 - ......) Sài Gòn
tên thật: Lưu Linh Vũ
chủ biên tạp chí Hợp Lưu 2003 - 2005

nhà văn






















"Chúng tôi (tôi và Phan Nguyên) lên Thăng Long kỷ thứ 10. Mặt hồ Dâm Đàm mỏng như ý nghĩ khoa cử trong đầu Kiệt. Kinh sư đầu triều Lý mang sắc đẹp bán khai dữ dội của những cánh rừng bàng chưa phát quang"
trích Người Bạn Triều Lý' 5/99

"Á châu . Tìm người tình kín đáo. Hộp thư 927"






*






-học tiểu học và trung học Lasan Taberd. Sau chuyển sang Bùi Thị Xuân (Nguyễn Bá Tòng cũ). --vượt biên đến Philippines, sau một năm ở trại tị nạn Palawan, Puerto Princesa City, đến định cư tại Pháp từ 1979.
Trần Vũ bắt đầu viết truyện năm 25 tuổi
-đã cộng tác: Serpent à plumes, Văn, Văn Học, Làng Văn, Hợp lưu, Thế kỷ 21, Talawas  vv...
























Di Sản Triều Lý


truyện ngắn:  TRẦN  VŨ









Chúng tôi lên Thăng Long Tết Ất Mùi, mặt hồ Dâm Đàm mỏng như ý nghĩ khoa cử trong đầu Kiệt. Kinh sư đầu triều Lý mang sắc đẹp bán khai dữ dội của những cánh rừng bàng chưa phát quang. Kiệt hay đứng ở bờ nước, mắt dõi theo những cuống sen già trôi quả quyết về hướng Cấm Đình.



- Nay mai đỗ đầu tiến sĩ thì ngồi nhà mát ăn bát vàng.

Kiệt trỏ những kiệu sơn son thếp vàng đang che tàng lọng với vuông vải điều chấm đất. Khắp kinh sư hực lên màu huyết dụ bát ngát.

Đã quen với những kiệu có lốp, trở về Thăng Long chứng kiến người cáng, kẻ chễm chệ, khiến chúng tôi lạ lẫm. Trong trí não mỗi người dường như vang dội một câu hỏi: Chúng tôi thuộc thế kỷ nào và trở về từ đâu? Không ai nói ra nhưng tất cả cùng nghĩ mình thuộc ngày hôm qua và trở về từ quá khứ... Một kẻ muốn tin chúng tôi thuộc ngày mai và trở về từ tương lai. Một kẻ khác tán đồng rồi lần lượt cả nhóm tin như vậy. Kỳ lạ là câu chuyện đã không diễn ra bằng ngôn từ nào, không một phát âm, không một lời nói, nhưng chúng tôi đã giao tiếp với nhau như có thần giao cách cảm.

Trong nhóm, Kế Dân là một nhà văn đã ngừng viết. Anh chuyển sang kiếm sống bằng cách dọn những cỗ bàn thật thịnh soạn với thật ít thịt rừng. Thú, không làm nên bữa ăn. Con người tạo ra tất cả. Khi không tạo ra được gì nữa, nhai lại, thì con người xuống cấp thú. Kế Dân kể đã từng lột mặt nạ thú đội lốt thực khách bước chân vào hiệu Trảm Xà, cơ sở kinh doanh của vợ chồng anh. Chỉ chúng tôi hiểu, anh mang nỗi đau của một kẻ kiên nhẫn chưa thể về thăm quê quán. Chuyến trở về Thăng Long, Kế Dân không cùng đi, bởi lẽ anh tiêu tốn tất cả thời giờ cho những chảo gang mà anh tin đã bóc ra từng mặt người giữa váng dầu.

- Trở về với mục đích gì mới là điều đáng nói. Còn trở về để đi hát ả đào thì vất đi. Chúng ta không phải là lũ người ấy.

Chúng tôi giải thích cho anh biết bây giờ không còn ả đào nữa mà có những người mẫu cô đầu.

- Biết rồi, chuyện ấy là chuyện vặt. Anh gạt. Về để tìm gì và hãy cố mà tìm cho ra điều mình muốn. 

Kế Dân chúc chúng tôi đi may mắn. Anh tiễn nhóm ra tận cửa hiệu Trảm Xà. Trời rét, buốt, xám ẩm như linh hồn chúng tôi bấy lâu mối mọt vì chờ đợi một hy vọng nào đó mà chúng tôi biết chỉ có đất Đại Việt mới có thể cung ứng. Chúng tôi vẫy chào Kế Dân và với cả Vãng Sanh Đường. Hắn cũng không đi vì bận viết sách. Khảo cổ là công việc của sáng tác, triết học mới là tương lai. Vãng Sanh Đường khẳng quyết.

Chúng tôi, như thế, là những nhà khảo cổ.

***

Nhóm gồm có Giáng Hương, Thi Thi, Kinh Bang và tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn không biết vì sao chúng tôi gặp nhau, trong hoàn cảnh nào của tổ quốc, giữa tình huống nào của đất nước. Tất cả đã thất lạc trên khắp cùng các lục địa rồi bất chợt hội tụ ở một thời điểm mà không ai xác định được niên lịch. Chỉ về đến Thăng Long, chúng tôi mới ngỡ ngàng khám phá ra đang ở triều Lý.

Buổi sáng áp Tết, đứng ở mặt hồ Dâm Đàm nhìn sóng khói uốn quanh cánh rừng bàng đang hắt xanh hực màu tím tái, chúng tôi vụt hiểu ra điều mình muốn. Không phải Kiệt, hắn chỉ là trung gian.

Kiệt nhìn chúng tôi dò xét. Chúng tôi cũng ngắm nhìn hắn. Đôi bên cùng nhận ra sự khác biệt không chỉ duy nhất ở nhân dáng nhưng vào đến tận đáy tâm hồn. Điều này có thể kiểm chứng qua chiếc bóng của Kiệt đã tiệp hẳn vào nước rêu giống như hắn đang trầm giữa hồ mà chiếc bóng của chúng tôi hãy còn tách bạch không chịu chìm xuống nước. Nhân ảnh của những kẻ trở về đã bị bứng rời ra vĩnh viễn, dù muốn, không bao giờ còn có thể hoà quyện với thiên nhiên xứ này. Chúng tôi như tự ghép vào một tấm ván quét sơn chống thấm.

Kiệt nổi tiếng qua sách vở. Hắn nổi danh như cồn một thời với một bài thơ Tân Hình thức mà toàn quốc ngâm i ỉ Nam quốc sơn hà nam đế cư…

- Chúng tôi muốn gặp một nhà thơ.

Thi Thi cất tiếng.

Kiệt phát lên cười ha hả. Tiếng cười của hắn sang sảng làm sóng mặt hồ. Chúng tôi sớm để ý giọng cười của hắn có khí lực làm lá trúc rụng lả tả. Mặt hồ sáng tối không ngừng phản chiếu tròng con ngươi của hắn cũng sáng tối, khi đồng tử mở tiếp thu mặt người, khi đồng tử khép khoá chặt mặt người. Tất cả trong một động tác liên hoàn làm chủ bản thân.

Lý Thường Kiệt tên cúng cơm Ngô Tuấn, người làng An Xá, huyện Quảng Đức, con của Sùng tiết Ngô An Ngữ, hộ khẩu phường Thái Hoà là một nhà thơ tinh thông võ nghệ. Kinh Bang nói nhỏ vào tai chúng tôi. Anh rất tinh xét người và xét cả linh hồn kẻ đối diện. Làm giáo sư kinh tế thì phải biết động cơ buôn bán. Mà động cơ buôn bán là cái phần cốt lõi nhất của con người, vì chỉ con người mới mua bán, loài động vật thì ăn thịt hoặc bị ăn thịt. Cuối cùng, con người là mục đích của văn chương. Làm một nhà văn, như thế phải am tường con người. Nhưng làm một nhà thơ đích thực rất khác với một nhà thơ thỏa hiệp.

Kinh Bang thì thầm.

Lý Thường Kiệt có khả năng thích ứng phi thường. Trong chiến tranh sống sót qua bao trận lao mác, đến thời bình đi buôn lò chạy sóng vi ba ở cửa khẩu Lạng Sơn, bị bắt vì nhập hàng lậu, hắn thản nhiên thi hành án rồi ra khám đỗ đầu vào trường viết văn Đinh Tiên Hoàng. Chúng tôi biết đang gặp Đối tượng Nhân dân của xứ này.

- Bây giờ thì chú làm gì?

Sau khi nghe Kiệt phô trương lý lịch, Thi Thi thắc mắc. Thi Thi hay thăm dò tâm hồn kẻ khác, mà theo cô, nếu là những tâm hồn nhạy cảm sẽ phát tín hiệu như tiếng kêu của phong linh trước gió.

Kiệt đáp, hắn đang học thêm ở đền Đồng Tước lấy bằng “C” Hoa ngữ.

- Tiếng Hoa gốc Trung-Việt khó mà dễ. Cứ thuộc lòng hai trăm khẩu hiệu Đổi Mới là nói được. Đi học để mà lập thân, vì đất nước này trọng văn hơn võ. Cứ nhìn lão tướng Lý Nam Khánh thì hiểu, mang quân hàm thống soái mà ngày ba buổi viết thư gửi Cấm Thành xin xét vụ Pháp Đình 2 lộng quyền không được giải quyết. Một chức quan võ không bằng mỏ quan văn.

Kiệt chắc lưỡi. Hắn thao thao về một vụ việc rắm rối giữa đám kiêu binh Lê Phụng Hiểu với phái bảo hoàng Lý Nhân Nghĩa nhưng chúng tôi không ai hiểu. Hắn nói bên Trung Quốc có Lý Liên Kiệt thì Đại Việt sẽ có Lý Thường Kiệt. Riềng mối xã hội này xây dựng trên chức phận khuyển mã, phải giẫm đạp lên nhau để mà tiến. Mai này hắn sẽ vào trại sáng tác Lý Thùy Trâm để tập viết truyện cực ngắn. Tốt nghiệp trường viết văn là nắm chắc cơ hội vào biên chế, ít nhất làm phó bí thư cho Lại bộ Thượng thư. Đất này trọng văn. Chẳng thế mà người ta gọi là Văn bằng tiến sĩ, Văn bằng bảng nhãn, Văn bằng thám hoa. Ở đời, học vị mua được, cái khó là được cánh Dương Thái hậu che chở.

- Nếu thi trượt thì sao? 

Giáng Hương ngắt lời. Giáng Hương tên thật Phan Chánh Tâm, nổi tiếng với truyện ngắn Bãi đất của Lisa, trực tính, lý trí và thực tế, từng có kinh nghiệm soạn giáo trình cho đại học Kha Luân Bố.

- Không đỗ vẫn có cách làm quan. Kiệt nhổ một bãi đờm. 

- Cách nào?

- Tự thiến chứ còn cách nào nữa! Làm quan hoạn vẫn cứ là quan mà lại được bổ dụng vào những chỗ tâm phúc. Thiếu gì những chức hoạn trong Khu Mật Sứ hái ra tiền: Chi hậu nội nhân, Chính thủ chi hậu, Liệt hầu... Cứ ra Quán Vũ Sư thì thấy, chúng xài bạc vạn.

Kiệt phả vào mặt chúng tôi tâm huyết của hắn muốn xông vào Cấm Đình rồi bỏ đi. Chúng tôi đứng chôn chân dưới tiết giáng xuân ở bờ hồ Dâm Đàm. Thảm mưa lưu ly chấp chới, óng ánh bay theo bước chân Kiệt ra đại lý dò vé số. Láng mưa rây rắc những hạt trong suốt làm ướt các gốc mai rụng những búp vàng. Xác hoa tan tác trên mặt nước sẫm màu đất. Có tiếng ngựa hí vang lừng và tiếng cồng chiêng điểm canh. Chúng tôi chứng kiến cảnh các thiếu nữ kinh kỳ cưỡi lân tìm khách. Lũ kỳ lân khà lửa mỗi khi các kiều nữ xoắn tai... Trong lòng lũ xa xứ lại vang vang câu hỏi: Có phải tạo hoá khiến mai phải tàn và Cấm Đình biến trí lực Bắc Hà thành những kỳ nữ đến kỳ kinh nguyệt đầu tiên vụt nhận thức âm hộ mình đáng giá một lô đất?

***

Cửa hiệu bún chả Hàng Mành lọt thỏm giữa ngôi phố cổ. Đã mươi thế kỷ dân Bách Việt ăn bún chả. Đã hơn một tuần trôi qua chúng tôi lang bạt các phố Lê Hoàn, Hàm Tử Quan, Hàng Bạc, Hàng Khay, ngõ Gốc Khế đến phố Gia Ngư, phố Gầm Cầu vẫn không tìm ra điều mình muốn. Đi hết chùa Trăm Gian qua đến chùa Phật Tích, nhóm quyết định gặp lại Lý Thường Kiệt. Phải là một nhà thơ mới hiểu hết bí mật nhân loại và phải là một nhà thơ đất Đại Việt mới thấu đáo bí ẩn quốc gia.

Thi Thi ngắm những ống ngói nâu uốn lượn như một lớp vẩy rồng cũ kỹ, lợp bắt từ phố Hàng Bông qua phố Hàng Nón. Ở gần phía Lý Quốc Sư là hiệu bún chả. Chúng tôi hóng khói mỡ chó rưới lên thịt xiên thơm ngào ngạt. Đất Thăng Long nổi tiếng về ẩm thực. “Siêu bẩn!”, Kiệt hất mặt, trong lúc Thi Thi phân chất khí quyển rồi mở ví lấy nước hoa chấm vào cánh mũi trước khi hôn phớt nhẹ lên sóng mũi của Giáng Hương. Giữa cả hai có một sự thông minh kín đáo và một tình ý thầm kín nào đó mà chúng tôi chưa biết. Nhóm chỉ có thể kiểm chứng hai thiếu phụ còn giữ nhân dáng thời trẻ. Thi Thi luôn đeo kính mát làm như cô muốn che chắn tình cảm đang bột phát. Giáng Hương mảnh khảnh như một nữ sinh còn ôm cặp sách. Ẩn sâu trong tâm trí, Giáng Hương biết thân thể mình ngưng phát triển, ở lại vĩnh viễn thời khắc cô đã đành đoạn ra đi. Thể xác cô tự bảo tồn từ khi rời Đại Việt và thôi tăng trưởng. Nhưng nếu cơ thể của Giáng Hương tiếp tục ở lại với tổ quốc, thì trí não của cô phình to bằng một vại nước. Cô có thể trút hết vào vại tất cả sách của thư viện Kha Luân Bố, có thể phân loại mọi thứ, thứ nào Hậu, thứ nào Tân, thứ nào sau Thời kỳ Thuộc địa hay Tân Bảo thủ. Giáng Hương chỉ bối rối trước thực phẩm. Cô chưa biết cách phân biệt miếng chả nướng ngâm trong bát nước mắm đang bày trước mắt là Tiền hiện đại hay Hậu hình thức. Tân Tự do hay Hậu Tự do.

Lý Thường Kiệt rất tinh ý, hắn cũng thấy cả hai kỳ lạ, không giống phụ nữ công tác ở cung Từ Hoa hay chăn tằm ở bến Nghi Tàm. Hắn lật qua lật lại miếng chả, thăm dò ý tứ. Kinh Bang quan sát rồi đột ngột kéo tất cả về một thực tế:

- Cái mùi gì thum thủm ở kinh sư cả tuần nay chưa hết?

- Không bao giờ hết!

Kiệt buông đủa. Hắn giải thích đó là mùi phân trâu Lý Công Uẩn khi chiếu dời đô đã đem từ chiến khu Hoa Lư về Thăng Long để tưởng nhớ nơi dấy nghiệp lớn. Đống phân trâu thờ cúng trong lăng, mấy lần cải tạo đô thị mà vẫn còn khắm xú uế.

- Phân trâu khi ở ngoài ruộng thì thấy thơm, về thành thối hoăng. Nhưng ngửi riết lại quen, đâm nghiện, không có không chịu được. Càng ngửi lâu, càng thấy đậm đà bản sắc dân tộc.

Kiệt khịt mũi. Chúng tôi nhìn hắn đơm bún, trong lòng mỗi người đều nôn nao chờ đợi hắn nói về di sản cao quý nhất của Đại Việt. Di sản mà chúng tôi biết đã có, đã từng hiện diện trước khi biến mất trong tao loạn. Mảnh đất thần linh này đang cất giấu di sản ấy, nhưng không ai biết ở đâu, là vật gì.

Chúng tôi tiếp tục ngắm mâm húng cây xanh mướt, điểm vài lá tía tô tím rập rờn. Đĩa rau sống mượt mà. Kiệt khạc một bãi đờm.

- Sáng nay quân Tống giết hại bừa bãi ngư dân gần đảo Hải Nam, hạ đặt cần câu trái phép. Mai này Đại Việt sẽ khởi binh phạt Tống đánh lấy Ung châu cho Thiên triều nể mặt!

Kiệt vỗ ngực, giọng hắn rắn, có chất thép.

- Lấy cái gì phạt Tống? Nội lực ở đâu?

Kinh Bang vặn. Anh ưa tra vấn những vấn đề lịch sử, văn hoá và luôn luôn hoài nghi sức mạnh của Đại Việt.

Kiệt gắp ớt, trả lời:

- Lấy chí nhân thay cường bạo, lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Đánh một trận sạch không kình ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông…

- Đấy là thơ Nguyễn Trãi không phải thời này.

Kinh Bang cắt. Với anh, chuyện văn hoá phải có trước, có sau, có ngọn ngành. Triều Lý, triều Trần rồi mới tới thời Hồ Quý Ly, Lê Lợi, Lê Chiêu Thống… không thể một bước tiến lên Chuyên chính Tập trung.

Kiệt nhún vai:

- Thời tin học, Bình Ngô Đại Cáo cứ lên chợ giời mà chép. Thơ văn cái gì không đúc đồng được ở phường Đúc thì khắc bản ở ngoài. Chả việc gì khó.

- Nhưng làm sao sống ở thời Lý mà chú biết những thông tin thời Lê?

Thi Thi đã cất ve nước hoa vào ví. Cô trở nên chăm chú. Từ khi sanh con, cô chú ý đến lịch sử và sợ hãi lịch sử sẽ bắt kịp con trai mình. Cô cố gắng theo dõi từng bước đi của các triều đại để tránh tai hoạ.

- Thời gian có chuẩn không? Gọi là thời Lý thì là thời Lý, xem là thời Lê mạt thì sẽ thành thời Lê mạt. Cái niên biểu ấy do Cấm Đình đặt ra, còn thông tin chúng vẫn cứ luân lưu trong thế giới bất kể cái nước Đại Việt này nó đứng ở đâu trong cột mốc thời gian địa phương nào. Như cái thành Thăng Long này hôm qua còn mang tên thành Đại La. Như cái thành Hồ Quý Ly rồi sẽ trở lại tên Gia Định. Hôm nay Đại Việt, ngày mai Tiểu Việt, ngày mốt Đại Cồ Việt rồi ngày kia sẽ lại là Đại Nam hay Tiểu Nam, lúc nào cũng đi sau thế giới mười kỷ mà thông tin là do thế giới vận chuyển. Tôi nói thế có đúng không? Cái quan trọng là con người sinh sống dưới cái niên biểu ấy ý thức thân phận mình giữa vũ trụ. Như tôi ý thức mình là một nhà thơ thì nhiệm vụ của tôi là làm ra thơ xuôi. Để kiếm sống tôi chạy mối tiếp thị bán tôm sú cho đền Vạn Kiếp. Để tiến thân tôi đi học trường viết văn Đinh Tiên Hoàng. Để nổi tiếng tôi khuyến mãi thơ trên chợ giời. Có gì nghịch ý thiên tử hay có gì nghịch với đạo lý làm người?

Kiệt giải thích. Hắn nhìn chúng tôi chằm chằm. Tay này có sĩ khí, không phải loại thường. Kinh Bang thần giao cách cảm với nhóm và chúng tôi công nhận với Kiệt thời gian trên mảnh đất Rồng biến ảo, giống một trò phù phép. Kiệt lùa cạn tô bún:

- Không phải phù phép. Bôi tro trát trấu diễn tuồng. Một trò phường tuồng. Các anh chị phải sống ở đây thì mới hiểu thế nào là phường tuồng. Chúng tôi diễn mỗi ngày. Thằng viết kịch bản rồi sắm vai chánh, thằng học kịch bản rồi đóng vai phụ. Cả cái đất này là một sân khấu. Đừng nói chuyện phù phép, không phép tắc gì ở cái xứ này.

- Chú này khá!

Kinh Bang vỗ tay. Chúng tôi bắt đầu kích động. Giáng Hương kêu phục vụ hâm các siêu Qui Lộc tửu, rồi phân tích:

- Thời gian có chuẩn và là một đường thẳng tiệm tiến. Chỉ lịch sử trên đất nước này thiếu trật tự. Sẽ không có một lịch sử ngay thẳng ngày nào chưa có yêu cầu trật tự. Nhu cầu rồi sẽ đến. Nhưng điều chúng tôi muốn biết, là di sản thiêng liêng quý giá nhất của quốc gia này có không, là gì, ở đâu và ai cất giữ? Không di sản thì trật tự nào rồi cũng sụp đổ vì xây dựng trên khoảng trống thiếu bền vững. Có thể tôi nói sai, nhưng các anh ở đây, là những nhà thơ có khát vọng cá nhân nhưng ít khát vọng tập thể. Các anh diễn tuồng Di Sản mà không bao giờ đi tìm phần tinh túy nhất của vở tuồng. Nhiều kịch bản không nội dung là một cuộc đời không ý nghĩa.

Giáng Hương cạn chén.

Kiệt nhìn đăm đăm những lá thế kỳ cắm đỏ phố Hàng Mành như đang ngắm một nhà quàn. Các gốc thế kỳ thẳng đứng, buông từng tấm đoạn đỏ máu. Những tấm vải không động đậy như muốn chứng minh một sự hiện diện bất di bất dịch đời đời vĩnh viễn. Tại sao triều Lý lại chọn biểu tượng của máu làm quốc kỳ? Chúng tôi nhìn nhau, da dẻ của mỗi người đã vàng kệch dưới bóng nắng chiều.

Gương mặt Lý Thường Kiệt cháy phừng phừng. Hắn tưới liên tục hết chung này sang chung khác, rồi nhìn Giáng Hương lừ lừ như muốn giao cấu tức khắc. Chúng tôi chờ đợi hắn nói về di sản, nhưng Kiệt phát biểu về xã hội hắn đang sinh sống.

- Chị chưa hiểu tôi và xứ sở này, một xã hội định hướng Hán-Nôm. Tại sao gọi chợ Đồng Xuân định hướng Hán-Nôm? Vì Hán ở mặt tư tưởng, Nôm ở con người lao động, nai lưng ra mà phục vụ. Ở các châu huyện đã bắt đầu bầu đại biểu thi đua xét việc nước. Thi đua có nghĩa là do các quan cửu phẩm của Cấm Đình trao giải. Nhà thơ chúng tôi làm được gì? Các anh chị ở ngoài không bài tiết mồ hôi mà cứ hay phê phán. Đất nước này là một, dân tộc này là một. Với một kịch bản duy nhất thì chỉ có thể có một nội dung duy nhất. Các anh chị muốn đi tìm di sản cao quý nhất của Đại Việt thì tôi sẽ kể. Nhưng các anh chị sẽ không tìm ra và sẽ gặp nguy hiểm như chúng tôi đã từng gặp nguy hiểm. Các nhà thơ ở đây, bây giờ không ai còn dám đi tìm di sản cao quý nhất nữa, rồi sẽ đến phiên các anh chị. Chưa cắm sào chưa biết nông sâu. Cấm Đình sâu lắm. Trải qua nội chiến sứ quân, nó đã trở thành một viện bảo tàng và không ai phá viện bảo tàng.

- Nó chứa gì trong ấy?

- Con cái cửu phẩm, thượng phẩm phụng ngự, tể tướng và xác thiên tử.

- Chỉ có chừng ấy?

- Không. Còn có cả ấn phong vương của Tống triều và hoạn quan. Nhưng vấn đề không ở lũ quan hoạn. Triều nào quan ấy, thời hoạn quan hoạn. Vấn đề là không còn ai biết đến di sản có thật của tổ tiên để lại. Tất cả đã bị bôi xoá. Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người, đã gần một thiên niên kỷ, bách tính bây giờ ngu muội. Quần chúng tiêu xài những giá trị giả, từ lịch sử đến văn học, mà cứ tưởng hàng thật. Chỉ những nhà thơ, với độ nhậy bẩm sinh, với khả năng tiên tri quá khứ, mới linh cảm đã hiện diện một thứ trân quý từ ngàn xưa, nhưng không ai dám đi tìm. Bi kịch của nước này là chứng liệt háng tập thể!

Kiệt kêu thêm Hà Nàm tửu. Hắn phân đều những bào thai nhím. Kiệt nói oang oang ở Trung quốc ngâm thai nhi nhưng ở Đại Việt tất cả đều là hàng nhái, cứ uống không sợ mất nhân bản. Hắn mời rượu, chúng tôi cạn thêm chung nữa. Rồi thêm chung nữa. Rồi lại chung nữa, đến khi siêu đất không còn tiếng động. Kiệt ụa khan. Giọng hắn đã ngà nhưng vẫn ngạo.

- Con người rất giống siêu đất, cứ im lặng mãi đến một lúc sẽ khô cạn không còn ích lợi gì nữa. Các nhà thơ lớn bây giờ phát biểu thoải mái ngoài tửu quán nhưng không viết ra giấy. Thép đã tôi thế đấy. Các anh chị muốn tìm di sản thì hãy tìm đi, hãy cố mà giành giật.

Giáng Hương không úp chén, kêu thêm Hà Nàm tửu, rồi bật diêm đốt cho đến khi cồn cháy hết chỉ còn lại những lá nhau tím bầm. Giáng Hương đợi cho ánh lửa tắt ngấm rồi mới nhìn Kiệt:

- Làm nhà thơ, các anh chỉ biết uống rượu đế ngâm thai nhi mạo hoá. Thép đã tôi thế đấy- phải hiểu là tự ti hay tự tôn? Đừng tránh né vấn đề, chúng tôi trở về đây với tấm lòng ngay thẳng và với một niềm tin: Muốn gìn giữ rồi phát triển Đại Việt thì phải tìm ra di sản. Nhưng muốn giữ phải biết mình có gì để giữ, muốn phát triển phải biết mình có gì để phát triển. Phá Tống đời nay các anh không thể dùng nỏ thần của An Dương Vương, di sản của tổ phụ chắc chắn phải hiệu quả hơn một món võ khí. Di sản chỉ có thể là văn hoá vì văn hoá là hạt giống nhân cách mà nhân cách không thể là một hành động giết người. An Dương Vương thuở xưa, phá xâm lược bằng cách giết xâm lược rồi thất bại, thời nay chung sống với xâm lược, các anh phải biết phá xâm lược bằng văn hoá. Chúng tôi mang máu mủ trở về để cùng đi tìm. Có hay không di sản? Có hay không ước muốn cùng đi tìm với những kẻ đã bị phát vãng? Tôi nói lời thật: Chúng tôi trở về với lòng yêu nước ngang bằng các anh.

Giáng Hương kết thúc, hay đúng hơn mở đầu điều tất cả chúng tôi muốn nói. Đôi mắt cô óng ánh, lấp lánh hoài bão. Lý Thường Kiệt im lặng. Đồng tử giữa tròng mắt hắn đã kín chật mặt người. Chúng tôi không ai lên tiếng nhưng cùng giao cảm vì đã hiểu, đã đến lúc phải tra vấn định mệnh, tra vấn những con người giành đất hương hỏa. Chúng tôi mang trong mình dòng máu Đại Việt và có quyền kế thừa di sản. Chúng tôi là những nhánh sông Tô Lịch, Nhị Hà vẫn chảy chan chứa trên mảnh đất này.

***

Tuyên phi Đặng Thị Huệ mang sắc đẹp của Ỷ Lan sáu trăm năm trước, sắc đẹp của hồ Dâm Đàm nuốt mặt trăng rằm và kết bằng những lá trúc sắc dao. Giống Linh Nhân thái hậu, Huệ đẹp như một giòng suối. Khác Linh Nhân thái hậu, Huệ ác như những lượn sóng ngầm. Những đêm ân ái trên lầu Tử Các, Huệ nói với Trịnh Sâm: Hãy nuốt lưỡi tôi vì sau này bọn chúng sẽ cắt. Chỉ một câu nói của Huệ làm Tĩnh Đô Vương đảo điên và hành xử như một kẻ điên. Trịnh Sâm xuống chiếu giết hết bọn Lê Duy Vỹ, Lê Duy Mật và lớp nho sĩ Bắc Hà chống đối. Canh thâu váng tiếng cười đắc thắng của Huệ biết mình được sủng ái. Sử chép: Đặng Thị Huệ mang sắc đẹp hớp hồn của mùa xuân trên đất Bắc tráng những lớp mưa mỏng như làn hơi thở ẩm bên trong lồng ngực dưới yếm đào của một thiếu nữ bán thân. 

Thi Thi gấp sách:

- Đại Việt Sử ký Toàn thư, bản kỉ thực lục.

Nhóm quyết đinh đi tìm di sản ở kỷ nhà Lê. Vì chúng tôi cùng nghi hoặc Lý Thường Kiệt chúng tôi gặp là một Lý Thường Kiệt giả, ngay cả triều Lý trước mặt cũng là một triều Lý giả. Phải quay về thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh để hiểu chuyện gì xảy ra trong nội chiến và vì đâu di sản biến mất. Nhóm ngắm đền Voi Phục lần chót trước khi ra phố Kim Mã đón xe thổ mộ vào Thuận Hóa. Kinh sư đang rầm rộ đón Tống Khiết Trì. Những tấm đoạn đỏ thêu sáu vì sao phất cao như sức hãnh tiến của một triều đại man trá.

Phụ Lục Di sản

Điều 88 bộ Hình nghiêm cấm với khung hình phạt khổ sai cho những ai tìm kiếm Trái tim của Lạc Long Quân, Bút Tả Thanh thiên và Nhật ký Chu Văn An.

1. Theo truyền thuyết, ngày năm mươi con lên núi và năm mươi con xuống biển, Lạc Long Quân đã đau đớn vì các con đánh lẫn nhau, thù hằn mãi mãi. Tổ phụ tức uất vì đại tộc tan nát, quyết định tự mổ ngực để tìm cái chết vì cuộc sống trên mảnh đất Rồng không còn ý nghĩa. Trước xác Âu Cơ, Lạc Long Quân tự móc tim rồi chôn xuống đất với lời nguyền: Sau này kẻ nào tìm lại trái tim của Cha, đem áp vào lồng ngực, mới hóa giải oán thù.

Khi Trịnh Kiểm muốn giết Nguyễn Hoàng, thì bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo, thụy là Tử Nghi, tức chị ruột của Nguyễn Hoàng và là thứ phi của Trịnh Kiểm, đã van xin chúa Trịnh đừng giết em trai mình. Trịnh Kiểm quyết định phát vãng Nguyễn Hoàng vào Ái Tử là đất hung hiểm chưa bình định. Trước khi đi, Nguyễn Hoàng đến gặp Trạng Trình xin một lời khuyên. Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng bút Tả Thanh thiên viết tám chữ Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân rồi trao bút: Hãy cầm lấy bút này để viết lên lịch sử Đàng Trong. Nhưng phải nhớ, bút Tả Thanh thiên chỉ viết ra sự thật và viết lên sự thật, nếu gian dối, sẽ không một chữ nào hiện ra. Nguyễn Hoàng cúi lạy rồi về kể lại cho chị. Bà Ngọc Bảo nghe chuyện, tự cắt tay mình rồi hứng máu nói với em trai: Hãy dùng máu của chị mà viết lên lịch sử xứ Đàng Trong và sau này khi chiến tranh với Đàng Ngoài, phải nhớ là đánh nhau với những người cùng huyết thống, cùng máu mủ với chị mình. Bút Tả Thanh thiên viết lên lịch sử triều Nguyễn cho đến khi thất lạc rơi vào tay chúa Nguyễn Khánh rồi chúa Nguyễn Văn Thiệu. Tháng 3-1975, khi xâm lược của Đàng Ngoài bộc phát dữ dội, trong tuyệt vọng, Nguyễn Văn Thiệu vụt nhớ đến di chỉ của Nguyễn Hoàng truyền cho con cháu: Sau này khi chiến tranh với Đàng Ngoài, phải biết quy hàng để tránh máu đổ một nhà. Chính di chỉ ấy đã khiến Nguyễn Văn Thiệu quyết định triệt thoái cao nguyên Trung phần đưa đến tan vỡ. Bút Tả Thanh Thiên tuyệt tích cho đến lúc một nhà văn tìm được, đem đi vượt biên rồi bị hải tặc Thái Lan cướp mất.

Hiệu Tiều Ẩn 樵隱, tên chữ là Linh Triệt 靈澤, Chu Văn An là vị thầy tiết tháo của tất cả môn sinh Đại Việt. Nhật ký ghi chép minh bạch tất cả thối nát cùng xấu xa gian tà của bảy nịnh thần mà Chu Văn An dâng biểu xin chém. Không duy nhất liệt kê xiểm nịnh mà Chu Văn An còn ghi lại những mật ước, nghị hòa, xin cắt đất của triều Trần Dụ Tông để nhận tước phong của Bắc triều. 

Cả ba di sản trên, tin đồn di sản thứ nhất đã dâng cho Tống triều, di sản thứ hai đã bán cho Hàn quốc, còn di sản thứ ba trong tay Tuyên giáo. 

áp Tết Ất Mùi






















Mỗi con người trưởng thành mang trong mình một tín ngưỡng văn chương



Phạm Thị Hoài phỏng vấn Trần Vũ











Trong giới văn học và xuất bản ở Mỹ hiện nay, tuy trong thời đại internet và social media, truyện ngắn không được đánh giá trị cao như truyện dài. Những nhà văn trẻ thường bắt đầu với truyện ngắn như một cách “học nghề,” nhưng sau đó bước chân vào truyện dài như một lẽ dĩ nhiên. Alice Munro, Raymond Carver, Lydia Davis và Lorrie Moore được coi là ngoại lệ, vì đây là những nhà văn nổi tiếng với những cải cách trong thể truyện ngắn. Hiện số mệnh truyện ngắn trong giới văn học Việt trong và ngoài nước như sao? Truyện ngắn có được giới độc giả Việt đánh giá cao hơn truyện dài không? Tại sao?



Trần Vũ: Câu hỏi của Da Màu đem tôi về lại thập niên 90 trong những quán hầm đêm với Nina McPherson, dịch giả của Dương Thu Hương. Một lần Nina cho biết đã hoàn tất bản dịch Anh ngữ “Xứ Sấm Sét” của Võ Đình, “Chỗ Trọ trong Rừng Chuối” của Ngọc Khôi, “Giấc Ngủ nơi Trần Thế” của Nguyễn Thị Ấm, “Gió Dại” của Bảo Ninh… nhưng bước chân vào nhà xuất bản nào chào mời, cô cũng đều nhận cùng một câu hỏi: “Nhà văn Việt có truyện dài không?” Cuối cùng Nina đành đăng các bản dịch của mình trên tạp chí Granta, thời Bill Buford làm tổng biên tập. Buford từng phụ trách trang truyện ngắn của The New Yorker và trên Granta khám phá ra nhiều tên tuổi lẫy lừng về sau, nên việc Buford chọn đăng những tác giả vô danh đối với công chúng Anglo-Saxon nói lên phẩm chất bản dịch của Nina McPherson. Tuy nhiên, Granta hay Le Serpent à Plume với vài chuyên đề về truyện ngắn Á châu cũng như vài tập truyện ngắn Việt Nam qua bản dịch Pháp ngữ của các nhà xuất bản Philippe Picquier, L’Aube không che khuất xu hướng ưa chuộng truyện dài ở độc giả Tây phương. Bước chân vào hiệu sách Tây, là bước chân vào thế giới của truyện dài, hồi ký và tiểu luận. Ba thể loại này độc chiếm các quầy sách. Thành công trên trường sách quốc tế của Bên kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù, Tiểu thuyết vô đề của Dương Thu Hương hay Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, trước nhất, là thành công của thể truyện dài. Tập truyện Trái tim hổ của Nguyễn Huy Thiệp qua bản dịch Kim Lefèvre không gây nhiều chú ý bằng.





“Truyện ngắn có được giới độc giả Việt đánh giá cao hơn truyện dài?”



Nếu là câu hỏi dành cho độc giả Pháp, chúng ta tìm thấy câu trả lời dưới hầm métro. Trong các toa tàu thậm thượt thường xuyên là hình ảnh những hành khách đang chú mục vào những quyển tiểu thuyết dầy cộp nhiều trăm trang, hiếm khi họ cầm trên tay một tập truyện ngắn. Trước 75, tiểu thuyết dịch, tiểu thuyết feuilletons, tiểu thuyết Quỳnh Dao và các pho tiểu thuyết kiếm hiệp thống lĩnh thị trường miền Nam mà không phải truyện ngắn. Ngành xuất bản giấy in trong Nam phồn thịnh với hiện tượng sách dịch: Kẻ xa lạ của Albert Camus, Buồn nôn của Jean Paul Sartre, Chiến hữu của Remarque, Kiều giang của Charlotte Bronte, Kim Các tự của Yukio Mishima, Về Miền đất Hứa của Léon Uris, Đỉnh Gió hú của Emily Bronte, Bố già của Mario Puzo,Chuông gọi Hồn ai của Ernest Hemingway, Chùm nho phẫn nộ của John Steinbeck, Quần đảo ngục tù của Alexandre Soljenitsyne, Papillon Giang hồ tung cánh của Henri Charrière, v.v.. là mặt nổi của hiện tượng này và cũng là những tiểu thuyết dịch đã ăn sâu vào trong tâm khảm người miền Nam. Có thể viết: Tây, Ta, đều chuộng truyện dài, không nhất thiết đánh giá cao hơn nhưng là thị hiếu của thời đại.



Còn bây giờ? Xã hội Việt Nam thời Cộng sản là một xã hội trống vắng thống kê, từ chi tiêu của chính phủ đến số liệu in ấn. Lấy gì căn cứ? Nhìn sang Pháp, thị hiếu của độc giả Tây được chứng thực bằng những số liệu sau:



Rentrée littéraire tháng 9-2013 xuất bản 555 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2012 xuất bản 646 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2011 xuất bản 700 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2010 xuất bản 750 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2009 xuất bản 659 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2008 xuất bản 676 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2007 xuất bản 727 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2006 xuất bản 683 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2005 xuất bản 660 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-2004 xuất bản 661 tiểu thuyết/roman.
Rentrée littéraire tháng 9-1965 xuất bản 700 tiểu thuyết/roman.

Thống kê trên không bao gộp tiểu luận, biên khảo, hồi ký. Cũng chưa tính đến số đầu sách xuất bản trong năm. Như từ tháng 1 đến tháng 2-2014, xuất hiện thêm 547 tiểu thuyết (392 tiểu thuyết Pháp và 195 tiểu thuyết dịch), tăng 4,5% đầu sách, đặc biệt 60 tiểu thuyết đầu tay của 60 tác giả vừa cầm bút. Vụ sách mùa Đông (Rentrée d’hiver) rộ hoa, bất chấp internet. (Chữ roman trong tiếng Pháp ám chỉ truyện dài.)

Câu hỏi đặt ra: Vì sao công chúng ngày một lãnh đạm với truyện ngắn? Vì quá kỹ thuật, quá cô đọng, quá ít nhân vật, không nhiều tâm tình tràng giang với muôn sắc màu hay vì không đủ không gian chuyên chở cả một thời đại lịch sử như thể trường thiên cho phép? Vì sao đời sống càng gấp gáp, càng tất bật, người ta càng say mê truyện dài? Vì cần chìm đắm LÂU trong một thế giới khác? Cần sống LÂU một đời sống khác? Cần thoát ra khỏi thực tại máy móc vây quanh? Thực tại càng thường trực triền miên, nhu cầu vượt thoát LÂU càng mạnh? Vì đọc truyện ngắn giống xem một cuốn phim trình chiếu trong một tiếng rưỡi đồng hồ, còn truyện dài giúp người đọc si mê sinh sống với nhân vật suốt nhiều tuần lễ? Chừng như nhu cầu “sinh sống lâu” trong đời sống nhân vật này, quan trọng đối với cả người đọc Việt Nam và Tây phương.

Trước đây, tôi từng ngạc nhiên khi đọc hồi ký của các sĩ quan Pháp tham chiến Đông Dương. Trung tá Pierre Langlais, chỉ huy Nhảy dù Điện Biên Phủ, kể lại ông đọc tiểu thuyết hằng đêm dưới ánh đèn cày và hỏa châu sau mỗi trận phản kích. Trung tá Hubert de Séguins-Pazzi, tham mưu trưởng của de Castries, cũng đọc tiểu thuyết trong hầm mỗi đêm vài trang giữa hai trận mưa pháo… Họ tìm gì? Vì sao giữa chập chùng hiểm nguy vẫn đủ bình tĩnh đọc truyện? Vì Điện Biên Phủ bị vây hãm, cầu không vận bị cắt, lối thoát duy nhất ra khỏi thung lũng Mường Thanh là con đường tiểu thuyết? Langlais, de Séguins-Pazzi muốn thoát khỏi kẽm gai, lựu đạn, bom mìn cùng những trận xung phong biển người của Việt Minh và truyện dài giúp họ hóa thân vào nhân vật lâu hơn, chi tiết hơn.

Thu hút của truyện dài đến từ “dung lượng” nhưng không có nghĩa truyện ngắn kém tinh vi. Sức mạnh của truyện ngắn nằm ở độ nén, cách tinh lọc, cách tuyển chọn những góc cạnh biểu trưng, với chi tiết thật sát sao trong khung sườn chặt chẽ với đối thoại âm vang, không thừa. Sức mạnh này không cần thời gian thưởng ngoạn lâu, nhưng phải mang hiệu ứng của một quả đấm bất ngờ và direct. Nói như Cortázar, người viết phải biết làm võ sĩ quyền Anh, đấm vào mặt độc giả nhưng đừng đấm dứ. Gây mê man, qua cách nhập trực tiếp với không khí tức khắc.

Thể truyện ngắn còn đặc biệt thích hợp cho các thử nghiệm, những cách tân kỹ thuật, những khai phá luôn thách thức sáng tác. Nên tuy ít trang, truyện ngắn kết thành chuỗi hạt trai lấp lánh của văn xuôi.

Đây là thể loại khó. Trước 75, các nhà văn miền Nam khi trả lời phỏng vấn đăng trong tuyển tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, đều đồng ý như vậy. Nhưng vì sao, tuy khó viết mà nhà văn Việt nào cũng có ít nhất nhiều mươi truyện ngắn? Vì sao truyện ngắn Việt Nam hôm nay tràn lan đến mức Da Màu phải đặt những câu hỏi gần như đám tang?

Nhiều cách nhìn.

Trước nhất, vì sao lạm phát? Vì trong nước ngành xuất bản giấy in còn thịnh đạt? Không phải. Chính chức năng trung gian khác biệt giữa hai ngành xuất bản Tây, Ta làm nên hiện tượng này.

Tại Pháp, trừ La Nouvelle Revue Française đăng trung thiên truyện của những văn hào đã có vị trí quốc tế, hầu hết tất cả các tập san văn chương như Lire, Magazine Littéraire, L’Esprit, L’Atelier du Roman, L’Infini, hay Critique đều không đăng sáng tác. Nội dung chính trên các tạp chí văn chương Pháp là khảo luận, tiểu luận, phê bình, điểm sách nhưng không đăng truyện ngắn. Người viết trẻ, do vậy, ít có diễn đàn để thử bút nếu viết truyện ngắn. Muốn trở thành nhà văn, được công chúng biết đến, người viết không còn cách nào khác là âm thầm viết tiểu thuyết rồi gửi đến các nhà xuất bản chờ duyệt. Do các nhà xuất bản Tây phương luôn ngần ngại in truyện ngắn, vì khó bán, truyện dài nghiễm nhiên trở thành một chọn lựa mặc nhiên.

Đến đây xuất hiện vai trò quan trọng của các nhà xuất bản. Không phải các tạp chí văn chương, với lượng in thấp và ít phổ biến, làm nên tên tuổi các nhà văn mà chính các nhà xuất bản phát hiện ra người viết rồi đem người viết đến với công chúng. Chính các nhà xuất bản làm nên văn học Tây phương. Chính họ làm công việc thanh lọc, thẩm định, tuyển chọn, rồi quảng cáo tiếp thị, hướng dẫn bạn đọc, đánh động trào lưu, khuyến khích xu hướng hoặc định hướng dư luận. Chính nhà xuất bản làm cầu nối giữa bạn đọc với tác giả. Các nhà văn Âu-Mỹ không cần viết truyện ngắn để đến với bạn đọc của mình xuyên qua các tạp chí văn chương; ngược lại, với các nhà văn Việt, phương tiện tiếp cận duy nhất là thể truyện ngắn trên tập san định kỳ. Sau nữa, các nhà xuất bản Việt Nam thường chỉ in sách cho những ngòi bút đã thành danh, được văn giới công nhận, tức là đã viết nhiều truyện ngắn đăng báo. Chính khác biệt trên khiến Tây phương nhiều truyện dài trong lúc văn xuôi Việt Nam xây cất trên truyện ngắn.

Với câu hỏi “số mệnh?” Truyện ngắn Việt Nam sẽ tiếp tục làm những chuyến xe tốc hành đi về giữa người viết và người đọc. Đôi bên, không nhiều chọn lựa.


Chúng ta có Cung Tích Biền, Trần thị Ngh., Lê thị Huệ, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Xuân Hoàng, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Trần Vũ, Nguyễn thị Thảo An, Phạm thị Hoài, Linh Đinh, Lâm Chương (có thể coi Lâm Chương như một nhà văn viết novella – thể truyện giữa “ngắn” và “dài”), McAmmond Nguyễn thị Tú, Lê Minh Hà, Lê Minh Phong, v.v… là những nhà văn đặc sắc ở thể truyện ngắn. Yếu tố nào là yếu tố chung của các nhà văn viết truyện ngắn đã tạo ra sự chú ý từ độc giả? Ngoài ra, yếu tố nào là đã tạo cho họ vị trí cá biệt trên văn đàn? Những yếu tố này có phải cũng là những yếu tố định nghĩa cho sự sinh tồn của truyện ngắn?

Trần Vũ: Túy Hồng, trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất Của Quê Hương Chúng Ta, xem yếu tố quan trọng nhất trong truyện ngắn là khí hậu. Tôi tin như Túy Hồng, khí hậu truyện quan trọng. Mà không riêng truyện ngắn, trong bất kỳ lĩnh vực nghệ thuật nào khí hậu tác phẩm cũng quan trọng. Không ai đủ can đảm xem hết một cuốn phim nhạt thếch hay vùi đầu vào một quyển trường thiên lạt lẽo. Sức mạnh túm bắt người thưởng ngoạn đến từ khí hậu tác phẩm, và giọng văn nào, khí hậu ấy. Nên yếu tố chung, trước tiên, phải là khí hậu.

Tuy vậy, truyện ngắn còn đồng nghĩa kỹ thuật. Đây là thể loại của phô diễn kỹ thuật và cần kỹ thuật. Không kỹ thuật, một truyện ngắn sẽ rườm rà, lê thê, phát tán, không hàm xúc. Thiếu kỹ thuật, truyện ngắn sẽ khó cô đọng. Và một truyện ngắn lạ, còn cần cấu trúc tân kỳ. Nên sau khí hậu-giọng văn, thứ đến phải là kỹ thuật-cấu trúc. Truyện ngắn gần với hội họa, giống một họa sĩ vẽ một bức tranh cần thủ pháp và bố cục, sau chót mới là tư tưởng. Sau chót, không có nghĩa ít cần nội dung. Kỹ thuật chặt chẽ, văn chau chuốt nhưng thiếu nhân sinh quan làm xương sống, truyện sẽ thiếu tầm vóc. Tư tưởng cao siêu nhưng không giọng văn, truyện sẽ khô khan. Kỹ thuật mới tinh nhưng khí hậu nhàn nhạt, truyện vẫn lạt. Những yếu tố trên, đứng riêng biệt, không làm nên một truyện ngắn toàn bích nhưng một khi đầy đủ, chắc chắn phải là một truyện ngắn hay.

Họa sĩ Võ Đình, lúc sinh tiền, nói với tôi: “Cần có kỹ thuật nhưng không phải có kỹ thuật rồi mới dùng kỹ thuật ấy để mà diễn tả tư tưởng ấy. Cảm xúc đến trước tiên, làm nên khí hậu, nhưng sau đó chính tư tưởng tìm ra kỹ thuật tương ứng giúp diễn tả khí hậu ấy và tư tưởng ấy. Đôi khi, chính tư tưởng giúp tác giả tìm ra kỹ thuật mới. Cảm xúc, tư tưởng rồi mới đến kỹ thuật. Kỹ thuật là sau cùng.” Võ Đình xếp hạng các yếu tố cách khác, nhưng vẫn phải đủ ba yếu tố.

Bất kỳ trường phái Hiện sinh, Tân tiểu thuyết, Huyền ảo hay Hậu hiện đại, ba yếu tố trên trường kỳ mai phục người viết. Đạt 1/3 là truyện ngắn dưới trung bình. 2/3 là truyện ngắn trung bình. 3/3 là truyện ngắn hay. Còn truyện ngắn tuyệt sắc? Tùy thuộc vào chiều sâu tư tưởng sau khi đã hội đủ 3 yếu tố.


“Ngoài ra, yếu tố nào là đã tạo cho họ vị trí cá biệt trên văn đàn?”

Trước tiên là phong cách. Là tố chất cá nhân ở từng tác giả. Như chất tâm linh ở Võ Đình. Chất băn khoăn trong suy nghĩ nhân vật ở Nguyễn Mộng Giác. Chất ương ngạnh lý trí ở Trần Thị Ngh. Chất trí tuệ bật sáng qua ngôn ngữ điệu luyện ở Phạm Thị Hoài. Chất mềm mại của Mai Ninh. Chất tra vấn của Nam Dao. Chất buồn bã cô độc của Mai Thảo. Chất nổi loạn dữ dội ở Lê Thị Thấm Vân. Chất lãng mạn mẫn cảm của Trân Sa. Chất cợt nhả nhẹ nhàng trong Vũ Quỳnh Nh… Hay cách Đinh Linh quật nhào mọi định kiến và những trầm trọng sách vỡ trong Nhà Ngụy. Hay cách Thận Nhiên ghi nhận xã hội Việt Nam như trong một lời thơ Mallarmé: “Cơn lốc vui nhộn và kinh dị” (un tourbillon d’hilarité et d’horreur)… Nhưng phong cách chưa đủ làm nên vị trí. Song song với chức năng “trao tiếng nói cho những người câm và đặt tên cho những kẻ vô danh”, như Carlos Fuentes từng định nghĩa, cùng lúc mỗi người viết phải tự tách rời mình ra khỏi đám đông của hàng hà sa số những ngòi bút khác ̶ bằng sự khác thường của mình trên văn bản.

Khác thường làm nên vị trí nhà văn.


“Những yếu tố này có phải cũng là những yếu tố định nghĩa cho sự sinh tồn của truyện ngắn?”

Câu hỏi hàm ý truyện ngắn Việt Nam đang vô vị vì thiếu những yếu tố đặc trưng? Nếu là vậy, câu trả lời là đang ít đi những giọng văn độc đáo, quá nhiều những truyện thiếu công phu. Số người viết khác lạ khan hiếm, nhiều ngòi bút bản lĩnh ngưng viết, những giọng văn hay mai một… Số truyện khác thường quá ít, bị chìm lấp vào trong biển truyện hằng ngày khiến văn xuôi Việt Nam sa sút phẩm chất. Thay vì là một bộ môn nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn đang hiện diện như một cách lấp đầy những trang báo, không khác mấy các tiết mục phổ thông đời thường. Trách nhiệm ở người viết, chắc chắn. Trách nhiệm còn ở các ban biên tập vì quá cần người viết bao sân, sa chìm trong vũng lầy dễ dãi. Internet với nhu cầu cập nhật hàng ngày, làm phình to thêm hiện tượng truyện ngắn fast food.

Tuy nhiên, sự sa sút phẩm chất văn xuôi Việt Nam của cả trong lẫn ngoài nước, nằm trong bối cảnh chung của thế giới. Richard Millet than phiền tiểu thuyết đã trở thành thứ công cụ dùng thăng tiến danh vọng xã hội, có quá nhiều phó sản dưới cấp văn học như Harry Potter và quá nhiều những tác giả thiếu văn phong, như Philip Roth. Guy Scarpetta phê phán như Millet: kỹ năng cú pháp giảm đi.


Có cần nên có ranh giới giữa truyện ngắn và truyện dài? “Ngắn” và “dài” nên là bao nhiêu trang? Một truyện ngắn có thể mô tả một thời gian dài tương đương như truyện dài (10, 20, 50 năm), hay phải ngắn hơn? Nên chú ý việc Alice Munro đã “phá giới” về yếu tố thời gian, không gian, và quan điểm cá nhân của các nhân vật. Trong các truyện “Axis,” The Bear Comes Over the Mountain,” và “Runaway,” Alice Munro cho độc giả trải nghiệm một quãng thời gian dài trong đời sống của các nhân vật chính. Bà không áp dụng một quan điểm (point of view) nhất định trong cách kể truyện, mà di chuyển từ cái nhìn của từng nhân vật, bất kể đàn ông hay đàn bà, làm ta nghĩ đến phim Rashomon của Kurosawa. Trong bối cảnh văn học Việt Nam, đã có nhà văn nào “phá giới” giữa quy luật truyện ngắn và truyện dài chưa? Tại sao chúng ta chưa chịu phá giới thường xuyên hơn?

Trần Vũ: Biên cương giấy in thường xuyên do những nguyệt san và nhà xuất bản ấn định. Các tổng biên tập thường muốn số báo mình phong phú, nhiều bài vở, nhiều tác giả tham gia, nên luôn yêu cầu người viết, viết ngắn. Với các tác giả trẻ, họ tự tiện cắt, với những tác giả gạo cội, họ thương lượng thâu ngắn… Phía nhà xuất bản, truyện dài cần tối thiểu 60 trang, như trường hợp tiểu thuyết Viết Cho Đứa Trẻ Tôi Sẽ Không Sinh, À l’enfant que je n’aurai pas của Linda Lê dài 66 trang, do Editions Nil ấn hành. Lý do: dưới 60 trang, tiền in-cước phí–phát hành-hoa hồng không giảm bao nhiêu khiến giá bán không chệnh lệch nhiều so với một quyển tiểu thuyết dầy 120 trang, nhưng số trang quá mỏng sẽ làm độc giả thấy đắt. Nên từ 40 trang trở lên, thường được xem là trung thiên truyện. Và từ 70 trang là truyện dài. Dưới, cần hai hay ba truyện vừa, tức trung thiên truyện để in thành tập.

Ranh giới trong đầu người viết khác hẳn. Biên cương truyện chấm dứt một khi tác giả đã chạm đến đích cùng của ý văn. Hoặc còn ý, những đã hết hơi văn. Không thể thêm nữa. Viết truyện ngắn giống quay một cuốn phim, đạo diễn cắt đi những cảnh kém quan trọng mà ít khi thêm vào. Một truyện ngắn vừa vặn, nên trong khoảng 10 đến 15 trang. Quá ngắn, chỉ vừa nhập là phải kết. Chỉ vừa kịp giới thiệu nhân vật mà không kịp triển khai. Quá ngắn, sẽ ít chi tiết mà chính chi tiết làm nên chất tiểu thuyết. Quá dài, truyện khó hàm xúc và bắt đầu rườm. Biên giới giữa truyện ngắn và truyện vừa là biên giới đặt trên một phản thịt chặt bằng dao phay. Tác giả chặt hết những nhân vật không quan trọng chỉ giữ lại một, hai nhân vật phụ tối cần thiết. Chặt luôn các pha đối thoại không liên quan đến thème truyện. Riêng với nhân vật chính, thường xuyên phải chặt hết tứ chi, cạo lóc hết thịt xương, chỉ giữ lại duy nhất phần thân thể có chủ đích miêu tả. Một khi chưa buông dao phay, truyện ngắn vẫn còn cơ nguy biến thành truyện vừa.

Yếu tố khác: người viết chọn thể truyện dài một khi tham vọng quản trị nhiều nhân vật. Vì truyện ngắn không đủ không gian khai thác hết, sẽ khiến có những nhân vật đang đậm đà ban đầu bỗng mờ nhạt khúc sau, hay vụt mất tích không để lại dấu vết. Làm truyện mất cân bằng. “Ranh giới,” do nhân vật nắm giữ.


“Một truyện ngắn có thể mô tả một thời gian dài tương đương như truyện dài (10, 20, 50 năm), hay phải ngắn hơn? Nên chú ý việc Alice Munro đã “phá giới” về yếu tố thời gian, không gian…”

Thời gian trong tiểu thuyết đa chiều, khác với thời gian vật lý là một đường thẳng tuyến tính. Nếu phái “Hiện Thực” thường xuyên vận dụng thủ pháp hồi ức (flashback), thì sai, hay chuyển động biểu kiến của hình ảnh để ghi lại tâm trạng nhân vật đi về quá khứ, các phái Dự Phóng (Anticipation), Phi Lý (Absurde), Siêu Thực, Huyền Ảo đã phá tung thời gian.

Không còn gì quy ước hay vật lý. Tất cả các định luật của Newton đều bị băm vằm tan tành. Gì cũng có thể xảy ra, gì cũng có thể biến hóa, đột biến, trong ý nghĩa nhân sinh của cuộc đời dưới sự vận hành bao la của vũ trụ. Borgès không thâu nạp duy nhất vài thập niên trong truyện ngắn của mình mà nhiều kiếp đời, nhiều kiếp người. Trong “Đêm Ngửa Mặt” (“The Night Face Up”), Cortázar thay thế dễ dàng thế kỷ 20 đang sinh sống bằng thời đại Maya rừng rú man rợ. Nhân vật từ Luân Đôn về Nam Mỹ không chút khó khăn, đang lái môtô hắn vụt bị bắt đem tế lễ trên đỉnh tháp, rồi vụt một cái hắn lại đang nằm tênh hênh trên bàn mổ của một bệnh viện Anh, để sau cùng phải tự hỏi hắn đang sống trong thời đại nào và là sắc dân gì? Di dân hay thổ dân? Tất cả diễn ra chỉ trên vài trang giấy, trong vỏn vẹn 24 tiếng đồng hồ. Sức chứa của truyện ngắn, như thế, tùy thuộc vào khả năng sáng tạo của người viết. Trong Miền Trong Trẻo Nhất (La Plus Limpide Région), Fuentes ráp nhiều truyện vào trong một truyện dài như ráp puzzle. Trong tập Nhiễm phúc Gia đình,Le Bonheur des Familles, Carlos Fuentes thêu dệt bạo lực vào với khốn cùng, đan quyện quá khứ vào thực tại của những nhân vật bất hạnh trong một xã hội Mễ bạo lực. Fuentes không chỉ đi từ quan điểm của nhân vật này sang nhân vật khác mà còn trao cho những phiến đá vỡ những lời xì xầm thị phi. Trong Đêm Dưới Chân Cầu Đá (La Nuit sous le Pont de pierre), Léo Pérutz viết 9 truyện ngắn tách bạch ở những thời đại và triều đại khác nhau, đi từ nhà bếp của lãnh chúa vào đến trong phòng ngủ của quân vương với giấc mơ lạ lùng hằng đêm có người đàn bà đến đặt lên môi thiên tử một nụ hôn; 9 truyện ngắn độc lập với nhân vật riêng rẽ, nhưng ráp lại thành một truyện dài. Trong tập Đêm Tháng Năm tại Vienne (Nuit de Mai à Vienne), Pérutz đưa ra luận đề ngược: Duy nhất những nghệ sĩ từ chối làm nên tác phẩm mới thật sự là kẻ sáng tạo, những kẻ khác đều rơi vào trong những biểu hiện tầm thường của nghệ thuật phụ thuộc đời sống. Không duy nhất trong không gian, thời gian mà ngay trong nội dung, Pérutz đã khác lạ. Không ngẫu nhiên, Pérutz được Borgès vinh danh. Alice Munro không phải là nhà văn khai phá đầu tiên, các bậc thầy Franz Kafka, Jorge Luis Borgès, Julio Cortázar, Léo Pérutz, Carlos Fuentes, Gabriel García Márquez vượt xa và đi trước bà trong cách hoán chuyển sự vật.

Alice Munro là một nhà văn xây dựng truyện ngắn trên phân tích tâm lý nhân vật, vô cùng chi li trong chi tiết, gạt tình tiết sang bên để đào sâu nội tâm, do vậy bà thường được so sánh với Anton Tchékhov của thế kỷ 19. Thủ pháp chính của Munro là dùng lời kể của tác giả từ bên ngoài soi chiếu vào đời sống thường nhật của các nhân vật, rồi từ các chi tiết tưởng chừng không quan trọng giúp người đọc thấm thía nỗi cay đắng của một cuộc đời. Kỹ thuật này không mới. Alice Munro thuộc trường phái Hiện thực Tâm lý, Réalisme psychologique.


Trong bối cảnh văn học Việt Nam, đã có nhà văn nào “phá giới” giữa quy luật truyện ngắn và truyện dài chưa?

Giữa truyện ngắn và truyện dài, là thể truyện vừa. Truyện vừa, vừa mang tính đậm đặc của truyện ngắn, vừa dàn trải nhiều chi tiết và nhiều nhân vật. Không gian rộng thêm cho phép chuyền tay lời kể, hoặc “cho độc giả trải nghiệm một quãng thời gian dài trong đời sống của các nhân vật chính,” như ý Da Màu nhấn mạnh.

Vào thời hoàng kim của Văn học Di dân Việt Nam, thập niên 80 và đầu thập niên 90, không hiếm những trung thiên truyện đặc sắc. Các truyện vừa Rồng Rắn của Lê Thị Huệ, Nẻo Quyên Ca, Miền Vĩnh Phúc của Vũ Quỳnh Hương, Tự Truyện Một Người Vô Tích Sự của Nguyễn Xuân Hoàng, Vợ Chồng của Mai Kim Ngọc, Đêm của Ngô Nguyên Dũng, Vườn Chanh Miệt Biển của Kiệt Tấn… là bằng chứng nhà văn Việt biết dấn bước. Gần đây Phòng X Khu Nội Trú của Bùi Hoằng Vị, Thời Của Những Tiên Tri Giả của Nguyễn Viện, Xứ Động Vật Vào Ngôi của Cung Tích Biền và Đi Tìm Bản Kinh Thánh Cuối của Đặng Thơ Thơ mang đầy tính chất phá cách.

Nếu câu hỏi hàm ý “phá quy luật” ngay trong truyện ngắn, thì vô vàn các truyện ngắn Việt Nam bứt phá: “Người Đoán Mộng Giỏi Nhất Thế Gian,” “Ám Thị,” “Thực Đơn Chủ Nhật” của Phạm Thị Hoài. “G,” “Bách Hương,” “Lầu xép,” “Chiếc Vòng” của Võ Đình. “Bóng Đêm Cuối Cùng” của Phan Thị Trọng Tuyến, “Tiếng Gào trong Đêm”của Nguyễn Thị Ngọc Nhung. “Ván Cờ” của Vĩnh Hảo. “Em Điên Xõa Tóc” của Kiệt Tấn. “Trường Hợp của Nhường” của Hồ Trường An. “Bản Chính” của Trân Sa. “Lisa” của Ngô Nguyên Dũng. “Trong Buốt Pha Lê” của Nam Dao. “Florence” của Phạm Thị Ngọc. “Mưa Qua Sân Thượng” của Trầm Hương. “Đến Đồng Gai” của Nguyễn Hương, v.v và v.v…

Một khi xuất sắc, truyện ngắn và truyện vừa Việt Nam không thua sút Tây phương. Trong Đi Tìm Bản Kinh Thánh Cuối, Đặng Thơ Thơ đặt câu hỏi lớn về vị trí của người nữ trong kinh thánh. Madeleine, “người yêu của đấng trời” (nếu dùng một tựa truyện của Nguyễn thị Hoàng) có đầu và có trí tuệ hay không? Lịch sử ghi chép lương tri hay ngụy tín? Làm cách nào một dân tộc tìm ra sự thật lịch sử của chính dân tộc mình? Bằng cách xoay lưng đi ngược về quá khứ… Đi Tìm Bản Kinh Thánh Cuối mang tầm vóc lớn và toát ra mê hoặc. Proust xác quyết: “Những tác phẩm lớn gây ấn tượng được viết bằng một ngôn ngữ lạ” (“Les grands livres donnent l’impression d’avoir été écrits dans une langue étrangère.”) Trong Đi Tìm Bản Kinh Thánh Cuối, Đặng Thơ Thơ đạt đến sự khác thường và dụng văn khác hẳn cách cô thường viết. Phải nhìn thấy ở đây, nỗ lực của người viết.

Những tác phẩm xuất sắc luôn hiếm, như Miền Vĩnh Phúc của Vũ Quỳnh Hương miêu tả bao kiếp người đáng thương trong phòng đợi chết hay cách Võ Đình di chuyển ánh mắt của nhân vật sang ánh mắt của vũng nước dưới chân cổng Thượng Tứ ngoài Huế… là những tác phẩm không xuất hiện hàng ngày.


Tại sao chúng ta chưa chịu phá giới thường xuyên hơn?

Vì người viết hôm nay rất ít động cơ đi tìm sự toàn bích. Không nhà xuất bản, không tập san giấy in, không nhuận bút, viết một truyện ngắn công phu mất ít nhất nhiều tháng chỉ để xuất hiện 48 giờ trên internet?


Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí The Paris Review, Alice Munro nói rằng “[Hồi còn trẻ] tôi đã mê đọc Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Ann Porter, Carson McCullers. Tôi nghĩ nhà văn đàn bà có khả năng viết về những điều quái dị, hoặc những chuyện bên lề …. Còn tiểu thuyết vĩ đại trong giòng chính về hiện thực là giang sơn của đàn ông.” (“I loved Eudora Welty, Flannery O’Connor, Katherine Ann Porter, Carson McCullers. There was a feeling that women could write about the freakish, the marginal…. [But] the mainstream …. big novel about real life was men’s territory,” http://www.theparisreview.org/interviews/1791/the-art-of-fiction-no-137-alice-munro.) Hiện tượng “nhà văn đàn bà viết về những điều quái dị hoặc chuyện bên lề” và đàn ông “viết về những đề tài vĩ đại” có phản ảnh bối cảnh văn học Việt Nam của ngày hôm nay hay không? Hay hiện tượng này đã được đảo ngược, với một số nhà văn đàn ông Việt viết theo thể magic realism như một cách theo mốt, nhằm tránh bị kiểm duyệt, hoặc do nỗi “cô đơn” trong một thực tại nghiệt ngã của những biến cố xã hội và lịch sử mà Gabriel García Marquez đã đề cập trong diễn văn nhận giải văn chương Nobel năm 1982 của ông?

Vì sao gọi là viết theo thời trang? Khi một người viết không còn muốn đi theo con đường Hiện thực Tả chân của Nguyễn Công Hoan, hay không muốn theo lời khuyên “nên tả thực bề trong lẫn bề ngoài” của Nhất Linh trong Viết và Đọc Tiểu Thuyết, người viết ấy có quyền tìm cho mình một phương tiện khác. Thủ pháp Hiện thực Huyền ảo thỏa mãn ước muốn Phi Hiện thực trong đầu những tác giả muốn vượt thoát để đi tìm sự khác thường. Ngay cả khi lý trí cảnh giác không thể từ bỏ hiện thực một cách tuyệt đối, chỉ có thể chiêm nghiệm sự vật từ những góc độ không quy ước, người viết vẫn cảm thấy vô cùng tự do vì đã có thể bước ra khỏi quy ước. L’anticonformisme, hay tính chất Không Tuân thủ là nền của sáng tác.

Trong Thay Lời tựa của Viết và Đọc Tiểu Thuyết, Nhất Linh yêu cầu: “Một số người đã có nhiều tác phẩm, suy xét lại về lối viết của mình và tìm ra con đường mới hợp với tài năng của mình hơn.” Những tác giả vận dụng Réalisme magique, không làm khác yêu cầu này.


“Nhà văn đàn bà viết về những điều quái dị hoặc chuyện bên lề và đàn ông viết về những đề tài vĩ đại…”

Munro hiểu rất rõ vị trí trang trọng của Carson McCullers và Virginia Wolf trên văn đàn, không thua sút Hemingway hay Faulkner, nên phát biểu của bà phải hiểu là lời trêu ghẹo pha chút khiêu khích các đồng nghiệp nam hay Munro muốn nhấn mạnh đến khả năng mẫn cảm tinh tế của phụ nữ hoặc biện minh cho những chủ đề tâm đắc của mình?

Khá nhiều những truyện của Alice Munro, qua ba tập Tình Yêu Của Một Phụ Nữ Đức Hạnh (L’Amour d’une honnête femme), Vũ Điệu của Những Bóng Mờ Hạnh Phúc (La Danse des Ombres Heureuses), Quá Nhiều Hạnh Phúc (Trop de Bonheur) xoay quanh đời sống của các phụ nữ từ khi còn niên thiếu đến khi lập gia đình, sanh con, hoài thai, ly dị, tang chế rồi già nua… Munro khiêm nhường xem là chuyện bên lề, nhưng ngần ấy kiếp đời thâu vào trong nhiều truyện, khi nối lại, làm nên một phần lịch sử khẩn hoang của di dân Tô Cách Lan. Trong Những Bí Mật Thấu Đáo (Les Secrets de Polichinelle), là tám câu chuyện của tám phụ nữ khác nhau, từ nữ nhân viên thư viện ước ao gặp người lính viết thư cho mình đến thiếu phụ ngày đêm rình rập chồng ngoại tình… tuy diễn biến tách biệt, gộp lại, vẫn là câu chuyện của ngôi làng miền Ontario từ giữa thế kỷ 19 đến khi thành một đô thị. Pearl Buck, trong Đất Lành, Gió Đông Gió Tây, Đường về Trùng Khánh cũng ghi lại những câu chuyện của những thiếu phụ thành hôn, sinh nở, chịu phụ bạc, cay đắng, rồi già đi tìm ra hạnh phúc với con cháu. Không ai đánh giá thấp tầm vóc Pearl Buck. Về “những điều quái dị” trong Bí Mật Thấu Đáo, như cô bé dậy thì đột ngột mất tích trong một buổi đi rừng đến cô bé mộng du thề thốt đã trông thấy người hành tinh ban đêm, có thể viện dẫn Virginia Wolf từng cho cậu bé Jacob khăng khăng ôm về nhà đầu lâu xác trừu nhặt trên bãi cát để rồi thần chết theo Jacob vĩnh viễn. Căn Phòng của Jacob được xem là một thành tựu văn học. “Vĩ đại,” không nằm trong chủ đề tác phẩm.

Phát biểu trên, đem so với bối cảnh truyện Việt Nam?



Trần Vũ & Nguyễn Mộng Giác


Nhìn từ xa, danh mục trường thiên tiểu thuyết do đàn ông Việt Nam viết. Xóm Cầu Mới, Giòng Sông Thanh Thủy của Nhất Linh. Khu Rừng Lau của Doãn Quốc Sỹ. Mùa Biển Động, Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác. Người Trăm Năm Cũ của Hoàng Khởi Phong. Người Đi Trên Mây của Nguyễn Xuân Hoàng. Gió Lửa, Đất Trời, Bể Dâu của Nam Dao. Cửa Biển của Nguyên Hồng, Đống Rác Cũ của Nguyễn Công Hoan, Người Cùng Quê của Phan Tứ, Vỡ Bờ của Nguyễn Đình Thi và… Giàn Thiêu của Võ Thị Hảo.

Là những gì trưng bày trong hiệu sách.


Liên hệ với câu hỏi ở trên. Những điều “quái dị hoặc bên lề” ở vùng Ontario của Alice Munro có còn “quái dị” khi áp dụng vào bối cảnh văn chương Việt Nam hay không? Tại sao một số độc giả Việt Nam nghĩ rằng truyện của Alice Munro có phần “ảm đạm”? Định nghĩa “ảm đạm.” Hiện nay, ai là những nhà văn “ảm đạm” của Việt Nam?

“[...] Nếu có thể đơn giản chia các nhà văn thành hai trường phái, một bên dùng ngôn ngữ để miêu tả thế giới, một bên dùng ngôn ngữ để dựng nên thế giới, thì Alice Munro, chủ nhân giải Nobel năm nay, thuộc trường phái thứ nhất. Tôi nghiêng về trường phái thứ hai. Bà không biết phải làm gì với William Faulkner, một trong những tác giả tôi ngưỡng mộ. Tôi không biết phải làm gì với Carson McCullers, một trong những tác giả bà cảm phục. Tôi sẽ không chọn Alice Munro nếu bị lưu đày ra một hòn đảo vắng mà chỉ được đem theo một cuốn sách. Nhưng tôi mừng và biết ơn là đã đọc bà. Thế giới văn chương mênh mông, gặp được một người như bà là may mắn.

Bà là bậc thầy của một phong cách: phong cách phi phong cách, phong cách tác giả giấu mặt. Không có gì tiết lộ người kể chuyện, người vừa biết hết vừa không can dự và tự phi tang. Mô hình đối lập hoàn hảo với bà là William Gass, cũng một nhà văn Bắc Mỹ, năm nay 89, hơn bà 7 tuổi, người chủ trương sự hiện diện triệt để của tác giả như yếu tố thiêng liêng nhất của văn bản văn học. Ông coi sự giải thể tác giả như tín hiệu suy tàn của một uy quyền, một thế lực thần học, chẳng khác gì Thần Zeus bỗng bị lột sạch vũ khí sấm chớp, tuy còn ngự trên đỉnh Olympus nhưng ngủ trong xe thùng và đun nấu bằng bếp ga.

Tôi phải thú nhận, tác phẩm để đời, viết ròng rã 30 năm của William Gass, tiểu thuyết ngàn trang Đường hầm (The Tunnel), hai năm nay tôi đọc dở và hứng thú đọc tiếp ngày càng ít đi, mặc dù có một số điều ở đó – nói ra thì thật không công bằng – có thể khiến tôi đánh đổi rất nhiều trang Alice Munro cộng lại. Bà không có một magnum opus nào hết. Mọi truyện của bà đều không quá 40-50 trang, viết khi con ngủ, nghĩ khi gọt khoai tây. Bà viết nhỏ.

Văn chương, theo Paul Valéry, là nghệ thuật đùa với tâm hồn người khác. Có người đùa bằng sức mạnh của ngôn ngữ. Có người đùa bằng trí tuệ siêu phàm. Bằng kiến văn bao la. Bằng trí tưởng tượng rực rỡ. Bằng năng lực đi trước hoặc năng khiếu đi cùng thời đại. Bằng cảm xúc và cảm hứng. Bằng thủ pháp hay thủ đoạn. Bằng thử nghiệm hay những mớ thần kinh cách điệu… Tất cả những thứ ấy không có chỗ trên những trang viết nhỏ của Alice Munro. Chúng lùi hẳn ra xa, rất xa, để toàn bộ tâm trí chúng ta, người đọc, được tập trung vào phần cốt lõi không trang sức, được cuốn vào những câu chuyện mà bà kể bằng một giọng văn truyền thống và một ngôn ngữ hết sức giản dị. Nhiều lần đọc xong một truyện của bà, tôi thầm ghen tị. Phải bền bỉ, tinh tế quan sát cuộc đời và tôn trọng mọi khả năng hiện hữu của nó tới mức nào, phải từng trải và biết kiểm soát mình tới mức nào, phải tôi luyện tay nghề tới mức nào mới có thể kể được một câu chuyện như thế.

Hầu hết là chuyện của những người đàn bà trong những khoảnh khắc quyết định bước đi này hay bước đi kia của số phận. Hạnh phúc thì ngắn ngủi và vô định. Bất hạnh dài gấp đôi. Song với tất cả sự không khoan nhượng, người kể chuyện lão luyện Alice Munro không bỏ mặc người đọc cho bi quan. [...]’’


Phạm Thị Hoài
http://www.procontra.asia/?p=3476

Ghi lại tiểu luận “Viết Nhỏ” của Phạm thị Hoài viết về Alice Munro vì tôi thấy thật hay mỗi lần đọc lại. Vì tôi cũng sẽ không mang Alice Munro lên hoang đảo nếu phải chọn đem theo một quyển sách. Ai đó đặt câu hỏi “Vì Sao?” Vì mỗi con người trưởng thành mang trong mình một tín ngưỡng văn chương.























tác phẩm đã xuất bản







tập truyện ngắn








Cái Chết Sau Quá Khứ (1993)



























Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu (1994)
















những truyện ngắn hay được nhiều độc giả biết đến:













Pháo Thuyền Trên Dòng Yang-Tsé




Một hôm, Toàn bất ngờ đến từ sau lưng, phủ một làn vải đen trùm xuống đầu tôi và nói:
- Nhiều khi người ta có thể nhìn xuyên qua màn đen.

Câu nói lửng lơ và Toàn rời ra. Tôi quay lại, trông thấy làn vải đen
lúc nãy đang vung vẩy lên xuống trong tay Toàn, gần như một điệu
múa
- Cái gì không trông thấy mới thật kích thích.
Toàn lại nói, vẫn lửng lơ không rõ nghĩa. Mẩu vải đen cứ phất phơ, lùng phùng từng lúc tung xòe ra như cái nan quạt, khi chấp chới tựa một cánh dơi chập chờn rồi rũ xuống như một mình rắn. Loài rắn hổ. Có ý nghĩ cực mạnh chạy qua đầu tôi, là Toàn là một con rắn hổ chỉ chực mổ vào người mình, nhưng Toàn đã bước tới, phe phẩy mẩu vải như một tay matador thiện nghệ. Toàn xếp hẳn mẩu vải thành một giải băng và dùng nó để bịt mắt tôi.
- Chị trông thấy gì không ?

Khuôn mặt Toàn xáp gần đến nỗi thổi phà từng con hơi thở nóng hực vào má tôi.

- Không thấy gì hết.

Tôi trả lời.

Toàn xiết thật mạnh băng vải rồi lại hỏi.

- Ðã thấy gì chưa?

Tôi vẫn lắc đầu. Lần này Toàn xiết chặt hơn nữa làm tôi bỏng rát ở mắt.

- Người ta chỉ chịu khó suy nghĩ khi đau đớn.



Toàn nói với hai bàn tay ghịt chặt với hai đầu vải, không trông thấy nhưng tôi hình dung ra bắp tay Toàn nổi lên gân guốc và mồ hôi ở cổ tay nó chạm vào mặt tôi rườn rượt, nhớp nhờn. Băng vải căng cứng đến đau hai bên thái dương. Tôi quát :

- Ðủ rồi.



Tiếng thét của tôi, trong một giây, bức phá khoảng không khí nặng nề hơi ấm của căn phòng. Toàn bỏ đi, tôi loay hoay gỡ dây vải. Mảnh vải đen rơi xuống, thõng thượt, nằm chết như cái xác rắn vắt vẻo lên thành phố. Tôi còn nhức ở mắt, Toàn đã ra góc nhà ngồi dạo bản đàn mà nó ưa thích. Tiếng đàn đại vĩ cầm trầm trầm, từng điệu, từng thanh, từng nhịp, từng cung, lên bổng rồi lại trầm trầm liên tục gần nhu bứt rứt.



Toàn ngồi hơi cúi, liếc nhìn tôi bằng đôi mắt vô hình. Cánh tay mặt của Toàn mãi miết kéo mã vĩ, tay trái ôm lấy thùng đàn như một người đàn ông say mê ôm một người đàn bà. Năm ngón tay Toàn bấm xuống dây đàn, nhấc lên, rồi lại miết xuống. Thanh mã vĩ đưa tới, kéo lui, đưa tới, rồi lại kéo lui. Tiếng đàn cò cưa phừng phừng không điêu luyện, giống tiếng một lưỡi cưa cùn trên dây thép chùng nhão. Thứ âm thanh chùng nhão bò trườn, lê lết, oằn oại lấn dần trong phòng, nuốt từ cái bàn ăn qua tủ sách đến tận chỗ tôi.

- Ðủ rồi !


Tôi quát lên lần nữa, không chịu nổi sự lì lợm tai quái ở dáng nhìn trừng trừng nhưng vô hình dạng của nó, Tiếng đàn đột ngột đứt quãng. Thanh mã vĩ rời ra và cái thùng đàn tròn lẳn đầy đủ hình dạng một người đàn bà thôi nhúc nhích. Toàn cất tiếng:
- Cấm đàn hay cấm nhìn chị ?
- Cả hai.
- Ðúng rồi, cả hai đều là gỗ đá vô tri.
Toàn cười sực lên, đứng dậy biến mất vào buồng riêng.
Tôi còn lại một mình, sợ.

Từ lâu Toàn đã sống trong sự bất thường của thế giới màu đen vây lấy nó, nhưng buổi tối nay, sự bất thường đó đã trở thành nghiêm trọng. Nghiêm trọng hơn nữa là tôi hiểu căn do của sự bất thường ấy. Tôi quẹt tay lên má, chùi giọt mồ hôi nhờn nhờn lúc nãy như đã bám sâu vào da. Khi tôi trở vào buồng ngủ, những tiếng động của Toàn từ buồng bên vọng sang kêu lịch kịch. Tôi kéo chăn trùm kín đầu, trốn thứ tiếng động giẫy giụa của một thân mình dằn vặt cô đơn. Nhưng dưới lớp chăn, trong bóng tối bao trùm, tôi lại bắt gặp cái màu đen mà Toàn đã muốn tôi đối diện, nhìn và trông thấy.

*

Ngày đến, tôi thức giấc muộn, bần thần vì cả đêm không nhắm mắt. Tôi nhớ đã nhìn thao láo suốt đêm vào tấm màn đen căng cứng, trong tư thế nằm ngửa với hai tay ôm lấy đầu trốn tránh. Buổi sáng chủ nhật xác xơ, hình ảnh Toàn hằn lên bên hông cửa sổ. Những tàn cây bên ngoài gầy guộc trơ xương, như đang đưa những cánh tay khẳng khiu lên trời van xin thượng đế một ân phước. Tôi đến bàn ăn lấy phần ăn sáng của mình, một ly cà phê đen với một viên đường vỡ duy nhất. Toàn là người lo điểm tâm trong nhà, mỗi buổi sáng nó đặt bên tách cà phê của tôi một viên đường vỡ, và tôi hiểu.

- Chị nói sang đây sẽ không bỏ Toàn, chỉ sống cho Toàn và một mình Toàn. Nhớ không ?

Toàn nói, khi nhận ra tôi đã hiện diện trong phòng.

- Chị nhớ.

Tôi đáp.

Nghe tôi nói “Chị nhớ”, Toàn đứng phắt dậy.
- Nhớ sao không làm ? Ai hy sinh cho chị ?
- Toàn hy sinh cho chị.

Tôi trả lời, lặp lại, không dám ngửng lên. Toàn bước đến chậm chạp, như hôm qua, từ sau lưng lùa bàn tay bịt lấy mắt tôi.

- Ðừng !

Tôi cố gỡ tay Toàn với tách cà phê đang cầm, mười ngón tay Toàn đè mắt tôi đen tối. Hơi thở Toàn sau tóc chậm, nặng, đứt quãng.

- Ðừng, cho chị xin ...

Mười ngón tay Toàn nới lỏng dần dần, ôm lấy thái dương, ve vuốt lấy má, lần xuống cầm rồi đùa với ngấn cổ. Tôi rùng mình, hai bàn tay Toàn như hai gọng kềm kẹp cứng, không buông. Toàn tiếp tục động tác mạnh bạo, khi mơn trớn cho đến lúc tôi nổi gai phải hất tay nó ra.

- Thôi đủ rồi.
- “Ðủ rồi”. Lúc nào cũng đủ rồi.



Toàn day tôi lại, lấy ngón tay trỏ lần theo sóng mũi tôi xuống môi, và ngừng ở môi. Tôi thấy mình nhượng bộ và đáp ứng tất cả những trò chơi của Toàn. Ðể làm gì ? Ðể Toàn đừng tuyệt vọng đi đến tự hủy ?

- Chị biết hôn không ?



Khuôn mặt Toàn bất ngờ rơi xà xuống, vết thẹo ăn sâu giữa môi hiện ra sâu hoắm. Tôi hốt hoảng chống hai tay đỡ lấy ngực Toàn, tách cà phê đổ xuống ghế bành ẩm ướt. Hai bàn tay Toàn đã chụp vội, nâng khuôn mặt tôi lên hôn.

- Chị xem phim thấy người ta hôn nhau thì phải biết hôn.

- Ðủ rồi !



Cặp môi mang vết sẹo trờ tới, tôi nghiêng mặt tránh nên đôi môi Toàn rơi vào má, gai gai, cảm giác vừa mềm, vừa khô, vừa ướt. Cặp môi Toàn ở trên da mặt tôi, đầu Toàn gục trong khoảng cổ không chịu rời đi. Tôi thôi chống trả, để nguyên thân người ướt cà phê, vươn hai tay ôm lấy khuôn mặt đó. Tôi không thấy ghê sợ sự tiếp xúc của da thịt mình với cái khuôn mặt lồi lõm những chỗ thịt phồng trồi trũng không liền da. Tôi chỉ thấy thương Toàn.

- Ðủ rồi, đi đánh đàn đi.



Toàn nhìn tôi lạnh lùng như tất cả bao lần tôi cự tuyệt, nhưng tia nhìn vô hình đã dịu đi. Tiếng đại vĩ cầm vọng lên, cũng giống hôm qua, trầm trầm không điêu luyện và thất vọng. Toàn nghe thấy gì trong điệu nhạc dạo mãi từ ngày này qua tháng khác ? Tôi không biết, nhưng tôi đã rõ cái hình ảnh mà Toàn muốn tôi trông thấy trong tấm màn đen.

- Toàn phải có một người bạn gái.



Tôi nói, lúc Toàn không ngờ nhất, đang cắm cúi với cây mã vĩ. Tiếng đàn vụt im, nhường cho ánh mắt nhìn không có hình dạng, hướng về chỗ tôi không mấy chính xác.
- Chị nói gì ?
- Toàn phải có bạn gái.
- Ai dám yêu thằng này ?
- Chị sẽ tìm cho Toàn.

Toàn im lặng một lúc rồi đứng lên mở cửa sổ. Hơi gió lạnh ùa vào, hai lớp màn cửa thổi tốc lên, rơi xuống rồi lại rung động dập dình như đôi cánh bướm bị nghẽn. Toàn quay lại, cố tình hướng mặt nhìn ra cửa, cho ánh sáng soi rõ những vết sẹo chằng chịt ngang dọc trên khuôn mặt. Những vết sẹo mà tôi đã chứng kiến, đã thấy chúng bầm dập vì khâu dối, đã thấy chúng chai nám vì nắng hải đảo cháy lửa. Khuôn mặt đầy sẹo của Toàn kỳ dị kinh khủng dưới ánh sáng ngày.
- Chị nhìn kỹ tôi, ai yêu được khuôn mặt này. Bộ chị tưởng Toàn không biết mặt mũi mình như thế nào hay sao ? Chỉ cần sờ vào là biết !

Toàn đưa mười ngón tay lên rờ nắn lớp da tật nguyền, đột nhiên những móng tay cong lại cào mạnh như muốn lột tróc cái hình thù kinh tởm.
- Ðừng, Toàn !

Tôi hét lên, chạy tới, giằng lấy những đầu móng đang cào cấu trầy trụa khuôn mặt nó. Thân hình Toàn giật lên, cả tấm lưng co giật vùng vẫy muốn chạy trốn. Toàn cất tiếng hú đau đớn, tôi ghì cứng lấy Toàn, áp mặt nó vào mặt tôi, vít lấy đầu, xoa xoa lớp da sần xùi, hôn vào từng chỗ sẹo vỗ về, an ủi.
- Ðừng bao giờ làm vậy nữa nghe Toàn, đừng bao giờ, nghe chị, đừng bao giờ...
- Chị đâu có yêu Toàn.
- Chị không thể, chị không có quyền...

Toàn ôm lấy tôi, vòng hai tay ôm lấy lưng tôi. Ðợi cho tất cả nguôi ngoai, bình tĩnh, tôi gỡ tay Toàn, nói trong hơi thở kiệt sức.
- Chị sẽ tìm cho Toàn một người bạn gái, chị hứa, chị hứa ...

Toàn bỏ ra ngồi ở bàn ăn, cầm lấy cuốn sách cố quên sự xúc động quá mạnh vừa qua. Ngón tay Toàn sờ soạng những mặt chữ nổi, lần từng mẫu tự, cố tìm một ý nghĩa trên trang giấy. Cái hình dáng Toàn ngồi chịu đựng, mệt nhọc đè lên tôi. Không có gì đau đớn bằng phải chứng kiến một đời sống thân thuộc chết dần mòn, thoi thóp ở bên trong. Những khuôn mặt của chúng bạn gái lần lượt lướt qua, những dấu hỏi, phân vân, xét đoán, do dự, sợ hãi lẫn lộn không thành hình thể. Joelle, Kate, Florence, Isabelle ? Ai cũng được, nhưng không thể là tôi, nhất định không thể là tôi.


*

Kate vào nhà, cởi áo dạ rồi mới tháo mũ. Mớ tóc đỏ tuôn ra từ chiếc nón nỉ rơi xuống thân áo đầm len có đính một hàng khuy nút. Kate nói để cô ta tự nhiên, rồi ngồi xuống sofa. Cô ta đưa mắt nhìn quanh quất, tôi biết Kate kiếm ai.
- Kate uống chút rượu ?

Tôi hỏi vỉ Kate ít khi uống rượu. Quả nhiên cô ta lắc đầu, nhưng tôi mời thêm lần nữa, cố tình nài ép và Kate nhận lời. Tôi rót Vodka vào ly thủy tinh trao cho Kate. Tôi nhìn đăm đăm vào chất lỏng trong suốt lúc cô ta đưa lên môi uống, như thể tôi mong đó là phương thuốc nhiệm màu làm tăng can đảm cho Kate.

- Trời lạnh uống rượu nhiều khi cũng thú.
Kate đặt ly xuống bàn, xoa hai tay vào nhau dễ chịu. Kate còn trẻ, trạc tuổi Toàn, hiền lành và biết suy nghĩ. Nhìn cô ta thoải mái, không có vẻ bồn chồn, tôi cảm thấy yên tâm. Tôi đã nói với Kate về Toàn, là Toàn gặp một tai nạn, phải sống cô độc nên rất buồn. Nếu Kate có thể đến chơi với Toàn vào cuối tuần...

Kate chuyện trò vu vơ với tôi về đời sống, hỏi có phải Toàn thích chơi đàn và đọc sách ? Nhà có tủ sách lớn quá. Tôi trả lời là Toàn say mê vĩ cầm, còn tủ sách là của tôi vì Toàn chỉ đọc được một ít sách đặc biệt dành riêng cho những người như Toàn. Kate ngạc nhiên hỏi tại sao, tôi cố giải thích cho cô ta hiểu rằng Toàn rất yếu thị giác, bị thương ở mắt. Tôi muốn chuẩn bị cho Kate nhiều hơn nữa, nhưng cô ta có vẻ tự tin và nói tôi không phải lo.

- Kate hiểu, Kate đã gặp những trường hợp như vậy. Chị đừng ngại, Kate tin mình sẽ trở thành bạn thân của Toàn.
Kate nắm tay tôi trấn an, khuôn mặt cô ta vẫn bình thường và điềm tĩnh.
- Kate đã gặp nhiều người thanh niên, Kate biết xử sự, Kate sẽ không để chị buồn. Chị cho Kate gặp Toàn đi.
Khi ấy tiếng đại vĩ cầm của Toàn từ buồng trong trổi lên. Tôi thấy mặt Kate có hơi thay đổi. Tôi hiểu vì sao, tiếng đàn chùng nhão, rã rời gần như bệnh hoạn của Toàn, đối với tôi dù đã quen thuộc nhưng mỗi khi tấu lên vẫn mang một thứ âm thanh lạnh lẽo kỳ quặc. Song Kate đã đứng lên, nói cho cô ta vào gặp Toàn. Tôi đưa Kate đến trước cửa buồng Toàn, gõ tay nói có khách. Toàn không trả lời, tiếng đàn vẫn cò cưa ở một điệu duy nhất. Tôi và Kate đẩy cửa vào, Toàn đang ngồi quay lưng, hai vai rung rung với thân đàn và thanh mã vĩ kéo qua lại. Tôi nghe Kate nói chào Toàn, cô ta bước hẳn vào buồng. Toàn dấu mặt mải miết kéo mã vĩ như không nghe thấy gì hết. Tôi nhìn Kate đứng sau lưng Toàn, với tiếng đại vĩ cầm xoáy tròn trong buồng. Tự nhiên tôi hối tiếc đã đưa Kate tới đây, thấy giận hờn ghen tuông trong lòng. ý nghĩ sắp mất Toàn làm tôi hơi buồn, dù biết mâu thuẫn. Kate vừa đặt tay lên vai Toàn.
Những gì xảy ra kế tiếp ngoài dự đoán của tôi, của Toàn, của Kate. Lúc Toàn quay đầu lại, khuôn mặt từ từ quay sang phơi bày những thớ thịt nhăn nheo, trồi trũng ghê tởm với hai lỗ hổng ở mắt, một nửa cánh mũi không còn hình thể, và một rãnh thẹo chạy từ nhân trung ngang môi xuống quá cằm, thì Kate vụt rú lên. Khuôn mặt Kate khiếp hãi, sự điềm tĩnh biến thành kinh hoàng tột độ. Thứ tiếng rú của một người đàn bà sợ hãi quá mức làm rũ liệt cả chân tay tôi, rồi Kate bỏ chạy. Cô ta vừa chạy vừa la thét gọi cầu cứu. Lúc Kate đã chạy ra khỏi nhà, những tiếng hú ác quỷ, quái vật hãy còn rớt lại trong hành lang, cây đại vĩ cầm ngả xấp trên đất và tôi thấy từ hai hố mắt Toàn những giọt nước mắt ứa ra. Ở khối thịt ngày xưa là mặt mũi Toàn, toát ra vẻ đau đớn, tủi hổ. Những giọt nước tủi hổ lăn từng hột xuống bờ môi run run hằn thẹo. Toàn khóc không có tiếng, nhưng tôi thì bật khóc nức nở. Tôi ôm lấy Toàn, ghì xiết lấy mặt mũi tóc tai nó. Nước mắt tôi hòa vào những giọt nước ở hố mắt Toàn.
- Không ai có thể yêu Toàn, làm bạn gái của Toàn.



Toàn nói với tiếng rên đau đớn, tôi bịt môi nó nói tôi yêu Toàn, sẽ làm bạn gái của Toàn. Tôi nói tôi sẽ làm tất cả những gì Toàn muốn, để Toàn không cô đơn, để Toàn được sống bình thường như tất cả mọi người thanh niên. Tôi chấp nhận hết, chấp nhận tất cả. Toàn hỏi tại sao tôi tiếc, tại sao gìn giữ với Toàn. Tôi nói tôi không tiếc với Toàn nữa đâu, người ta cưỡng bức tôi trên biển, tôi còn gì để gìn giữ.



Hai chúng tôi ôm nhau trên thảm. Toàn úp mặt vào tóc tôi khóc thầm lặng. Tôi vỗ về trên lưng Toàn như ngày xưa, dạo nào tôi thường vỗ về nó. Cách đây đã lâu lắm. Những hình ảnh cũ, những thương yêu máu mủ của quá khứ hiện về, những kỷ niệm dịu dàng khiến tôi nghĩ tôi và Toàn là một. Tôi và Toàn đã thuộc về nhau từ dòng máu, đâu có khác biệt gì nếu tôi thuộc về Toàn hôm nay, lấy máu của hai chúng tôi trộn lại. Tôi không muốn thuộc về một người đàn ông nào khác nữa. Tất cả đàn ông làm tôi ghê sợ, trừ Toàn. Hai chúng tôi nhìn những đám mây trôi tịch mịch lặng lẽ qua ô cửa sổ. Tôi tả cho Toàn nghe màu sắc của những cụm mây, của đường chân trời đuối lịm ngoài xa. Toàn không trông thấy và tôi bù đắp cho Toàn những thiếu xót của thân thể. Hai chúng tôi chia sẻ cái màn tối vây bọc lấy nhau. Nụ hôn của Toàn dài thăm thẳm như chiều sâu của bóng tối. Sau nụ hôn đó, tôi biết chúng tôi không còn thuộc về thế giới luân lý của loài người.

*

Hôm đầu tiên, hai chúng tôi ăn cơm trong yên lặng. Toàn ngồi đối diện tôi, đầu hơi cúi, chăm chú nhìn bát cơm. Chỉ có tiếng những hạt mưa rơi vỡ rả rích và ánh đèn trần vặn nhỏ, buông thứ ánh sáng loãng giăng lên bàn. Tôi nhìn ánh điện vỡ li ti trên da mặt Toàn, cố nghĩ đó không phải là những ngấn sẹo mà là thứ ánh sáng trổ hoa màu vàng. Toàn cắm cúi ăn với trận mưa mỗi lúc một lớn. Hai chúng tôi chờ nhau lên tiếng, nhưng rồi chỉ một bàn tay Toàn trờ tới, trên khăn trải bàn nắm lấy tay tôi, những ngón tay mở rộng, xòe đan vào nhau, ấp ủ xúc cảm và nhục cảm cho nhau. Toàn vẫn cúi đầu yên lặng, nhưng nói với tôi rất nhiều bằng cách tiếp xúc ấy. Sau bữa cơm, Toàn đứng lên kéo tôi vào buồng.

Hai chúng tôi đứng gần nhau trong bóng tối, chỉ có ánh sáng của những hạt mưa, phản chiếu từ trụ đèn đường, hắt dội vào buồng điểm lăn tăn lấm tấm từng hôït nhỏ lóng lánh trên thân thể Toàn. Tôi để yên cho Toàn cởi quần áo, bàn tay Toàn khéo léo, giống như tất cả người mù đều có đôi bàn tay tinh tường. Toàn gỡ từng khuy cúc, hôn vào từng chỗ da thịt tôi vừa thôi hết giam hãm. Ðến lúc Toàn tháo làn áo lót, thì đột nhiên bên ngoài có tia chớp chói lòe, lóe đập vào buồng soi vữa một nửa khuôn mặt của Toàn. Tôi vụt gai người bắt gặp trong thứ ánh sáng xanh điện, một thứ ánh thép sắc lạnh của từng nhát mác chém bổ xuống. Những thanh mã tấu bầm xuống, xối xả, liền tay, từng nhát, từng nhát man rợ lên mặt mũi Toàn. Tôi cũng thấy giữa ánh chớp của cơn giông những hình ảnh tắt hiện, tắt hiện đau đớn điên dại của thân xác chính mình. Tất cả những hình ảnh đó, gẫy vụn, rách nát, hiện lên trên khuôn mặt xần xùi của Toàn.
- Ðừng, ...

Tôi rụt người lại trong cơn sợ hãi.

Toàn nhận ra sự không tự nhiên, ôm lấy tôi cố truyền hơi nóng từ người nó sang. Toàn thì thầm bên tai tôi những câu nói yêu đương vô bờ bến nhất.

- Tòan yêu chị vô vàn, Toàn không hối hận gì hết. Ðừng nhìn mặt Toàn, sẽ làm chị sợ.

Toàn bảo tôi quay lưng lại, nói đừng sợ, đừng nhớ, đừng nghĩ gì hết, sống cho hai chị em thôi. Tôi gật đầu, tôi sẽ không nhớ ... Toàn bước tới, ôm tôi vào lòng, áp thân mình vào lưng tôi. Tiếng của những giọt mưa bắn lách tách trên mặt kính, tiếng Toàn nói thật nhỏ rằng Toàn muốn yêu tôi từ sau lưng, tiếng của chính tôi đáp lại là tôi cần Toàn và cho Toàn hết. Bây giờ trong nhà chỉ có hai chúng tôi với một tình yêu cật ruột.

Khi Toàn lấy băng vải đen hôm nọ buộc quanh mắt tôi, hơi ấm từ người Toàn cũng đã truyền hẳn sang tôi. Sức nóng tỏa lan, cuồn cuộn và tôi trông thấy xuyên qua tấm màn đen những hình ảnh thật rõ nét. Hai chúng tôi lõa thể nhập vào làm một, hai cánh tay Toàn ôm vòng quanh bụng tôi, một đôi môi hôn tôi ở cổ, lần xuống vai và cắn vào lưng. Một cảm giác chậm, rạt rào tình thương, từ sâu kín dâng lên dần. Những đau đớn từ vết thương ở quá khứ tan vào niềm sung sướng không ngờ, nhịp nhàng ở mỗi cử động của Toàn thận trọng, nhẹ nhàng, từng chút, từng chút, cho từng yêu thương máu mủ.

Tôi và Toàn yêu nhau trong bóng tối, gượng nhẹ, xoa dịu, giúp đỡ lẫn nhau xóa nhòa một vết thương không may mắn của cuộc đời. Rồi Toàn bồng tôi lên giường, rồi tôi úp mặt vào ngực Toàn khóc nức nở vì sung sướng, đã bù đắp, giải thoát được cho nhau. Những giọt nước mắt nhiễu xuống chan hòa ngực Toàn nồng ấm. Rồi Toàn mơn man những sợi lông măng ở cằm tôi, hỏi tôi có yêu Toàn, có hạnh phúc hay là hối tiếc? Tôi trả lời là tôi yêu Toàn, rất hạnh phúc và không hối tiếc. Có thể tôi đang phạm tội, nhưng ai hiểu cho rằng một giọt máu đào hơn ao nước lã, và tôi cần giọt máu đào của Tòa biết chừng nào.

Trăng lên, cơn mưa tạnh. Hai chúng tôi nằm kề nhau lắng nghe im ắng của đêm hoang vu như thuở loài người còn tiền sử. Thời hồng hoang, trong gia tộc chị em vẫn thường lấy nhau, tôi và Toàn chỉ lập lại cách sống của loài người ban sơ. Ðêm thanh vắng che chở cho chúng tôi, không có con mắt của người ngoài, không có luân lý của cuộc đời, không có chi hết, chỉ có chị em chúng tôi yêu nhau.



*

Những ngày sau đó, những ngày tôi và Toàn chung sống với nhau thật tuyệt diệu. Tôi là chị, là người yêu, vợ của Toàn. Toàn là em, là người tình, là chồng tôi. Thật tuyệt diệu khi tất cả những tình cảm ấy gộp lại làm một, thứ tình thương duy nhất gọi là tình yêu. Tôi không thể xa Toàn, những giờ làm việc trong hãng trở nên ray rứt nhớ nhung. Những phút hấp tấp bước như chạy vào nhà để bồi hồi lịm người trong tay nhau. Những nụ hôn trao vội vàng, những ghì xiết hối hả ... Ðêm nằm bên gối Toàn thường nhắc lại những kỷ niệm cũ.

- Chị còn nhớ những buổi chiều mình đi dạo ở bãi sau ? Toàn nhớ mãi chiếc áo tím của chị in trên nền cát vàng chạy dài đến chân núi. Tóc chị lúc đó còn dài chấm lưng, gió biển thổi phất bay theo từng gợn mây trắng. Toàn yêu chị từ lúc đó, chị biết không ?



Chị biết không ? Toàn úp mặt vào tóc tôi thì thầm, sống mũi Toàn cọ đùa vào chân tóc. Những lúc ấy hai chúng tôi trở về với quá khứ, sống mũi Toàn hãy còn nguyên vẹn hình hài, chưa gẫy nát, tôi hãy còn mái tóc thề con gái chưa tủi nhục. Toàn còn kể nhiều kỷ niệm khác, làm như đôi mắt mù lòa không trông thấy được hiện tại và tương lai của Toàn khi chỉ còn thấy những hình ảnh xưa cũ lúc trước.

- Chị nhớ bắt đầu trang điểm lúc nào không ? Buổi tối sinh nhật anh Thuấn, chị Niệm đem phấn tới đánh cho chị. Toàn núp ngoài cửa buồng lén nhìn vào chắc chị không biết ? Tối đó ba nhốt chị trong buồng cấm không cho đi, chị khóc suốt đêm làm Toàn cũng khóc theo, chị nhớ không ?



Chị nhớ không ? Tôi nhớ. Nhớ Toàn luôn lẽo đẽo theo sau vòi vĩnh, nhớ Toàn đeo lấy mình từng bước, không rời, không chịu ngủ giường riêng, giận hờn mỗi khi Thuấn đến đón đi chơi.

- Chị còn yêu anh Thuấn phải không ?



Toàn thường hỏi tôi câu đó đầy ghen tuông, hờn mát.

- Anh Thuấn hôn chị rồi phải không ? Nó đã làm gì chị ?



Nếu tôi gật đầu thì Toàn trở nên hung dữ, ân ái mạnh bạo, lấy móng tay cào sướt lưng tôi như để trả thù, để rồi sau đó khóc lóc xin lỗi. Nếu tôi lắc đầu quả quyết Thuấn chỉ là bạn, Toàn có vẻ bằng lòng, không muốn tôi thuộc về ai khác.

- Chị hứa đi, đừng lấy ai khác ngoài Toàn, hứa đi.

- Chị hứa.



Tôi hứa. Tôi biết mình không thể nào bỏ rơi Toàn, không thể nào sống xa nó. Chúng tôi nằm áp người vào nhau cho hơi nóng của cả hai trùm lên thân thể trốn mùa đông bên ngoài dầy đặc cơn mưa tuyết. Những hạt tuyết rơi lất phất chạm vào mặt kính, đọng rồi tan, tan rồi đọng. Suốt mùa đông, tôi và Toàn giam kín trong nhà không đi đâu, xa lánh mọi người. Tôi sợ người ta khám phá cuộc tình của mình, tôi sợ tôi bỏ nó ra đi. Chúng tôi có thể ngủ vùi hàng giờ trong chăn ấm bên nhau. Giữa những cơn ân ái, khi trao thân cho Toàn, hai chữ loạn luân thường lởn vởn hiện trên trần nhà. Tôi rúc mặt vào ngực Toàn để không phải nhìn cái chữ loạn luân vô hình, nhưng rắn rỏi đậm nét viết thật rõ ràng ở trần buồng. Băng vải đen bịt quanh mắt là phương cách tốt nhất để tôi không thấy nó. Có khi cuối tuần, suốt ngày tôi giữ nguyên giải băng đen quanh mắt chia sẻ thế giới không ánh sáng của Toàn. Chúng tôi chơi trốn tìm nhau trong nhà. Núp sau cánh cửa, trốn trong tủ quần áo, nín thở,... Toàn dạy tôi học những bài học vỡ lòng của người mù. Làm thế nào để di chuyển trong bóng tối ? Từ phòng khách xuống bếp mất bao nhiêu bước chân ? Từ bàn ăn đến đài truyền hình cách mấy sải tay ? Làm thế nào để biết thức ăn vừa chín tới ?

- Thì nếm thử !



Toàn cười ròn tan khi tôi hỏi nó điều đó.

- Chị muốn canh giờ giấc để biết ngày hay đêm thì phải tập kiểm soát cơn đói và sự bài tiết của cơ thể.

- Nhưng làm sao mặc đúng kiểu áo mình muốn ?

- Phải tập rờ nắn sợi vải, tẩm vào mỗi kiểu quần áo một mùi nước hoa riêng...


Dần dà tôi bước vào thế giới bóng tối của Toàn một cách lý thú. Mỗi khi tôi vấp ngã, Toàn cười thành tiếng. Mỗi khi Toàn lấy lộn bột mì với bột bắp tôi cười chế nhạo. Những niềm tin vui nhỏ bé mà chỉ từ khi trở thành vợ chồng, tôi mới biết cảm thông chia sẻ với Toàn.

Chưa có bao giờ tôi hạnh phúc như vậy. Hạnh phúc được làm một người đàn bà bình thường, có cuộc sống lứa đôi, thứ hạnh phúc mà tôi tưởng đã mất từ sau tai nạn. Toàn đã chịu khó đến trường mù, chịu khó lãnh hàng từ trường tật nguyền về ráp nối ở nhà kiếm thêm tiền phụ tôi. Những đồng tiền rẻ mạt nhưng lại là niềm vui của chúng tôi. Toàn vui vì thấy hữu ích. Tôi vui vì Toàn đã bớt bất bình thường, chăm chỉ tập luyện vĩ cầm, gắng sức học tiếng Pháp với mặt chữ nổi. Toàn bỏ hút thuốc lá, bỏ uống rượu. Tôi cảm động vì thấy Toàn cố gắng trở thành một người chồng gương mẫu. Nhiều lúc Toàn ngượng ngập một cách trẻ con, cố ý phát âm chữ “Chị” thành “Chi”.
- Chi còn yêu Toàn không ?
- Còn, với một điều kiện phải gọi bằng chị.
- Sao không cho Toàn gọi bằng tên ?
- Chị yêu Toàn, và muốn được mãi mãi làm chị của Toàn, Toàn hiểu không ?

Toàn gật đầu, yên lặng để cho tôi vuốt ve những sợi tóc lòa xòa trước trán. Cũng có những buổi tối, sáng trăng, tôi và Toàn đi dạo bên ngoài. Mỗi khi ra đường, tôi luôn cố gắng ăn vận, trang điểm sao cho Toàn biết rằng tôi làm đẹp vì Toàn, để Toàn được hãnh diện đi bên tôi. Toàn rất nhạy cảm, đứng chờ tôi thay quần áo, rồi với vẻ trịnh trọng khen tôi đẹp với dáng vẻ say mê ngắm nghía. Những lúc ấy Toàn thật tội nghiệp, khi đưa ngón tay mơn qua môi tôi để đoán màu son, khi rờ nắn lớp vải để đoán kiểu áo.
- Ðêm nay chị đẹp lắm, Toàn rất hài lòng.

Tôi muốn khóc khi đó, nhưng đè nén được cảm xúc, giữ cho buổi tối được trọn vẹn, thắt lại cà vạt cho Toàn, rồi hai chúng tôi bát phố. Thường thường Toàn nắm tay tôi cho vào túi áo dạ của Toàn, chúng tôi chọn những con đường thật vắng, ít người qua lại, để Toàn không phải nghe những lời xầm xì hay tiếng kêu sợ hãi của các đứa bé đi ngang. Chúng tôi có một quán ăn quen, gần nhà, tôi và Toàn chỉ dám đi ăn tối thứ hai là tối thưa khách nhất. Người chủ quán dành cho chúng tôi một bàn ăn khuất trong góc, có cắm đèn cầy và một bông hồng.
- Chị đừng kêu những món đắt tiền, Toàn chỉ muốn ngồi đây với chị, thức ăn không quan trọng đâu.

Tôi và Toàn dùng bữa dưới ánh bạch lạp êm đềm, có nụ hồng nở dịu dàng và những chăm sóc ân cần của người chủ quán già.
- Ông bà dùng bữa có ngon miệng ?
- Vâng, tốt lắm.

Toàn mạnh dạn trả lời thay tôi. Nét mặt rạng rỡ, sung sướng. Suốt bữa ăn đôi chân chúng tôi quấn lấy nhau, không rời.

*
Rồi mùa đông đi qua trong tình yêu lén lút của hai chúng tôi. Mùa xuân đến làm nẩy chồi những nụ non trên thân cây lật trước đường. Những cành khẳng khiu tỏa vươn như đôi tay thiếu nữ kết vòng hoa trái. Từng đọt xanh nhú mình tìm sự sống. Tôi đã tưởng, trong nắng sáng dờn dợn, cuộc sống mình tái sinh cùng với thiên nhiên huyền nhiệm đó. Nhưng nào ngờ đột biến vùng thức dậy khi Toàn đòi hỏi tôi một đứa con.
Toàn nói nó chỉ tìm được cuộc sống bình thường nếu được chung sống với tôi như đôi vợ chồng đàng hoàng, sinh con đẻ cái ...
Tôi sợ hãi từ chối. ý tưởng có một đứa con với Toàn như mũi kim khều phọt giọt máu tội lỗi. Nó chọc thủng tấm màn đen đui mù mà tôi che dấu sự loạn luân. Những đứa trẻ kết tinh từ huyết thống loạn luân ít khi bình thường. Tôi nói với Tòan làm sao ăn nói với gia đình, với bố mẹ, với họ hàng ? Không lẽ sống cô lập, trốn tránh gia tộc suốt đời ? Tôi sợ. Run rẩy khi nghe Toàn thì thầm muốn có một đứa bé.
- Ðừng ! Ðừng nghĩ đến chuyện đó, chị sợ lắm !

Tôi hốt hoảng, giọng Toàn rên rỉ khẩn nài, vòng tay ôm mạnh chắc, những ghì xiết ôm tròn xót xa.
- Cho Toàn một đứa bé, một đứa, một đứa thôi. Nó sẽ gọi mình là ba mẹ. Mình sẽ cho nó thật nhiều tình thương.

Toàn van lơn mỗi đêm, thúc hối, ám ảnh, quên mất khía cạnh loạn luân của tình yêu cả hai. Tôi đã phá bỏ lý trí để yêu Toàn, nhưng không đủ can đảm tạo hình ra tội lỗi. Rồi làm sao giải thích cho đứa con vế mối quan hệ bố mẹ nó ?
- Không ! Chị không muốn ! Mình không phải là vợ chồng, hiểu cho chị, cho chị... Tôi khóc khi Toàn hôn vùi vào cổ.
- Nhưng Toàn muốn ! Toàn muốn !

Toàn hất đầu, hất đầu, những cái hất đầu ích kỷ, những giọt nước mắt của tôi mặn đắng và không lối thoát.
- Thương giùm chị, giùm chị ...

Nhưng Toàn không hiểu, không xem đó là lời năn nỉ của người chị đã đến ranh giới chót của tình thương em. Toàn cho đó là sự chống đối. Bắt đầu từ hôm đó Toàn thay đổi, trở về trạng thái lầm lì, hung bạo trước đây. Toàn biến dạng, từ từ, chậm chạp, đến dần cực điểm của hung dữ, đàn áp, sai khiến. Toàn cấm tôi uống thuốc ngừa thai, lục lọi khám phá từng chỗ dấu thuốc với một ý nghĩ duy nhất là bắt tôi có con. Ban đêm tôi không dám ngủ chung với Toàn. Ban ngày vùi đầu vào máy truyền hình để tránh trò chuyện. Tôi sống trong sự kháng cự, bị rình mò, chờ đợi sự tấn công.

Hôm đó, tôi ngồi trước máy truyền hình xem một cuốn phim quay lại. Những hình ảnh thoáng qua, rời rạc, hiện lên, biến mất. Tiếng vĩ cầm của Toàn đã từ lâu vọng lên trở lại cái điệp khúc chùng nhão, vô hồn, vô tính. Tiếng đàn cuốn từng vòng dây thép gai, xoáy từng chốt đinh ba chấu trong đầu tôi. Thứ âm thanh sắc nhọn, thủy tinh, cứa vào từng thớ thịt trong lúc trên màn ảnh là một chuyện phim đầy biến động. Tôi chỉ nhớ cuốn phim có cái tên lạ là Pháo Thuyền Trên Dòng Yăng-Tsé, có Steve Mc Queen đóng. Chuyện một người thủy thủ phục vụ trên một chiến thuyền Hoa Kỳ nối liền Hàn Châu và Hán Khẩu. Có những xáo trộn tâm tính con người thật dữ dội. Có những phản ứng bản năng bất thường. Tôi chỉ nhớ chừng ấy, còn bao nhiêu hình ảnh khác không phải là của cuốn phim mà là cảnh một bào thai đẻ non đương sinh nở trong lòng người mẹ. Trên màn ảnh tôi thấy một bọc nước vỡ, một cuống nhau lòng thòng, những mũi thuốc giục, những cơn rặn tím bầm thân thể, những tia máu phọt ra theo từng cái quẫy mình. Những tia máu cứ bắn ra, cái đầu hài nhi thậm thụt trồi ra thụt vào. Một kềm gắp, một máy hút, một da con toang hoác ! Và ở giữa cái dạ con toang hoác đỏ lòm đó là cái đầu hài nhi mang khuôn mặt của Steve Mc Queen bậm môi trợn mắt khúc cuối đoạn phim bị bắn té ngồi lảo đảo gượng dậy bò bơi trườn lềnh bềnh trong túi nước. Ánh mắt người lính thủy lạc đi, thất thần khi thấy ở bụng mình một lỗ thủng máu huyết cứ trào ra, trào ra. Tôi nghe được câu nói của người lính sắp chết : mais bon sang! Qu’est ce qui m’est arrivé? J’étais encore chez moi hier! Ðứa trẻ vùng vẫy. Mười ngón tay cào cấu. Mười ngón chân giẫy đạp. Bụng người mẹ rách bươm và tiếng đàn của Toàn cuồng loạn liên tục một điệu chà xát mải miết trên dây thần kinh tôi căng cứng. Ðầu tôi rối chằng với những hình ảnh xếp chồng trong thứ âm thanh ép chặt. Tôi không hiểu nổi câu nói sau cùng của người lính thủy bị bắn trên màn ảnh. Tôi muốn hiểu và muốn trông thấy khuôn mặt thật của hài nhi nhưng tiếng đàn đã đổ ào đứt ngang. Không còn là tiếng đàn nhưng là ly bể chai vỡ, cửa đóng máu ngừng, tim thôi đập phổi trút hơi và dạ con khép chặt. Tòa đến đứng sau lưng im lìm.
- Cho Toàn một đứa bé.
- Không! Chị không thể!

Toàn không nghe tôi nói, hươi chiếc lưỡi lam xanh biếc ngời chiếu lên sát mặt tôi. Rồi Toàn vụt cắt mạnh dây đàn đứt phựt. Một. Toàn gầm gừ rồi hươi tiếp lưỡi lam lên cao trở lại, vung lên múa xuống. Toàn hoa ánh lam xanh ngời như khi múa làn vải đen chấp chới chập chờn rờn rợn. Hình ảnh cái xác rắn chết thõng thượt hôm nào sống dậy, ngoằn ngoèo trườn trườn quấn lấy yết hầu tôi lúc Toàn kề lưỡi lam vào cổ tôi gạch nhẹ. Máu chảy ứa ra bỏng xót. Tôi căng người sợ hãi, hai tay chới với tìm sự chống đỡ.
- Ðừng!
- Chị đâu yêu Toàn ?
- Chị thương Toàn.
- Không đúng! Thương sao không muốn có con với Toàn!
Toàn hét lên và cắt đứt thêm một sợi dây đàn. Hai rồi.
- Không! Ðừng ép chị!

Tôi đẩy Toàn, xô hất bỏ chạy. Toàn rượt theo, tủ sách bàn ăn ghế đẩu đâm sầm vào người tôi ngã xấp té ngữa. Tôi đứng lên, té ngã, chậu cây níu chân, cửa buồng chắn lối, hành lang dài thẳm. Phòng tắm, phòng tắm, chốt khóa, tên bố, tên mẹ, tôi thét gọi với tiếng động của Toàn đập phá.
- Trời ơi! Tha cho chị!
Toàn không nghe, phá cửa, chụp lấy tôi xé áo.
- Ðừng! Buông chị!

Tôi ngã xuống sàn gạch. Toàn ngã đè lên người. Thằng này tật nguyền, lúc điên lúc tỉnh, phải chị sợ vậy không? Phải chị sợ vậy không? Nói! Toàn tát tôi, lột áo, hai bàn tay mạnh bạo, mười ngón tay hung dữ bẻ quặt tay tôi, bắp đùi đè ngang chân, hơi thở, tiếng la, men gạch lát tường, đèn trần, khăn tắm, thân thể trần truồng, nhễ nhại, bả vai, bắp thịt, sức lực, môi cắn, tay cào, móng nhọn, mũi, mắt, ngấn sẹo, tinh trùng, bào thai, đứa bé, tôi hét gọi mẹ bị Toàn bịt miệng.
- Nói yêu Toàn! Nói muốn có con với Toàn! Nói! Nói!

Toàn hãm tôi tàn bạo trên mặt đất. Nói thèm muốn da thịt tôi thơm mát, thèm ngực tôi tròn trịa, đùi tôi tươi trắng, con chúng tôi kháu khỉnh. Toàn nói, nói thật nhiều không ngừng trong lúc tôi giẫy giụa la khóc thét kêu van nài đau đớn.

Tôi nắm trần truồng trên đất. Phòng tắm tan hoang. Thần kinh xơ xác. Tôi nghĩ đến một điều gì đó mà không nghĩ ra. Một vài giọt máu dập ở môi trong mằn mặn. Từ đâu cuốn phim lúc nãy quay lại, chậm chạp mà rõ ràng. Tôi nằm đó xem lại cuộn phim trong trí nhớ. Cảnh người lính thủy xung đột với thủy thủ đoàn, ý niệm danh dự giằng co trong đầu viên thuyền trưởng. Những người Trung hoa quá khích. Những pha bạo động. Người phụ máy bị tra tấn. Người nữ truyền giáo thơ ngây. Viên đạn bắn vào bụng Steve Mc Queen trổ ra sau lưng, câu nói bừng tỉnh trước khi chết. Câu nói? Người thủy thủ nói điều gì tôi không hiểu ? Giống xem phim câm không có tiếng...

Lâu lắm lúc tôi gượng dậy trời vẫn sáng tỏ. Toàn đang ngồi khóc ở bàn ăn. Tiếng khóc thút thít hiền lành. Tiếng khóc của Toàn thời thơ ấu. Cánh cửa sổ mở rộng, không có chút nắng nào. Tôi nhìn bầu trời, màu trời đục lờ lợ. Ðột nhiên tôi nhớ lại tất cả, nhớ từng chi tiết thật kỹ càng. Nhớ từ lúc đặt chân xuống thuyền vượt biên gặp hải tặc cho đến lúc Toàn hãm tôi mới đây. Nhớ cả câu nói của người lính thủy bị bắn. Nhưng mà... Trời ơi! Chuyện gì đã xảy ra? Chúng tôi còn ở Vũng Tàu hôm qua kia mà! Tôi gục xuống, Toàn quay lại mặt đầy thẹo. Vết thẹo. Trời ơi, buổi sáng.

1991
































Nhã Nam




Lời tòa soạn: Năm 1995 nhà văn Trần Vũ về Việt Nam, tình cờ đọc tác phẩm “Mưa Nhã Nam” của Nguyễn Huy Thiệp, ông viết truyện ngắn “Nhã Nam” như một cách đối/họa lại tác phẩm này, bằng chính câu văn cụt của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Nhã Nam với bút pháp hiện thực huyền ảo, quá khứ - hiện tại, lịch sử - thời sự, Sàigòn, Nghệ An, Côn Sơn, Chi Lăng đan xen vào nhau, không gian – thời gian đánh tráo thứ tự liên tục, tạo cho người đọc cảm giác hư hư thực thực.









Chúng tôi về Nhã Nam, quê của Th. Nhã Nam đất hẹp, nhiều cây, sông nước và những rừng người. Th đón tôi ở sân bay, gương mặt anh tầm thường như mọi người tôi không nhận ra. Th là nhà văn, từ khi mở nhà hàng mang tên hoa Tây Bắc anh thôi viết. Trước, tôi ngỡ đã đọc hết truyện Th. Anh có lối viết mỗi câu như nhát mác phạt vào gốc chuối phọt mủ. Th đưa chúng tôi vào hiệu sách. Tôi với chị T loay hoay lựa. Sách của Th tái bản toàn tập, có truyện Mưa Nhã Nam tôi chưa hề đọc. Chị T đẹp, rực rỡ, cười luôn. Chị về Nhã Nam trăm lần chưa chán. Chúng tôi đi uống nước. Thằng bé gạ đánh giầy. Tôi hỏi Th:

- Ðàn ông học vi tính, đàn bà làm điếm, con nít đánh giầy, bán vé số, tương lai ở đâu?

- Ở niềm tin vào hành động học vi tính, làm điếm, bán vé số.

Th trả lời, lạnh lùng.



Chúng tôi về nhà. Vườn vải nở ngát uốn lên núi Bái Vọng những bông trắng lung lay giống tấm lụa trắng ai giăng trước mắt. Th đăm chiêu. Chị T đi tắm. Có ai gọi điện. Chị T trả lời điện thọai cầm tay qua tiếng nước. Tôi bảo Nhã Nam giống Côn Sơn. Th đáp Nhã Nam là Côn Sơn. Cơm chiều vợ Th dọn lên hai khúc cá chiên xả, canh hến, một đĩa gỏi ngó sen. Vợ Th cũng tầm tầm triệu đàn bà chúng tôi trông thấy lúc sáng. Th giục cầm đủa. Tôi nói đợi chị T. Vợ Th giắt con xuống bếp. Nhã Nam buổi chiều mưa căng qua rừng vải giống lụa ướt máng dài tới núi. Th bảo ở đây ít bữa anh dẫn đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Giá trong nước hai mươi ngàn một vé. Giá ngoài về gấp ba.

- Tôi cũng người Nhã Nam sao phân biệt?

- Nhã Nam có hạ có thượng, có chiếu trên chiếu dưới, có nhân đạo, vô học và ăn cướp.



Th hút thuốc lào. Khói khét đặc buồng. Anh vừa trí thức vừa bần cố nông, bây giờ rắp ranh tư sản nhà hàng, chỉ còn chút hương hoa Tây Bắc làm giấc mơ.

Mưa lớn. Chị T vẫn chưa ra. Th đi mua đế. Ðế nếp gò Mã Yên, nơi Liễu Thăng bị chém, uống vào như uống huyết sôi, nóng, đắng. Tôi với Th ngồi nhìn mưa Nhã Nam bôi những dấu chân trâu bừa trên đất. Không nơi nào như Nhã Nam, ô tô với trâu di chuyển trên cùng đường cái. Thời gian NhãNam dài, thư thả, đủ để đếm hết móng trâu và vỏ xe qua đường.

Chị T tắm xong, vẫn điện thoại, vừa cầm máy, vừa chải tóc. Chị thích những cuộc hẹn vu vơ, bất chợt, không mục đích, không quan trọng nhưng nhiều đam mê. Quen lâu, tôi vẫn chưa hiểu chị kiếm gì trong cuộc sống. Th nhìn chị T, đôi mắt đục gần như không trông thấy. Chị ở thế giới khác, không còn là đàn bà Nhã Nam. Th hiểu, cũng hiểu hương hoa Tây Bắc ngữi thấy nhưng không bao giờ nhốt được. Không khí nặng. Th giục tôi cạn ly, bầy bàn trước hiên. Mùi đất pha dầu tắm ở tóc chị T chen mùi đế gò Mã Yên nồng nồng. Mưa lấp núi Bái Vọng rồi rừng vải, đến sân đất nện. Chúng tôi giống ngồi trước mặt ao. Chị T ném một viên sỏi xuống nước, vỡ những bong bóng xoè. Th kéo ghế, tựa cột đà khắc chi chít đại tự.

- Ngày xưa Nguyễn Ứng Long dạy học ở đây.

Th trỏ tấm phản mục kê trong góc.

- Nguyễn Trãi làm thơ chỗ chị ngồi.

Th lại trỏ chị T. Chị cười, vẫn rực rỡ.

- Chỗ tôi và anh ai ngồi?

Tôi gắp khúc cá, nhằn xương. Th nói Mời chị, và cơm:

- Thời điểm nào? Trước hay sau Hồ Quý Ly?
- Trước?
- Cụ Ðán.
- Sau?
- Bọn mất dậy.

Chị T cười ngất. Tôi với Th không cười.
Trời bức. Mưa nhưng vẫn bức. Th ăn một loáng hết thố cơm. Tôi hết chuyện nói, nhìn vơ mấy chữ sơn son thếp vàng khắc đầy vách. Th kể Nguyễn Trãi là một thiên tài. Nhà này lúc trước là một gian thuộc Băng Hồ Gia Trang của cụ Trần Nguyên Ðán, sau chia thành nhiều hộ. Từ khi mở nhà hàng đặc sản sinh lợi, Th mua lại, chữa trang cố bảo trì hồn thiêng sông núi. Anh kể Nguyễn Trãi sinh thời làm thơ xuất thần, không bút, không giấy, chỉ cần nhìn lên vách: chữ hiện như đóng triện son.
- Một trăm bài thơ quốc âm, Nguyễn Trãi nhìn một trăm lần, đời sau không thể xoá.
- Thơ là trí tuệ, không cần lao động tay chân.
Tôi hưởng ứng. Chị T cười rũ.
Th ngâm: "Ðường cùng Nguyễn tịch khóc làm chi"..
- Câu này không còn trên vách.
- Tôi tưởng đời sau không thể xoá?
- Không xoá, nhưng chủ trước rỡ bán cho Ðài Loan.
Th lầm bầm.
Tối. Ra về. Th hỏi đi đâu? Tôi nói Uống rượu. Th chặc lưỡi:
- Trong rượu. Ngoài về cũng rượu. Chẳng có gì khác.
- Khác gì? Mình là người Nhã Nam.

Tôi chở chị T bằng xe Cub. Ðường đất trơn, xe chao lạc vào rừng vải loá. Triệu cánh vải vươn như tay thiếu nữ chụp bắt. Tôi tránh xém ngã. Bông trắng rụng nhàu đất. Xe lao xuống chỗ trũng, nước mưa ngập gối bắn hai bên bửng. Chị T níu vai gọi:
- Có thấy mấy cô ven đường?
- Ðâu?
- Lúc nãy xuyên rừng vải.
- Ðây là Nhã Nam.
Chị T cười. Tôi khiển xe, hình dung gương mặt chị, tươi lúc cười, bình thường buồn thắm. Chúng tôi hẹn cùng về Nhã Nam. Lúc ở ngoài, tôi hỏi Chị về Nhã Nam trăm bận không chán? Chị trả lời Rong chơi đâu cũng vậy, về Nhã Nam vui buồn lẫn lộn. Ra khỏi rừng vải, xe Dreams phóng loạn. Tôi tránh lại xém ngã. Chị T la:
- Cẩn thận!
- Không chết đâu!
"Cuộc đời vẫn đẹp sao", "tình yêu vẫn đẹp sao", tôi hát. Chị T kêu Quỷ. Th đuổi theo sau. Tiếng máy xe Cub 70 của anh rống. Nhưng chúng tôi đã ra tới phố. Phố Thi Sách, Lê Qúy Ðôn, Nguyễn Du, Ngô Quyền, Phạm Ngũ Lão. Quán Buffalo Blues, Q Bar, Doors Pub, Apocalypse Now, Venus Club...
Xe ghé Guns n' Roses. Bảo vệ giữ xe, đưa thẻ. Th thôi đuổi. Th hiểu NhãNam có thượng có hạ, có trong, ngoài và có những quán bar năm mươi ngàn Nhã Nam một ly. Chúng tôi là Nhã Nam kiều.
Gần sáng có tin Tổng Giám Mục Nhã Nam mất. Ðồn đãi: trước lúc chết ông á khẩu, nhiều giáo dân thương tiếc. Tôi với chị T ra khỏi quán, giáo đường treo cờ rũ. Chúng tôi đi qua phố chết. Cửa hàng đóng kín. Không phải để tang, nhưng vì những giọt sương chưa vở trên tàn phượng. Nhà thờ thả lụa tím. Tượng thánh buộc băng đen. Ðường phố lạnh lẽo. Chị T nói ghé nhà Th. Tôi rủ đi xem Lê Sát chém Liễu Thăng. Chị T trách:
- Chỉ thích những trò hung bạo.
Chị không cười. Xe xuyên rừng vải chưa nở, cánh khép, trắng yếu ớt. Nhà Th trồng một chậu mai chiếu thủy, hương rắc tận chân núi Bái Vọng.
Th đợi chúng tôi suốt đêm. Khuôn mặt anh nhầu nát, nhưng đầy kiên nhẫn. Trông thấy chúng tôi, Th đạp máy. Hai xe Cub chạy song song. Chị T mặc jupe, ngồi một bên đong đưa giầy trắng. Gió mát, cây cối im, đường đất đỏ tươi. Xe qua chùa Tư Phúc. Th chỉ:
- Khi Thái Tôn đuổi về lãnh chức quan đề cử, Nguyễn Trãi giữ chùa này.
Anh ngâm: "Anh hùng để hận mấy nghìn năm"..
- Thơ Nguyễn Trãi?
Chị T hỏi. Th gật đầu. Tôi thắc mắc.
- Sao không thấy khắc trên vách?
- Không được phép.
Th cầu nhầu.
Tiếng xe Cub rù rù. Ðường lên ải Chi Lăng khúc khuỷu. Chúng tôi không ngớt trả số. Cảnh sắc thay đổi, mây xám, núi đen, ruộng su hào xanh bật. Mặt ruộng đầy vết xe tải.
- Bọn buôn hàng Trung Quốc mỗi ngày qua đây trăm bận. Th giải thích.
- Có Lê Sát nào chận không?
- Bận xây khách sạn cả rồi.
Anh rú ga phóng lên trước. Qua khỏi đèo đổ dốc, tuột như trôi, tiếng phanh xe hơn tiếng lợn thổ huyết. Chúng tôi trả tiền vào bãi. Hai mươi ngàn vé Nhã Nam. Sáu mươi ngàn vé Nhã Nam kiều.

Nghĩa quân Lam Sơn chật rừng. Giáo mác tủa, cả vùng như cắm chông. Gió lớn. Cờ Quyết Thắng lượn rắn. Lê Thụ vận giáp trụ, người thô, trán ngắn. Lưu Nhân Chú, Lê Linh cởi truồng, mình xăm. Lê Sát múa đại đao xoăn xoắt. Nguyễn Trãi ghìm ngựa trước "Ngõ Thề". Trãi mặc áo vải tơ tằm, xinh như một thiếu nữ. Chiêng gióng sáu hồi, quân Minh từ Quỷ Môn Quan kéo xuống. Lê Sát thúc ngựa kiệu qua vách núi Hàm Quỷ và Cai Kinh, người ngựa gân guốc vượt lũy. Chinh Lự An Viễn Hầu Liễu Thăng hoa chùy đánh. Lê Sát quầy ngựa, hồi mã thương, đường đao đẹp như ánh lửa.
Lũ trẻ giành nhau thủ cấp, cả bọn lừa đá. Lê Sát lấy găm rạch lườn Liễu Thăng thích gan bỏ vào bình ngâm sẵn rượu thuốc. Chị T nhắm mắt.
Giấc trưa về, đường khô, nắng gắt, tôi với chị băn khoăn:
- Chết thật hay giả ?
- Cái chết nào cũng thật, không cái chết nào giả.
Th trả lời, lầm lì. Chị T vẫn còn sợ, tôi khiển xe, chị ôm lưng, tay lạnh ướt. Hương mai chiếu thủy tiết từ núi Bái Vọng nhờ nhợ không đủ lấp mùi tanh. Vợ Th dọn sẵn cơm. Thịt rắn bầm, tiết rắn pha, da rắn chiên dòn, cháo rắn hạt sen. Chị T không dám đụng đủa.

Chiều có tin nhạc sĩ VC chết. Chị T buồn, chúng tôi ra quán. Phố Nguyễn Du đầu đường có hiệu cơm Bà Ðại đắt vì tổng thống Pháp đến ăn chụp hình, cuối đường quán Buffalo chơi nhạc jazz. Chị T nói — Nhã Nam ngoài ăn uống không biết làm gì. Chúng tôi ngồi nghe nhạc. Năm trước về, tôi ấn tượng trở về quá khứ, năm nay bước vào tương lai. Quá khứ hung bạo và tương lai hung bạo. Chị T nhắc chuyện nhạc sĩ VC mất. Hỏi có đi đám? Tôi lắc đầu. Mỗi thế hệ có một cái chết riêng. Chiều xuống nắng nở trên da những đứa bé đánh giầy. "Da nước mưa" như Duras tả trong Người Tình. Chúng tôi kêu phục vụ để nhạc S. Ca sĩ Hn gọi nắng. Tôi với chị T nghe bản nhạc nhiều lần — Nhã Nam, sống giữa nắng, xúc cảm hết lời nhạc. Hn gọi nắng da diết. Nắng chết trên sông, trên mặt lộ. Chữ chết bất tận.
Chị T về nhà Ns. Tôi bỏ chị ở đường 3 tháng 2.
Nhà Th khuya khoắt. Sương đêm phủ tím vải rừng. Ngôi nhà cụ Ðán tịch mịch. Chậu mai chiếu thủy lạnh biếc. Th biến mất. Ngõ tối. Ðèn chai thắp yếu ớt. Tấm phên rã rời mở ra vườn sau đối núi Bái Vọng. Tôi gọi Th. Tiếng la gào vào núi. Bóng thiếu nữ lướt qua sân. Áo lụa tan như trăng.
Tôi yêu Trãi trăng đêm mười bốn. Mười bốn trăng vừa, tắm sáng mặt khuya. Lưng Trãi thon, thơ hiện như vẽ. Ðêm rừng vải gót nhạc cười nụ soan. Tôi níu gọi:
- Ðề thơ nữa đi.
- Thơ Góc Thành Nam.
Trãi cười, buồn.
"Góc thành nam, lều một gian"
"No nước uống, thiếu cơm ăn"
Trăng tắt. Ðêm rụng. Bài thơ chưa hết lời.

Lúc tôi trở ra phố, nắng ướt vai chị T. Lịch treo tường đề mười hai, nhạc sĩ VC chết mùng mười, tôi ở trong rừng vải suốt hai hôm. Hai hôm không gặp, chị T đi Ðà Nẳng, tắm biển Non Nước, da ngăm, tươi muối. Hai hôm trong rừng vải tôi không biết tin: Ðế quốc bang giao với Nhã Nam. Chị T dẫn tôi đi xem suối bia, khắp Nhã Nam ăn mừng.
Trưa, chúng tôi mướn xe Cá Mập đi Nghệ An. Xe tốc hành, chạy suốt, thuê bao trọn gói. Th cầm lái. Dọc đường hướng dẫn:
Năm Ất Tỵ Lê Lợi vây thành Nghệ, truy bắt Lý An, Phương Chính. Nghĩa quân đồn trại dọc sông Lam. Ðêm trong đền thờ thần Phổ Hộ làng Trào Khẩu, vương nằm mộng dữ, người lạnh, lưỡi khô, trông thấy sóng gào, gió giật, cờ gẫy, thuyền đắm. Sáng tỉnh giấc, vả mồ hôi, tê chân, tái sắc. Nguyễn Trãi tâu:
- Ðiềm hà bá bắt vợ. Nhưng vương từ Lam Sơn dấy nghĩa, lấy chí nhân thay cường đạo, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, không nên mê tín.
Vương ám ảnh ác mộng, lo bản mệnh, băn khoăn:
- Xưa vua Lý nhờ vợ chồng Vũ Phục nhảy xuống sông Thiên Phù hiến xác thủy thần mà khỏi bệnh đau mắt, có gọi là mê tín?
Nguyễn Trãi câm. Trướng màn tanh.

Xe vô bãi. Du khách chật sông. Tôi với chị T mua vé thượng hạng sát đài. Vương đứng trên đàn cao, lưng ba trượng, mắt quả quyết. Nguyễn Trãi ôm tráp hầu, Trần Nguyên Hãn che lọng. Lê Lễ, Lê Ngân cầm côn bảo vệ. Nghĩa quân tiến qua đài, cờ huyết lộng. Chiêng trống rùng rùng. Gió Bắc đẩy mây, phèng khua. Vương trỏ sông Lam quát:
- Nay ta vì nghiệp bá hiến thiếp. Thề phá thành Ðông Quan phong con trai Phạm Thị Ngọc Trần làm thái tử.
Pháo nổ. Lê Sát chém ngựa hứng máu. Lính lôi Ngọc Trần khỏi trướng. Ngọc Trần trẻ son, mắt liễu, môi dâu, ẵm Nguyên Long lên ba, khóc thảm. Lê Sát quật hèo, lính khoá củi. Nguyên Long gào mẹ. Củi dìm xuống sông Lam, Ngọc Trần dẫy, sóng tung toé. Một mớ tóc bùng nhùng nổi lên mặt nước. Gương mặt chị T tái nhợt.
Ðường về tôi với chị trăn trở, không yên. Trước lúc ngừng xe, Th hỏi: Còn nhiều trò nữa xem không? Chị T đáp Ðủ rồi. Tôi tránh nhìn Th, hình ảnh mớ tóc bùng nhùng trôi mãi trên nước.
Ngày 13, tháng Thân, năm Hợi, tôi trở lại nhà cụ Ðán. Cơn giận cứng mười ngón tay. Tôi chở chị T bị xe buôn củi đụng, bọn ba gác tháo chạy, chị ngã vỡ đầu, xuất huyết não, chở vào Trung Tâm Cấp Cứu Quận Nhất không ai khám, sang bệnh viện Nguyễn Tri Phương chị mê man cấm khẩu, y sĩ trực mắng bệnh nhân không hợp tác. Tôi gây, thuê xe cấp cứu sang Chợ Rẩy. Bệnh viện lớn nhất Nhã Nam bẩn, nghèo nàn, nằm ngồi la liệt. Nh bạn chị T được tin đến viện, đưa tiền bồi dưỡng. Bác sĩ khám nói máu tụ não bắt mỗ. Chị T mê man. Gia đình Nh đi mua máu, nước biển, kim chích, thuốc trụ sinh. Tôi tìm Th.
- Tất cả chỉ là tưởng tượng.
Tôi quát. Th đang ngồi đọc sách, mắt đỏ rực.
- Không ai hư cấu được sự thật.
Anh gằn, nhưng chỉ đứng yên nhìn tôi phá bàn thờ cụ Ðán. Vườn vải nát, núi thấp, mây cụt. Tôi trở lại bệnh viện, chị T vẫn hôn mê, thở ô xy, vết mỗ bầm máu, giường rỉ sét. Tôi đợi ngoài hành lang, thân nhân trực bệnh ngủ cầu thang lê lết xuống sân. Các bà mẹ Nhã Nam khóc thút thít. Nhà thương giống trại hủi.
Tôi rời Nhã Nam cuối tháng Thân. Chị T vẫn nằm viện, tay phải và chân phải chưa cử động. Th tiễn, gương mặt anh tầm thường giống triệu người nhưng tôi vẫn nhận ra. Máy bay lên cao. Tôi đọc lại truyện Th. Mưa NhãNam tả Ðề Thám quất ngựa dưới mưa nhiệt đới, khóc nức nở đời người. Ðề Thám khóc vì bán một người đàn bà cho định mệnh khắc nghiệt. Th mở đầu câu chuyện khinh bỉ tất cả:
Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng đi, cậu còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy chồng. Lúc ấy toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Anh kết bằng một câu vô cảm: Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
Tôi gấp sách. Máy bay bình phi, ba mươi ngàn bộ. Trên cao, mưa Nhã Nam trong, đẹp như hạt ngọc./.


5/ 8/ 1995



















































Mùa mưa gai sắc






Tôi biết Huệ đã lâu. Từ lúc Huệ còn niên thiếu, những trận mưa rào còn bất chợt đổ về qua ấp Tây Sơn, thứ mưa nóng và ẩm của vùng Qui Nhơn sỏi đá. Suốt quãng đời niên thiếu, hình như Huệ chỉ đi chơi xa có hai lần. Một lần lên Phú Xuân và một lần bơi xuồng băng ngang đầm Thị Nại. Cả hai lần, lần nào cũng có hai anh lớn của Huệ: Nhạc và Lữ.

Hôm ấy ám trời, cả một mặt đầm gợn sắc mây, mưa lướt thướt mỏng như những cánh chuồn rù rì vẩn vơ trên mặt nước. Nhạc bản tính tục tằn không ngớt lầm bầm trong miệng, quở trách trời đất. Nhạc quở những hạt mưa nhỏ mọn đương vãi xuống khoang thuyền làm hỏng cuộc vui. Lữ không nói gì, chỉ im lặng nhìn những cánh bèo nổi lặng lờ như không muốn trôi, trong ba anh em Lữ là người ít cá tánh nhất. Ánh mắt Lữ, lúc nào cũng phảng phất nghĩ ngợi, một chút buồn, một chút thiền vị vu vơ, chứa mà không chứa đạo Phật. Đợi Lữ leo lên ngồi rồi Huệ mới lấy sức, dẫm chân xuống nước, đẩy xuồng cho xa bờ. Những đám lau lác đác, già nua, xanh điệp, tách dần ra cho đến lúc không còn trông thấy nữa. Nhạc làu bàu hối Huệ bơi ra giữa đầm. Nhạc ngồi ở mũi xuồng, đúng chỗ, đúng vai vị của người con cả. Đầm Thị Nại không biết tự thưở nào mang tâm trạng u uất ui ui trên mặt nước, ngay dưới mưa cũng phẳng lì không gợn sóng. Tiếng động duy nhất phát ra từ mái chèo khoắng nước trong tay Huệ. Huệ cũng ít nói, nhưng không câm lặng như Lữ, chỉ nói những khi cần, cùng những gì đáng nói. Tôi ngắm những bắp cơ trên cánh tay Huệ thong thả nhịp nhàng dầm mái, rồi vạc nước về sau, nhấc lên rồi lại thả xuống, cử động thuần nhất đến độ trông như Huệ không hề chú tâm đến việc bơi xuồng. Nhưng có nhìn vào đôi mắt Huệ thì mới biết Huệ tập trung lắm. Hướng xuồng đi không chệch, không lệch về trái, không thả sang phải, thẳng tắp theo một hướng đi mà Huệ tự chọn lấy.

Mặt nước u tịch, im lìm, chốc chốc lại vang tiếng khạc nhổ của Nhạc. Nhạc mắng Lữ và Huệ chọn đi đâu không đi, ra chỗ buồn tênh. Thái độ gắt gỏng cộc tính của Nhạc, hơn một thói quen, thành thứ nền nếp trong nhà đến độ Lữ và Huệ không buồn chú ý. Suốt buổi đi chơi, ba anh em không ai vãn chuyện. Gần về, Huệ chỉ nói một câu duy nhất:

- Nước ở đầm này bao nhiêu đời không thay, vừa đục, vừa tanh, mai mốt có quyền chức, tôi sẽ cho thay nước.

Nhạc đang ngồi xếp bằng ở mui, nghe Huệ nói, liền khạc thêm đờm xuống đầm, cho là chuyện không đâu. Còn Lữ nói một câu vô thưởng vô phạt:

- Đầm này không sạch bằng cửa sông đổ ra An Nhơn.

Huệ cũng không bằng lòng, gắt:

- An Nhơn cũng không sạch.



Những khi giận, hai tròng đỏ trong mắt Huệ lập lòe lửa, tất cả thần khí dữ dội hiện lên ở đồng tử, nên nhìn rất sợ. Nhạc và Lữ biết rõ tánh Huệ nên im lặng không nói thêm điều gì. Đoạn đường từ đầm về bờ, chỉ còn tiếng mái chèo Huệ sục sạo cắm xuống mặt nước. Sóng xẻ hai bên mạn xuồng, trong ba anh em bao giờ Huệ cũng là người cầm mái, tạo ra sóng.

Lần ra Phú Xuân thứ nhất, trong đời Huệ, có lẽ cũng là lần quan trọng nhất. Phú Xuân ở vào thời điểm đó mang sắc đẹp của một người đàn bà cực kỳ sắc sảo, nhưng đã chung chạ quá nhiều, sau bao nhiêu đời chồng đâm ủ ê, bệ rạc. Song trong đôi mắt của Huệ, xuyên qua cặp mắt của Lữ, trước cái nhìn ham muốn của Nhạc, Phú Xuân giữ nguyên vẹn nét lộng lẫy, thứ lộng lẫy tìm thấy trên yếm gấm viền thêu mà những người con gái ở ấp Tây Sơn, huyện Phù Ly không có để mặc trên mình. Hôm ba anh em Huệ tới Phú Xuân, trời cũng vần mưa, nhưng không phải thứ mưa dông cẩu thả, ít nước nhiều hơi không đủ làm mọc những ruộng lúa phì nhiêu quanh thành Qui Nhơn. Mưa ở Phú Xuân là những váng mưa ngà ngọc, buông như buông trướng, kiêu sa đổ đều lên mái tường thành cung điện của Nguyễn Vương. Nhạc đã trưởng thành, nhưng không bao giờ chững, không đủ sức kềm chế trước vẻ lẳng lơ lộ liểu, da thịt mời gọi của Phú Xuân. Vẫn bản chất tham lam của người đã chọn cho mình nghề biện lại, Nhạc vỗ đùi rồi để bàn tay ở lại tự mân mê như đang sờ nắn chỗ kín của một người đàn bà chốn kinh kỳ:

- Trên đời được làm Nguyễn Vương thì mới đáng sống!

- Anh làm Nguyễn Vương cho tôi một chỗ trong cung, tôi thích dãy lầu nócgiá chiêng phía hữu.

Lữ cảm hứng từ tham vọng của Nhạc, góp ý.

Mưa vẫn ướt mặt ba người. Những hột mưa đài các lạnh lẽo tiếp tục rưới xuống dinh thự nhà Chúa. Song mưa không làm tắt nỗi ánh lửa cháy rập rờn trong đôi mắt Huệ. Tia lửa ngời lên như muốn táp vào mặt Nhạc.

- Sống chỉ ao ước như Nguyễn Vương là một kiếp sống ngu xuẩn. Mà được như Nguyễn Vương cũng chưa phải là tất !

Nhạc quay phắt lại, giận gữ vì bị xúc phạm, nhưng chất cộc cằn thô tục ngồn ngộn trong con người Nhạc chưa kịp phát ra đã chạm phải ngọn lửa nóng bỏng ở đôi mắt Huệ đành nén giọng, chỉ rít qua kẽ răng:

- Thế nào mới không ngu xuẩn, mới gọi là tất ?

- Giết Nguyễn thì được Nguyễn, giết Trịnh được thêm Trịnh, Nam lẫn Bắc Hà mới gọi là Đế !



Buổi trưa ở Phú Xuân, Huệ khơi dậy lần đầu tiên ý niệm vương đế. Ý niệm phải thực hiện để khỏi sống kiếp người ngu xuẩn. Năm đó Huệ chỉ mới mười sáu tuổi, lứa tuổi thật thà và hay ước vọng. Huệ mơ ước, nhưng không đủ thật thà để nói với Nhạc cái người dẹp Nguyễn, diệt Trịnh xưng Đế phải là mình. Sau này khi đã toại ước, Huệ cũng không còn là Huệ ở đầm Thị Nại, ao ước có quyền chức để thay nước đầm đã quá cũ kỹ, nổi rêu xanh. Huệ chỉ nghĩ tới việc giết người để lấy phần người chết. Ở khía cạnh đó thì Huệ vẫn mãi mãi là Huệ. Nhưng có điều Huệ không ngờ ở đất Bắc Hà, có một người cũng nghĩ như Huệ. Song đó lại là chuyện khác.

Tháng sáu năm Bính Ngọ 1786, Thăng Long như bầy heo nái nằm đợi người tới giết. Tâm trạng của vua Lê Hiển Tông trong cung Vạn Thọ là tâm trạng của con heo nái xề suốt bốn mươi bảy năm ở ngôi, chỉ làm nổi một việc là cho thê thiếp lâm bồn hai mươi mốt vị công chúa. Cảnh Trịnh Khải bị thọc tiết ở làng Hạ Lôi, tỉnh Phúc Yên sau khi bại trận thê thảm trước quân Tây Sơn ngay cửa Tây Long, càng làm long thể vua Lê thêm bất an, hoang mang, cực kỳ lo lắng. Trong khuê phòng, Ngọc Hân như lửa cháy. Suốt mấy đêm liền, canh này qua canh khác, Ngọc Hân bồn chồn trong tiếng trống giục điểm canh. Đã đành cái tin Trịnh Khải mất mạng ở làng Hạ Lôi làm nàng thỏa mãn. Ngọc Hân không ngớt bắt kẻ hầu kể đi kể lại chi tiết cảnh Trịnh Khải rút dao tự đâm cổ chết. Máu Trịnh Khải đỏ gấc? đỏ bầm? hay đỏ tươi như thảm điều lót chân cho Khải mỗi lần hắn ghé qua cung Vạn Thọ? Trịnh Khải trong mỗi bữa ăn ở phủ Chúa, khi yến tiệc tàn thường vung tay quát tả hữu:
- Đem mấy cân thịt thừa qua cung Vạn Thọ kẻo lão già chết đói! 
Ngọc Hân nhớ đời những câu mỉa mai ấy. Hai bàn tay nàng bấu chặt lấy tấm màn nhung vì phẫn. Ngọc Hân đã thề độc sẽ rửa mối nhục cho vua cha, nhưng bây giờ Trịnh Khải thác rồi, mà không bởi tay nàng, khiến Ngọc Hân tuy thỏa mãn nhưng chưa hả dạ. Nụ cười trên môi Trịnh Khải, nụ cười mang nốt ruồi dư giật giật mỗi khi chiếc cằm bạnh ra phán lệnh còn sống trong trí não Ngọc Hân. Nàng nghiêng người nắm ghì lấy tay nhũ mẫu, giọng kích động:
- Rồi sao nữa? Máu hắn chảy nhiều không? Hấp hối trong bao lâu? Có rống gào không?
- Bẩm, nghe bảo Chúa đau đớn lắm, lúc chết gào tên "Huệ".
Thoắt cái, Ngọc Hân buông tay nhũ mẫu. Tấm trướng bao phủ đất không che được những nghĩ ngợi rối rắm trong đầu Ngọc Hân chỉ trực trào ra ngoài. Nhũ mẫu nàng vẫn nhắc đến tên con người đã làm kinh thiên động địa đất Bắc Hà. Nguyễn còn, Trịnh còn, thì Lê không phất. Nguyễn vong, Trịnh diệt, nhưng còn Tây Sơn thì Lê cũng mạt. Tất cả bỗng trở nên giản dị trong đầu Ngọc Hân. Nàng với tay lấy tráp phấn son rồi gọi nhũ mẫu đi lấy xiêm áo cho mình.

Năm Bính Ngọ, Ngọc Hân chỉ mới mười sáu tuổi, nhưng mang tất cả nhan sắc của Bắc Hà. Ngọc Hân biết mình đẹp, và biết sắc đẹp là vũ khí duy nhất của người đàn bà. Nàng dồi phấn lên mặt, chăm chỉ chuốt lông mày. Những ngón tay tỉ mỉ kẻ viền mắt, đánh thật sắc khóe mắt vốn đã sắc lịm bén như nước lam nhìn ai thường hớp hồn kẻ đó. Ngọc Hân không vội, chậm rãi dồn hết công phu vào việc trang điểm. Lúc bà nhũ mẫu mang xiêm y tới sau lưng, người bà chợt rợn lên vì hình ảnh lúc ấy trước mặt, không phải hình ảnh điểm trang thông thường, mà là cảnh tượng một người con gái sắp thành đàn bà ngồi đánh mắt như đang mài dao, mải miết cho đến lúc bản thép nhọn, bén ngời.
Ngọc Hân thay áo, thứ hàng lụa mỏng mát rượi chảy mềm trên thân thể nàng. Dăm cánh hoa cúc vàng điểm lăn tăn ở chéo áo như hé mình bung cánh nở đẹp lạ thường ở mỗi bước chân uyển chuyển của Ngọc Hân. Hôm nay Huệ và Chỉnh vào gặp vua Lê. Ngọc Hân quát nhũ mẫu lấy giấy bút cho mình làm vội bài phú để lấy lòng Huệ. Ngọc Hân chấm bút vào mực, nóng nảy viết thoăn thoắt một lúc 164 câu. Trong lúc sơ ý, nàng để ống tay áo nhúng vào liễn mực thấm loang một góc. Đến khi đọc lại đến đoạn mà nay áo vải cờ đào... mới chợt nhận thấy tay áo mình bị ố. Chỗ lụa lấm đen làm nàng khó chịu, toan đi thay, nhưng rồi chợt nghĩ biết đâu chỗ mực lem ấy sẽ làm Huệ cảm động. Ngọc Hân đọc lại bài phú, lời lẽ nhún nhường mà sắc, các thanh chập vào nhau như tiếng dây chuông rung ở cửa lầu phủ Chúa. Huệ là kẻ biền võ, nhưng đọc thì ắt phải xúc động. Đã có tiếng trống hiệu đón người ngựa của Tây Sơn vào cung Vạn Thọ, Ngọc Hân búi lại tóc, tra thêm chiếc trâm cài có nạm ngọc, dấu hiệu của trinh tiết không thể thiếu trong buổi ra mắt đầu tiên. Âm trống chưa dứt và tiếng đập mạnh của trái tim trong lồng ngực làm nàng nghe như tiếng chân Huệ dõng dạc bước lên điện. Cái con người đang nắm vận mệnh Bắc Hà, Ngọc Hân quyết chiếm cho bằng được, trả bất cứ giá nào kể cả bán thân xác. Nhũ mẫu gọi hai tỳ nữ đi theo nàng, lúc ra khỏi khuê phòng, Ngọc Hân không quên đem theo bài phú xếp trong áo.
Hữu đô đốc Tây Sơn Nguyễn Hữu Chỉnh dõng dạc đi lại, điệu bộ của con lang đi theo chấm mút bữa ăn còn sót của hổ. Khuôn mặt Chỉnh dài, cái cằm nhọn, cánh mũi mỏng quá độ dễ làm liên tưởng đến mỏ quạ. Chỉnh nói chuyện nhưng không nhìn Hiển Tông xem như không có. Ngọc Hân vừa giận, vừa thất vọng. Huệ không đến, Chỉnh đi lại một mình bàn chuyện tấn phong Nguyên Súy cho Huệ ở điện Kính Thiên. Vua Lê – con heo già – chỉ biết giương đôi mắt lờ đờ thở ì ạch, tán đồng, thứ công việc mà người ta đãi công bằng chiếc ngai sơn son thếp vàng lâu ngày tróc lở như lên hủi. Xong chuyện, Chỉnh cho vua Lê lui gót rồng, còn lại một mình hắn cười khẩy săm soi sàm sỡ nhìn Ngọc Hân. Khóe miệng Chỉnh khinh khỉnh, khẽ nhếch lên đuổi hết tả hữu ra ngoài, đai áo óp vào rồi phình ra theo nhịp thở có mùi trầu cay bám đỏ ở những kẽ răng Chỉnh mỗi lúc gần sát mặt Ngọc Hân. Chỉnh đưa đẩy mấy câu vu vơ bàn chuyện hôn nhân sắp tới, tia mắt chỉ chực dịp là thả vào ngấn cổ Ngọc Hân để đo lường sắc trắng của da thịt với vải lụa bạch. Ngọc Hân nhìn trừng Chỉnh, nhưng cái thế của nàng chưa cho phép đối đầu với Chỉnh. Chỉnh nắm Ngọc Hân như nắm chuôi dao, muốn chém vào đâu thì chém. Chỉnh xòe một bàn tay trước mặt Ngọc Hân, bàn tay có đeo chiếc nhẫn khảm phượng, phần thưởng thi Hương Cống của vua Lê ban cho Chỉnh lúc xưa.
- Thiên hạ vạn kẻ, nhưng nhân tài ở đất Bắc Hà chỉ một mình ta. Ta về với Tây Sơn, Bắc Hà chỉ là cái đất không !
Chỉnh hầm hè.
Chưa rõ Chỉnh muốn gì, Ngọc Hân nửa muốn bước lùi một bước để tránh hơi thở ám mùi trầu lẫn mùi giềng của gã, nhưng lại sợ Chỉnh khi mình chịu kém, nàng dùng dằng chưa biết tính sao.
Chỉnh lại cất giọng:
- Cuộc hôn nhân này, phú quý vinh hoa chỗ nằm bên cạnh Thượng Công thì chớ quên ta.
Chỉnh vừa nói, bất ngờ chụp lấy vai Ngọc Hân, rồi lợi dụng Ngọc Hân đương bối rối, Chỉnh luồn ngay tay vào trong yếm ghì chặt lấy ngực nàng.
- Buông ra !
Ngọc Hân vùng vẫy, đẩy Chỉnh, cố lùi ra sau nhưng lưng đã chạm bức chắn bình phong. Vừa hổ ngươi, vừa nhục, Ngọc Hân vung tay tát trái Chỉnh. Song Chỉnh phản ứng bằng tất cả nhanh nhẹn tốc chiến của thủy quân Tây Sơn, bẻ quặt lấy tay nàng.
- Tri hô cầu cứu đi! Để cho Thăng Long rõ cái nhục của cung Vạn Thọ!
Chỉnh chồm người, gầm gừ, đầy đắc thắng, bàn tay vẫn luồn trong yếm đào, vừa mân mê, vừa đe dọa. Thư phòng vắng người, như tất cả đang đồng lõa với Chỉnh. Một bức hoành phi sau lưng Chỉnh chạm lộng đôi Giao Long đang cấu xé nhau như hoạt cảnh diễn ra. Ngọc Hân giận tím mặt. Bàn tay Chỉnh đọng mồ hôi ẩm ướt trên da thịt khiến nàng lợm giọng. Ở người con gái khác sẽ là mối nhục ngàn đời đưa đến tự vẫn, nhưng với Ngọc Hân đó là lối xử ngu xuẩn. Máu nóng dồn lên làm đôi mắt nàng vốn sắc sảo càng thêm sắc. Tia mắt Ngọc Hân dữ dội đến độ, đương suồng sả, Chỉnh lặng đi, choáng người, phải rút vội tay. Ngọn lửa đằng đằng sát khí trong mắt Ngọc Hân, Chỉnh đã trông thấy nhiều lần trong đôi mắt Huệ. Đôi mắt của kẻ hiếu sát, đã quả quyết làm gì là làm cho đến cùng. Châu thân Chỉnh lạnh toát, mồ hôi bất ngờ vả ra ở sống lưng. Ánh mắt đương cháy lập lòe của Ngọc Hân rõ ràng là ánh mắt của Huệ, cái nhìn trừng phạt của Huệ trước cảnh hành quyết. Lần vào Gia Định tàn sát tập thể cácchú khách, Huệ đã nhìn những xác người Minh Hương bằng cặp mắt của Ngọc Hân đang nhìn Chỉnh lúc này. Chỉnh cảm thấy khó chịu, khô ở đầu lưỡi, gượng gạo sửa lại đai áo. Ngọc Hân tiếp tục nhìn trừng trừng cho tới lúc Chỉnh phải quày quả bỏ ra. Ngọn gió luồn từ cánh cửa Chỉnh không khép thổi lùa thốc qua gian phòng. Những lá thế kỳ, cườm hoa mừng chiến thắng Tây Sơn diệt Trịnh treo khắp nhà như cung Vạn Thọ đang có lễ tang. Khuôn mặt Ngọc Hân vẫn tím xanh vì giận dữ. Nếp vải xổ ở ngực áo như còn bày năm dấu tay Chỉnh in trên mình nàng. Ý nghĩ căm ghét quan lính Tây Sơn càng tăng trong đầu Ngọc Hân. Đến lúc nắng xếch qua riềm cửa, rọi lòe khóm trúc trồng ở chậu đồng, Ngọc Hân mới bỏ vào trong, nhưng bàn tay Chỉnh cũng đã theo nàng vào khuê phòng.
Suốt trưa đó, Ngọc Hân bứt rứt, khó chịu, ý nghĩ có mối thù chưa trả làm nàng như đứng trên giàn hỏa. Đến chiều, bức bối không sao chịu nổi, Ngọc Hân sai thị tỳ cùng nô tài khiêng kiệu đưa nàng ra cửa Tuyên Vũ xem bêu xác Trịnh Khải. Tất cả những uất ức của Ngọc Hân như được trút ra khi trông thấy thủ cấp nhà Chúa. Đầu mắc một nơi, xác phanh một góc. Cả xác của Nguyễn Noãn gia thần Trịnh Khải và Đỗ Thế Long bị quy phản dìm chết ở sông Phú Lương cũng được vớt về căng lên cho mọi người làm gương. Ngọc Hân nhìn ngắm chăm chăm từng nét mặt của Trịnh Khải, từ cặp mắt trợn ngược, nốt ruồi dư mà lúc sinh tiền Khải thường hay vân vê, đến lỗ dao sâu hoắm ở cổ họng và những sợi gân còn vướng mắc đong đưa lòng thòng bên dưới. Ngọc Hân cảm thấy hả dạ, cúi xuống lần lần khăn san cầm ở tay ra vẻ xúc động, nhưng kỳ thực là để che dấu nụ cười thỏa mãn, cực sung sướng. Lần đầu tiên nàng khám phá ra hiệu quả của những xác chết có thể giải bày mọi uất ức trong người mình. Ngọc Hân lấy móng tay vẽ mơ màng lên khăn tay. Hai gã nô tài đợi lâu, dợm chân định đưa kiệu về, Ngọc Hân đã ngửng phắt lên bắt ngừng, để nàng được dịp ngắm Trịnh Khải cho thỏa thích. Nhưng lần này ở chỗ móc xác Trịnh Khải, Ngọc Hân mường tượng ra thủ cấp của Chỉnh.

Đám cưới của Huệ sau chiến thắng vang dội được xem là một ngày trọng thể. Trong phủ Chúa, binh lính Tây Sơn tạm đóng đại bản doanh, người con rể của Thăng Long đi lại với tất cả dáng vẻ của một con hổ sau bữa tiệc hoẵng. Huệ ở thời kỳ này đã khác xa Huệ của Thị Nại, hay Huệ của Phú Xuân. Trong phủ Chúa, chốn sang trọng lộng lẫy nhất Thăng Long từng mảng da beo lớn trải làm thảm lót chân, Huệ đi lại trên đó và khạc nhổ cũng trên đó. Những tấm khiên lớn bằng đồng bóng loáng soi khuôn mặt Huệ đỏ sần lên vì rượu. Tả đô đốc Vũ Văn Nhậm nhắc:
- Sắp tới giờ, Thượng Công nên đi rước dâu.
Huệ đang dùng đoản đao bổ đôi quả cau, quẹt vôi rồi ăn sống, buông đao, ngửng lên nhìn Nhậm. Huệ thấy Nhậm y như lời Chỉnh thường rỉ tai: Vũ Văn Nhậm hữu dõng vô mưu, đầu óc trống trải, tựa một cánh đồng khô, không hoa, không lúa. Huệ gắt:
- Ta dẫn mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, lão già họ Lê, dòng họ, ngai vàng lão thuộc về ta như trâu bò, đất đai, người ngợm của Bắc Hà. Việc gì phải đi đón! Đem con nộp thì ta lấy!
Chỉnh từ nãy ngồi ở ghế trường kỷ, không ngớt rót rượu cho Huệ, nghe Nhậm bị mắng, khẽ nhếch môi nhưng không cười. Chỉnh vươn tay bẻ một nụ vạn thọ cắm vàng hoe trong lọ độc bình.
- Ý của Tả đô đốc là muốn Thượng Công giữ tiếng. Bề ngoài mình vẫn mang danh nghĩa phù Lê. Sá gì cái chức Nguyên Súy, Dực Chính Phù Vận Uy Quốc Công. Ngai vàng của Hiển Tông, Thượng Công muốn ngồi lúc nào bọn tôi cũng kéo sẵn!
Mấy lời của Chỉnh làm đẹp lòng Huệ. Đang bẳn gắt, Huệ trở ra vui. Lại dùng đoản đao chém cổ bầu rượu. Hiểu lòng Huệ như Chỉnh, thiên hạ không có mấy người, kể cả Ngô Thì Nhậm sau này khi Huệ ra Bắc lần thứ nhì thu phục được. Vui vẻ nên Huệ trở nên hào phóng, trở lại trướng ngồi.
Sau lưng Huệ là một tấm cờ đào to bản vẽ chính giữa một chữ "Tâm" thật lớn. Huệ vẫn hãnh diện về cách đãi người của mình, không "Dũng", không "Mưu", nhưng chính cái "Tâm" mà Huệ tự nhận là thiên tài lớn. Quân Tây Sơn đi đến đâu, Huệ cấm không được tơ hào, nhưng dân các vùng phải nuôi ăn và cúng góp. Huệ sai Nhậm:
- Thằng Chỉnh nói hợp ý ta. Ngươi xuất kho hai trăm lạng vàng, hai nghìn lạng bạc, hai chục tấm đoạn mang sang cung Vạn Thọ, nói là của ta thí cho!
- Lễ vật cầu hôn của Thượng Công dâng lên Hiến Tông.
Chỉnh chữa lại.
Nhậm từ nãy nóng bừng mặt vì mấy lời bàn của Chỉnh, nhưng vốn chậm chạp, còn lúng túng chưa kiếm được cách "phóng trả lao", thì Huệ đã giục:
- Thằng chết bầm! Còn đứng đó!
Nhậm vội vã cúi chào lãnh mệnh đi. Nhậm đi khuất, chất hào phóng trong người Huệ cũng tan đi. Huệ đâm tiếc của, nhưng ngại nói ra mất mặt trước bề tôi, đành hỏi vờ:
- Ta xuất kho nhiều như thế, liệu đủ chăng?
- Thấm vào đâu!

Chỉnh vẫn vân vê nụ vạn thọ, trả lời. Những cánh vàng mềm mềm áp trong tay khiến Chỉnh vụt nhớ tới Ngọc Hân, nhớ sắc đẹp mê hồn mà sắc sảo, Chỉnh lỡ đụng vào đứt tay, vết thương không khép miệng. Tự nhiên Chỉnh ghen tức với Huệ, vò nát nụ vạn thọ, mỉa:
- Dân Bắc Hà chăm cúng góp. Thượng Công muốn bao nhiêu trong kho cũng có!
Nhưng Huệ không hiểu thâm ý, mãn nguyện ngả người lên bệ Chúa. Cuối tháng sáu, tiết trời Thăng Long đã chực bước sang tháng bảy nên hầm bức. Huệ cởi hẳn chiến bào nằm duỗi người dang vai như dáng nằm của loài hổ chùi mình trên cỏ trước cơn rượn đực. Chỉnh biết ý Huệ không còn muốn tiếp chuyện, lẳng lặng bỏ về. Những cánh vạn thọ còn dính ở kẽ tay khiến lòng Chỉnh bâng khuâng, vừa tiếc Ngọc Hân, nửa giận Huệ. Mưu phản ngấm ngầm từ lúc đó.

Đêm hợp cẩn của Ngọc Hân, mưa xé qua rèm trướng phủ Chúa. Tất cả hầm bức của ban ngày nổ tung xuống nóc lầu Tử Các. Trước đây là chỗ riêng của Trịnh Cẩn. Tiếng sấm dậy vạch chớp những đường dài lòe rực nơi ô cửa. Tâm thần Ngọc Hân dao động theo dông bão trộn lẫn những bối rối lo lắng tìm cách khuất phục Huệ. Nằm một mình trên chiếc giường của Trịnh Cẩn, Ngọc Hân không ngớt nghĩ ngợi tới những người con gái đã vào nằm trong lòng giường này. Từ thời Trịnh Tùng Bình An Vương đến Tôn Đô Vương là Trịnh Cán, tính ra tất cả chín đời Chúa, hai trăm mười ba năm ròng rã. Bao nhiêu người con gái tan xương nát thịt dưới mình Chúa? Bây giờ tới phiên Ngọc Hân. Nếu không là Huệ, thì trước sau nàng cũng phải thất thân với Trịnh Khải. Trước sau Ngọc Hân cũng phải trao thân cho kẻ nắm quyền ở Bắc Hà, như cánh cửa ải phải đi qua. Việc quan trọng là sau khi qua ải, phải làm thế nào để khôi phục vương triều Lê. Ngọc Hân cắn môi, day trở một lúc rồi không nằm được nữa, những kèo cột chống rường và thượng lương chống đỡ nóc lầu như cứ muốn ngã vật đè lên đầu nàng. Ngọc Hân bực bỏ ngồi dậy, xoay mặt vào vách đợi Huệ.

Đêm khuya lắm. Tiếng trống kéo dài thõng thượt chạy xoáy qua khắp hành lang. Huệ vẫn còn ngồi uống với bọn Chỉnh, Nhậm. Uống theo kiểu Tây Sơn, từng cối, từng thau, khi uống vục mặt vào chậu cho ướt hết tóc tai. Rượu là thứ rượu đế của làng Vân ngoại thành Thăng Long cay xè lưỡi, nhưng xuống đến cổ thì ngọt lừ hương vị của men rượu hạ thổ như đưa hết âm khí của đất Bắc Hà vào mình, khiến bao nhiêu nước trong người Huệ theo mồ hôi xuất hạn đầm đìa, như muốn dành chỗ để chứa rượu. Uống đến thau chót, Nhậm đã say lắm, nhưng còn sực nhớ điều gì, khuyên Huệ:
- Lầu Tử Các ngày xưa là chỗ ở của Trịnh Cán, làm Chúa chưa đầy hai tháng thì bị truất, Thượng Công hợp cẩn ở đó không nên!
- Thượng Công oai vũ uy dũng, cho sống thì sống, bắt chết phải chết, cớ sao phải sợ?
Chỉnh ngà say, nhưng cũng cất giọng, theo thói tật hễ Nhậm bàn điều gì thì Chỉnh phải bác đi. Huệ lừ lừ dốc hết thau rượu, rồi đứng lên, hai ngọn lửa trong mắt vẫn không suy suyển, rượu chỉ làm sức cháy phừng lên mãnh liệt hơn.
- Đạo làm tướng không biết sợ! Chỉ có mệnh trời mới hại được ta!
Huệ tiện tay lật bàn. Chỉnh và Nhậm ngã chúi xuống nền nhà. Nhậm nhằm cơn, ói mửa tung tóe. Chỉnh vừa lấy tay lau mặt, vừa gạt chén đĩa thau chậu quanh mình, nhìn Huệ hậm hực cố gượng dậy. Song Huệ đã lừng lững bỏ đi. Ánh đèn lồng treo ở xà thượng, về khuya, vắt lên lưng Huệ những vằn vện của cột mái trông như tấm lưng hổ đi kiếm mồi.
Lúc Huệ dẫm chân lên thang lầu Tử Các, mùi xạ hương tẩm trong chăn gối bỗng tan mất nhường cho hơi rượu nồng nặc. Chưa trông thấy, nhưng Ngọc Hân biết ngay Huệ đến. Nàng xoay mặt đợi, hơi nép vào tấm màn thêu quanh giường. Đã chuẩn bị sẵn, nhưng lúc Huệ đẩy cánh cửa gỗ nặng nề chạm long ly qui phượng, rồi giật mạnh tấm màn gấm che ngoài, Ngọc Hân cũng thót người sợ hãi. Tia lửa lập lòe từ mắt Huệ cháy rờn rợn như muốn đốt nàng. Huệ quả như lời đồn đãi, vai to bè hơn vai tê giác, mặt vuông ván gỗ. Huệ cất tiếng nói. Giọng ồ ồ vỡ ra như tiếng thác đổ vào giữa khuya. Huệ nói gì, Ngọc Hân không hiểu, hơi rượu ngập ngụa kèm theo chữ mất chữ còn phát ra từ thân hình quá đẫy đà chỉ chực đổ xuống. Giọng vỡ của Huệ làm Ngọc Hân nhớ tới lời đồn, trước đây giọng Huệ thanh, từ khi kéo quân ra Rạch Gầm đánh quân Xiêm tự nhiên mất giọng, tiếng bể như tiếng rạch nước đổ xuống trũng sâu. Dân dã bảo là điềm trời không thuận cho Huệ diệt Nguyễn Ánh. Ngọc Hân níu lấy vải mền, bao nhiêu quả quyết như tan vụn trước mặt Huệ. Nhưng Ngọc Hân không muốn bị khuất phục, không muốn Huệ cưỡng chiếm mình như cưỡng chiếm dinh thự, trâu bò của Bắc Hà. Nàng nhìn trừng trừng Huệ. Cái nhìn của con thú sắp bị cắt tiết. Cái nhìn của Ngọc Hân có thể làm chùn tay Chỉnh, nhưng với Huệ - uy - vũ - dũng - cái nhìn chỉ làm cho Huệ đang say bỗng sôi gan. Huệ chụp lấy ngực áo cưới của Ngọc Hân xé toạc. Bằng hành động của con mãnh thú, Huệ xô ngã sấp Ngọc Hân ra giường, tháo dây đai quật xối xả lên tấm lưng mảnh dẻ tưởng như giải lụa bạch đang oằn mình chịu đòn. Huệ quất như thúc voi, thúc ngựa, tiếng roi đánh chát chúa tóe lửa vun vút cuồng nộ. Rồi không kềm chế được, như Nguyễn Nhạc ngày xưa mất tự chủ trước da thịt mời gọi của Phú Xuân, Huệ đè ngửa lên biểu tượng trinh trắng của Thăng Long. Những bắp cơ Huệ còn nhớp nháp mồ hôi quấn lấy mình Ngọc Hân đang nghiến chặt răng chịu đựng. Huệ vục xuống gáy Ngọc Hân cắn như xé thịt. Dáng đè của Huệ, hai đùi chống xuống giường, mình trần phủ lên người Ngọc Hân y như dáng hổ đang ngoạm hoãng. Đến lúc Huệ bắt Ngọc Hân co hai đầu gối, thì nàng quá đau đớn không dằn được, bật tiếng kêu nấc trong đêm tối. Huệ nghe tiếng nấc, khoái cảm càng tăng lên như những lúc chứng kiến hành quyết. Đao phủ Tây Sơn xử trảm bằng cách chém ngửa nghịch nhân, mã tấu phập xuống tiếng thét của tội đồ bị đứt ngang ở cuống họng chỉ phát ra được tiếng nấc khô. Tiếng nấc khô của Ngọc Hân lúc nãy.
Mùi mỡ trong đèn chai cháy èo uột ngọn lửa lúc tối lúc sáng, căn phòng của Trịnh Cán đóng xong vai trò lịch sử rơi chìm vào giấc ngủ đẫm mùi rượu đế của Huệ. Cơn dông chùng xuống sau gần suốt đêm quất qua lầu Tử Các. Những hạt mưa gai sắc như muốn trổ mái bắn xuống mình Ngọc Hân ẩm ướt, tủi hổ. Lúc cơn mưa tạnh hẳn, bóng trăng bắt đầu lấp ló, chạy ngang trên trục xà hạ, thì Ngọc Hân không còn thấy đau đớn, chỉ trông rõ xác Huệ bị bêu ở cửa Tuyên Vũ. Thói đời phong kiến, nợ máu phải trả bằng máu. Ngọc Hân chấm tay vào giọt máu còn rỉ ra ở bụng mình, đưa lên môi, máu của họ Lê phải trả bằng máu của Tây Sơn.
Lúc tôi ra Thăng Long, tiết trời tháng bảy nặng nề lắm. Những cánh lá bàng to như xác trâu mộng, rụng ì ạch xuống kinh thành đã cũ mục, dậy mùi cũ kỹ, từ triều đại đến máu huyết. Huệ đợi tôi ở phủ Chúa, Huệ hơi ngượng, tia mắt dữ dội của Huệ nhìn lên tấm vải cờ đào vẽ chữ "Tâm". Nhưng rồi như nhận ra chữ "Tâm" không đúng với lối hành xử của mình, Huệ lại nhìn xuống ngón chân bị dập từ thuở thiếu thời, máu bầm làm đen móng. Trong thiên hạ, có lẽ chỉ mình tôi là Huệ không dám hành xử chữ "Tâm", dùng ngọn lửa của đôi mắt để đốt… Huệ sai Nhậm lấy rượu ra uống. Tôi cùng uống thố rượu mời của Huệ. Giống như thời ở Qui Nhơn, hết thố này qua thố khác, hết chậu này sang chậu khác, bao giờ Huệ cũng say trước tôi. Tôi được trời phú cho khả năng ngậm rượu. Rượu tôi uống vào, bao nhiêu cũng chảy sang mình Huệ. Làm như thân thể cả hai nối với nhau bằng một sợi giây vô hình. Uống một lát, rồi Huệ quát đuổi Nhậm và Chỉnh ra. Phủ Chúa lộng lẫy mà lạnh lẽo sự lẻ loi cô độc của Huệ. Tôi nhắc chuyện Nhạc ở Qui Nhơn không bằng lòng việc Huệ tự ý ra Bắc. Thái Đức sắp kéo binh ra. Nhưng Huệ thờ ơ lắm, không để tâm, hay không xem Nhạc ra gì. Nhìn mấy bông vạn thọ cắm vụng về trong lọ, tôi hỏi Huệ:
- Phủ Nguyên Súy sao chưng thứ bông quê mùa này? Đất Bắc Hà không thiếu hoa đẹp, hồng gai, phong lan, thủy tiên, hoa loa đỏ...
- Ta không biết thưởng hoa !
Huệ lắc đầu, chán chường đáp. Rồi không dằn được, trong vật vã của cơn say, Huệ kể hằng đêm phải lôi Ngọc Hân ra đánh mới thỏa mãn. Khuôn mặt Huệ lúc đó đau khổ lắm. Huệ lại kể hôm giữa tháng bảy, "con heo già" mất, Hoàng Tôn Lê Duy Kỳ lên ở ngôi. Ý Huệ không thuận, bởi Huệ muốn ngồi trên ngôi báu đó, nhưng lòng dân chưa ngã ngũ. Lễ Thành Phục Huệ đưa Ngọc Hân về lãnh tang, trước linh sàng Hiển Tông, Huệ nóng nảy sai Nhậm chém một viên Tả Phiên triều Lê, chỉ bởi hắn dám cười cách đọc điếu văn của Huệ. Lúc chém: Nhậm cằm đao chém ngửa, máu bắn cả vào ỷ Hiển Tông đặt trên linh sàng nơi cửa Đông. Thủ cấp Huệ sai bỏ trên mâm bạc đặt lên áo quan vua làm kinh động khắp thành. Thân nhân người có tội hay biết, chạy đến cửa cung kêu khóc. Huệ cũng sai chém. Tính ra lúc động quan, chém cả thảy mười bảy người. Càng kể, hai mắt Huệ càng ngầu đỏ vẩn đục. Huệ ngồi trên một chiếc rương to, hai người ôm không hết. Như muốn cởi hết tâm sự lòng, Huệ đứng dậy, chậm rãi mở rương, bên trong chồng chất từng xấp phướng. Từ trong chiếc rương hòm như bốc lên cả một khối chì chiết. Lá phướng dài dằng dặc chép đen nghịt tên tuổi những người Huệ đã đích thân sai chém. Có đến cả trăm, đó là chưa kể những người do quan lính Tây Sơn tự ý giết. Huệ lần giở, lá phướng di chuyển rơi thõng xuống rương, rơi đến đâu tên tuổi người chết bật ra đến đó. Đến phần phướng trắng, Huệ dừng lại. Cả mình mẩy tôi đều rợn lên vì ở phần phướng còn trống, Huệ đã nối sẵn, dài gấp năm sáu lần lá phướng đã chép. Và cái tên cuối cùng được ghi sẵn là hai chữ rắn rỏi: Nguyễn Nhạc!
Không khí trong phủ Chúa lúc đó nặng nề, u uẩn không sao thở được. Người tôi khô đi vì sợ. Huệ đã nghĩ đến việc khử Nhạc. Tấm bản đồ Huệ cho vẽ treo cạnh đầu hổ, phía Tây vẽ hết biên giới Tiêm La, phía Bắc lên hết vùng Lưỡng Quảng, còn phía Nam qua khỏi Vĩnh Trấn chấm biển. Gió đẩy tấm bản đồ lắc lơ, như nhắc nhủ những tham vọng của Huệ. Những tham vọng đã vượt xa ngày đầu tiên lên Phú Xuân. Lúc đó Huệ chỉ nghĩ tớiNam, Bắc Hà, bây giờ ngọn lửa trong đôi mắt Huệ cháy lan đến những vùng khác. Nơi nào có đất, có người, thì coi như của Huệ. Huệ đã thay đổi, chỉ có Nguyễn Nhạc còn bằng lòng mãi với chiếc ngai của Nguyễn Vương. Lần ở phủ Chúa, là lần duy nhất Huệ thố lộ tâm sự với tôi nhiều như vậy. Ở đầm Thị Nại, Huệ chỉ mở miệng một hai câu, phơi cả lòng mình cất trong rương là quá nhiều. Nên Huệ trở ngay lại với tính bẳn gắt. Khạc nhổ, lầm bầm chửi rủa, đóng mạnh rương, rồi trở ra bàn gục mặt vào thau rượu. Huệ uống tới lúc ngủ quên trong thau. Tôi đỡ Huệ dậy, dìu đặt nằm ở bệ Chúa. Từng cánh vạn thọ vàng rụng rây rắc xuống lồng ngực Huệ, thở đều đặn nhịp sống của đất nước. Buổi trưa xác xao đến độ buồn tẻ, tiếng ngựa hí, tiếng trống dồn binh không có, vắng lặng tẻ nhạt, chỉ lâu lâu mới có tiếng quân cờ Chỉnh và Nhậm đang đánh, đập lẻ tẻ ngoài mặt phản.
Tôi đứng một mình một lúc không biết làm gì, lần ra Bắc này gặp Huệ sao tôi không được vui, lòng cứ phân vân vì những biến chuyển nội tại đang xảy ra. Tên Nhạc chép trên lá phướng như một vết dao cắt ruột. Lương tri tôi khổ sở nghĩ ngợi, bỏ mặc Huệ hành xử chữ "Tâm" với Nhạc sẽ là vết nhơ muôn đời. Nghĩ tới lui không được kế gì, tôi đành bỏ ra xem Chỉnh và Nhậm đánh cờ.
Thế cờ của Chỉnh sáng lắm, linh hoạt, xảo quyệt, quyền biến. Đôi mã giao chân xấn xổ tạt bên hữu, nhảy bên tả, áp đảo Nhậm trông thấy. Ở ngoài nhìn thì Nhậm có vẻ lúng túng, xoay trở chậm chạp. Công không ồ ạt, chỉ lo thủ, xây đắp tường thành, bẫy Tượng, gểnh Sĩ. Chẳng mấy chốc Chỉnh đã xua hết quân sang sông. Cống Chỉnh đánh cờ bằng phong thái tự tin của mình ngày xưa đi thi Hương Cống, tin ở tài biện luận xuất chúng, trước sau thì Chỉnh cũng đỗ. Nhưng đánh càng lâu, thế cờ càng đổi khác. Nhậm nếu chậm chạp, nhưng một khi đã làm xong hết những công việc chậm chạp của mình thì trở thành một pháo đài kiên cố. Quân Nhậm còn đủ Sĩ Tượng, năm Chốt giàn đồng, hai Pháo Thần Công, trong lúc Chỉnh chỉ còn độc mỗi một mình một ngựa. Chỉnh lùi mã về Bắc, hy vọng cố thủ, nhưng cung vua đã mất hết Sĩ Tượng, thế trận của Chỉnh trống trải, toang hoác, Nhậm muốn vào ra lúc nào tùy ý. Kết cuộc ván cờ không có gì lạ, Nhậm kiêu hãnh trong lúc Chỉnh bực bội.
Tôi đứng im theo dõi, ván cờ định mệnh, muốn bàn với Chỉnh, Nhậm khuyên Huệ đừng giết Nhạc, tránh cảnh nồi da sáo thịt. Song nhìn khuôn mặt họ, cằm nhọn lưỡi cày của Chỉnh, vai u thịt bắp nồn nận ở Nhậm, tôi hiểu họ không có giá trị gì đối với Huệ. Cái người khuyên Huệ đãi chữ "Tâm" đích thực với Nhạc, chỉ có thể là tôi, vào lúc thời cơ thuận tiện nhất.
Chỉnh và Nhậm còn đang tranh cãi, Chỉnh đòi bày lại cờ, Nhậm dứt khoát tuyên bố mình đã thắng Chỉnh, cờ soái về tay, cả hai không ngờ Huệ đã thức giấc từ lúc nào. Huệ đưa tay chụp bắt quân Tướng của Nhậm, cả bọn mới đực ra rồi vội vã cúi chào. Vẻ mặt Huệ lúc đó, không còn biểu hiện thành thật nào nữa, Huệ đã ra khỏi trạng thái tâm sự với tôi lúc nãy, trở lại nguyên vẹn vai trò Chúa Tây Sơn.
- Đất Đại Việt chỉ có một chủ !
Huệ quát bằng giọng Rạch Gầm, bốn ngón cái và trỏ bẻ đôi quân Tướng của Nhậm.
Đêm ở phủ Chúa, Huệ bước chân lên lầu Tử Các, lòng âm ỉ cơn say. Sống với Huệ hơn ba tháng, Ngọc Hân đã biết những thói quen chung chạ của Huệ. Thứ thói quen của chứng bệnh thường thấy đi kèm với bệnh cuồng sát. Lẳng lặng, tự nguyện, không đợi Huệ bắt, nàng cởi xiêm áo đến quỳ trước chân giường. Cái liếc mắt của Ngọc Hân ném về phía Huệ sắc đến nổi gai. Huệ lấy roi, không phải dây đai của đêm hợp cẩn, mà là thứ roi gai của quản tượng dùng quất voi khi lâm trận. Ngọc Hân uốn lưng đợi, tóc xoã chảy xuống nền đá, không trang sức, không cả chiếc vòng cổ truyền của con gái Bắc Hà, chỉ một dấu thẹo đỏ do sắt nung ở vai. Vết thẹo đã lên da non nhưng đoán được dấu tỉ ấn của Huệ. Hai ba tấm màn gấm dụ buông quanh chỗ Ngọc Hân quỳ, Huệ tiến tới một bước, hai bước, rồi vung tay quất. Đầu roi vút tiếng rít như rạch rách tấm màn gấm. Ngọc Hân oằn người bấu cứng lấy trụ giường. Huệ đã say máu, những chấm máu li ti tím bầm nổi trên lưng Ngọc Hân trông như vệt ong đốt, hay những giọt mực son rỏ lên vũng sữa, Huệ vung tay tới tấp.
Khác với đêm hợp cẩn, Ngọc Hân rên rỉ, oằn oại kêu rất lớn. Nhưng nếu Ngọc Hân đau đớn, thì nỗi đau đớn đầy đắc thắng. Huệ quất roi như một kẻ suốt đời hành nghề tra tấn, không được đánh người thì không biết phải làm gì. Huệ bị ràng buộc vào người đàn bà mà mãi mãi từ đây, hằng đêm Huệ phải tìm đến. Khuôn mặt Huệ toát ra vẻ mãn nguyện, thỏa mãn. Huệ chỉ buông roi khi Ngọc Hân đã ngã khụy dưới chân giường. Cảnh giao hoan của Huệ với Ngọc Hân, cũng không còn là cảnh cưỡng bức ban đầu, nếu dáng ngồi đè của Huệ vẫn in dáng hổ nhai mồi, thì hai cườm tay Ngọc Hân đã quấn chặt lấy cổ Huệ, và trên lưng Huệ đầy những vết cào của một con sư tử cái.

Tôi chơi với Hân từ thuở bé. Từ thuở Hân còn ưa chơi ô quan trong sân cung Vạn Thọ. Bao giờ tôi cũng về phe Hân. Vua Lê có hai mươi mốt vị công chúa, họ thường nhiếc tôi là cái đuôi của Hân. Tôi với Hân như đôi bạn, chẳng vậy mà ngày xuất giá, Hân chỉ mang theo mình tôi để hầu cận, người nhũ mẫu nuôi Hân từ thuở lọt lòng, Hân cũng không thiết. Hân mặc bộ áo lụa có thêu bông cúc, thân áo mềm như cuống hoa hải đường chỉ nở một lần rồi chết. Tôi lấy thau nước cho Hân rửa mặt. Nhìn khuôn mặt đẹp, mà nét mày não nùng, tôi không khỏi xúc động. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao người xưa nói: hôn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù ! Đất đai ở Bắc Hà này là của họ Lê, Hân tin như mấy đời nhà Lê tin vào mệnh trời, thế nước có hưng thì cũng có suy, nhưng bản mệnh họ Lê là trị vì trăm họ. Hân lấy gương lược chải lại tóc, lúc cong tay búi tó, Hân chợt chú ý chỗ ống tay áo mình lấm mực. Hân thõng tay nghĩ ngợi, rồi quay phắt lại hỏi tôi:
- Bài phú hôm nọ còn giữ không ?
- Bẩm còn.
- Đưa đây !
Hân hơi gắt, mỗi lần mưu tính chuyện gì, Hân thường trở nên nóng nảy. Tôi hấp tấp chạy tìm lục trong số rương hòm vật dụng của Hân mang theo sang phủ Chúa. Mấy chiếc hài cườm, dăm cây quạt bông, một tập Chinh Phụ Ngâm ép ở giữa là bài phú. Hân sai tôi lấy bút, mài mực ra liễn. Hân đọc suốt lại 164 câu, rồi chữa, bỏ những đoạn mừng Tây Sơn vào Thăng Long, vẫn giữ nguyên những đoạn kể chiến công, chỉ thêm thắt chữa lại cho bài phú trở thành bài văn tế Huệ. Hân bảo tôi đè giấy, để mình ghi tựa. Ba chữ "Ai Tư Vãn" sắc như dao khắc trên mặt gỗ. Nhẩm đi nhẩm lại, Hân nói với tôi vẫn câu "Mà nay áo vải cờ đào" là hay hơn cả. Không nói ra, nhưng nhìn đôi môi khinh bỉ, tôi hiểu Hân muốn ám chỉ ba anh em Huệ xuất thân dân dã, đầu đường xó chợ nhờ vận may mà có quyền bính, chứ không thuộc dòng dõi quý tộc vương đế chính thống lâu đời như Hân. Âm hưởng của bài tế não lòng làm tôi rợn.
- Phu nhân viết chi những lời ai oán. Thượng Công đã mệnh một đâu?
- Rồi sẽ mệnh một! Viết sẵn sau này sẽ có dịp dùng!

Hân đập mạnh tay xuống mặt bàn, rồi như sực nhớ ra điều gì, cầm lại bút, nhúng mực nắn nót đề ở cuối bài tế ba chữ: Lê Ngọc Hân. Hình như Hân do dự một giây rồi mới hạ bút quả quyết thêm vào hai chữ: Công Chúa. Không phải Nguyên Súy phu nhân, nhưng mãi mãi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, không bao giờ là người của Tây Sơn. Làm xong bài tế, Hân có vẻ vui thích lắm. Ánh mắt long lanh như buổi trưa cùng tôi đứng ở Nghênh Phong Lầu nhìn xuống sân phủ, đám vệ sĩ của Huệ loay hoay trui nướng cóc. Mùi cóc nướng, mùi thịt ướp sả, khói than, mồ hôi, da thịt trai tráng nồng nặc cả bao lơn. Trong bọn có gã vệ sĩ riêng của Huệ, người đen như cột đình, to lớn, kềnh càng chẳng khác một con khổng tượng. Gã vệ sĩ "cột đình" nắm hai chân sau cóc xé toạc nhai nhồm nhoàm, vừa ăn vừa lấy đoản côn đánh thùng thùng vào tấm khiên lớn đeo ở vai. Tấm thớt lưng săn chắc hung đỏ như thứ đồng dùng đúc lư, tưởng đứng đâu là chôn vững vàng xuống mặt đất vậy mà bất ngờ đổ kềnh, ngã nhào chúi sấp người đập mặt vào bếp lửa. Cái "cột đình" dẫy lên, hai tay co giật, hai chân đạp đạp như đôi chân của loài ếch. Gã trợn ngược mắt, xủi bọt ở mép rồi đứng tròng. Cả đám lính xô vội vỉ cóc đang nướng chảy mỡ, rùng rùng kéo chạy. Quang cảnh diễn ra thật gấp. Hân bấm mạnh tay tôi như khám phá ra điều gì. Miếng mật cóc đắng gã "cột đình" ăn phải, không ngờ ám ảnh Hân. Khi rỗi ngồi một mình, Hân thường ấp tay lên tay tôi, nhắc lại chuyện mật cóc ấy. Con khổng tượng, con thú lớn nhất của loài thú cũng có thể bị giết bởi thứ mật của con vật bé nhỏ nhất.
Tôi kéo tay Hân, rủ ra ngoài bao lơn. Lầu Tử Các vắng lặng, trống trải, từng lớp bụi bay mờ trong nắng. Lá trúc rắc đầy bực tam cấp. Hân ngồi xuống bên cạnh tôi, lúc nãy sắc sảo linh hoạt bao nhiêu, bây giờ thẫn thờ như mất hồn. Hân sống như người bệnh trí từ hôm về ở với Huệ. Đêm đêm chứng kiến cảnh Hân chịu đòn, tâm thần tôi tan nát. Tôi thân thiết với Hân như hai chị em song sinh, cùng cha, cùng mẹ, cùng một nỗi lòng con gái mới lớn, kê vai lãnh trọng trách trung hưng nhà Lê chẳng khác đội đá vá trời. Ngày mai Thái Đức đưa quân vào thành, rồi Huệ chuyển quân vềNam. Từ nhỏ tôi với Hân chưa bao giờ rời Thăng Long một bước, giờ phải xa kinh thành, qua xứ Nghệ hiểm trở để ra Phú Xuân. Đường vô xứ Nghệquanh co... Tôi chắc lưỡi. Gió thổi phất những lọn tóc mai của Hân bay sẽ như sợi chỉ loảng. Màu hoa loa đỏ treo ở chậu bình bao lơn, cũng thẫn thờ đỏ như màu gấc ở đĩa xôi cúng vua Lê đặt ngoài hiên đã nguội khói. Mắt Hân nhìn về phía cung Vạn Thọ xa vắng. Hân bất chợt hỏi:
- Nguyễn vong, Trịnh mạt, Tây Sơn diệt thì thiên hạ chỉ còn cách phù Lê phải không?
Hân lấy chân du di tới lui trên mặt tam cấp, hỏi lại: Có phải không? Tôi siết tay Hân. Những đường gân xanh đã lờ mờ nổi lên trên bàn tay mảnh khảnh, những đường gân của nặng nhọc tinh thần.
- Huệ này! Thằng Nhậm có ý đồ riêng, thằng Chỉnh không ngay thẳng, hắn lại trêu tôi, tìm cớ mà giết đi để trừ họa!
Hân nhìn tôi đăm đăm, như đang nói chuyện với Huệ. Giọng trong trẻo tỉnh táo quá độ và ánh mắt khô ráo làm tôi hoảng:
- Phu nhân! Tôi đây mà!
- Láo! Vua băng sao không quỳ xuống!
Hân lồng lên. Nhưng rồi lại đổ rũ người ra khóc nức nở. Nhục cha chưa trả, đã nhục con. Tang lễ vua Hiển Tông, tôi cùng nằm với Hân trên đất, cho đô tùy khiêng linh cửu dẫm lên như một nghĩa cử trả ơn cuối cùng. Huệ thì đứng dõng dạc, ngạo mạn, người ngựa lồng lộng cờ đào như diễn tập. Họ Lê đã mạt thật rồi!

Chính sử của mỗi triều chép mỗi khác. Sau này tôi vẫn tự hỏi: những âm mưu của Ngọc Hân là đáng thương hay đáng tội? Chép trong chính sử Tây Sơn thì đáng tội. Xét theo sử triều Lê thì đáng phục. Nhưng sống trong một đất nước chỉ biết lấy chữ ‘‘Sát’’ làm chuẩn thì mới thật đáng thương.

Mấy lá trúc vàng, rây rắc gió cuốn rụng xuống Thăng Long xao xác hơn bao giờ.






























Buổi sáng sinh phần





Mưa vẫn còn rơi lai rai khi Ðiềm vào tới nghĩa trang. Hai ven đường mồ mả mọc đìu hiu nằm men sau dẫy tường thấp. Gió thổi bời rời, phe phẩy dăm ba hột mưa ảm đạm. Chàng trả tiền cho người phu xe dặn ngồi đợi. Ðiềm còn đau râm ran trong bụng, không đau xẻ ruột đứt gan và ói máu như lúc nằm viện, nhưng là cái đau dai dẳng chậm rãi âm ỉ. Chàng cố dỗ dành viên mụt nhọt thâm sâu trong dạ dày khi bước vào cổng. Bà cụ già ngồi bán nhang chào mời chàng với hàm răng nhuộm. Ðiềm mua lấy một bó đến thắp ở miếu thổ thần. Mùi nhang đốt, hương đèn xông nghi ngút, khói cay bỏng mắt đột ngột đưa chàng vào hẳn thế giới của người chết. Bó nhang chập một bén lửa cứ phựt lên làm Ðiềm phải vẩy mấy lần trước khi lâm râm khấn rồi cắm vào bát sành. Vài ngọn gió lùa tha theo nước mưa vào trong miếu làm chàng gây gây lạnh. Ðiềm lại thấy đau nhói trong phủ tạng, chàng chờ cho khỏe lại rồi mới đi quanh quất giữa những hàng mồ mả. Nghĩa trang hiu hắt, hoang vắng. Thế giới sau lưng con người chỉ phơ phất mấy đường mưa chảy lăn ròng trên bia đá. Trời mưa ri ri suốt cả một buổi làm bầu trời xám ngắt như đã ngã về chiều dù chỉ mới quá trưa. Hai ba giọt nước luồn qua cổ áo khiến Ðiềm rùng mình ớn lạnh.

Chung quanh miếu thổ thần mộ lập san sát nên Ðiềm chỉ nhìn lướt các kiểu bia xây. Nhiều tấm bằng đá hoa chạm đẹp, nhiều tấm cẩn xà cừ, và những tấm đá thạch đơn giản chỉ mài nhẵn. Những bia mộ làm Ðiềm xúc động. Những đôi mắt người chết nhìn chàng u uất trên dòng chữ khắc mặc niệm. Vợ hiền lập mộ. Em và các con thương nhớ anh hoài. Bố mẹ thương con vô cùng... Lác đác vài vòng hoa cườm bằng nhựa lây lất trên đầu mộ chí, người ta quên đem về đã phai nước sơn nhưng còn đọc được những chữ Thành kính phân ưu. Ðau xót chia buồn. Thương tiếc tiễn đưa... Chàng buồn buồn đi rảo qua lối đi nhỏ, tiếng cỏ tranh lay chạm lào xào như có ai than. Thân phận kiếp người quá là mong manh. Sống gửi thác về, tro tàn bụi cát, hồn phách tiêu tán. Gió thổi nâng đong đưa vài miếng tro nơi đống vàng mả ai đó vừa đi thăm mộ đốt xong. Phiến tro bay trĩu trĩu theo mùi nhang đưa từ ngôi mả mới cắm. Ðiềm đi sâu vào trong. Những người khuất mặt còn lưu trữ chút chân dung qua di ảnh vẫn theo dõi chàng. Có người mất thật trẻ, hưởng dương hai mươi mốt tuổi, kẻ thất lộc ngoài tám mươi. Ðiềm đi tới cuối nghĩa trang chỗ có bức tường đổ xiêu trông qua mấy dãy nhà lợp tôn phía Tân Sơn Nhất. Mồ mả đan kín không còn đất trống. Chàng phân vân nửa muốn trở ra sang khu nghĩa trang bên kia đường, nửa muốn đi tiếp sâu vào hướng ngược lại con đường dẫn ra miếu thổ thần. Ðiềm còn chần chừ thì nghe tiếng người gọi:

- Cậu kiếm mả ai?



Chàng giật mình quay lại, bắt gặp một cụ già đứng cách mấy hàng bia. Ông cụ đi giày tây nhưng vận áo dài, chít khăn nhiễu và cắp ô đen. Trời gió thổi hai vạt áo the rung rung.

- Thưa cháu kiếm đất. Ðiềm trả lời.

- Cậu cũng người Bắc à?



Ông cũ lại hỏi, nét vui mừng mà phúc hậu.

- Dạ, cháu sinh quán Hải Dương.

- Quý hóa quá! Tôi là Chương, người huyện Tiên Sơn tỉnh Hà Bắc, hân hạnh biết cậu. Nhưng kiếm đất ở đây làm sao có, khu này họ xây choán hết cả rồi. Nếu cậu không vội, theo tôi sang đằng này họa may.

- Dạ, cám ơn cụ chỉ đường.



Ông cụ phát tay, chỉ về hướng tượng Quan Âm xây ở đằng xa, ra dấu bảo Ðiềm đi theo. Trời mưa lâm râm không nặng hạt nhưng ông cụ vẫn giăng ô, hai ống quần lụa giặt trắng phau. Chàng để ý thấy đôi giày tây của cụ Chương còn mới nguyên chưa mòn đế.

- Cậu kiếm đất cho ai? Cụ Chương bỗng hỏi.
- Dạ, không dấu gì cụ... cháu muốn mua sẵn một miếng đất cho mình.

Ðiềm hơi ngần ngại, nhưng rồi cái phong thái hồn nhiên của cụ Chương giúp chàng nói thật. Chàng bỗng thấy mình khỏe hẳn sau khi nói ra mục đích đến nghĩa trang.
- Ối giời! Còn trẻ thế mà đã lo xa kia à? Xem như là chúng mình đồng bệnh tương lân rồi nhé! Cứ coi như ta đã là tri kỷ!

Cụ Chương bật cười lớn khoác vai chàng tương đắc. Ðiềm không hiểu gì khi thấy ông cụ đưa tay làm loa gọi những người khác. Cụ Chương tươi cười:
- Lâu lâu mới gặp một người còn trẻ mà đã cẩn thận biết lo chốn yên nghĩ của mình, chúng tôi quý lắm. Người xưa vẫn dạy cái phần mả bao giờ cũng là trọng, mà tuổi trẻ đời nay họ chỉ ham sống. Thật bụng chỗ đồng hương với nhau, gặp cậu tôi rất cảm kích, sẵn có vài người bạn đằng mả, nếu cậu cho phép xin được giới thiệu.

Ðiềm còn đang chần chừ do dự không biết tính sao, thì đã thấy mấy người từ dẫy mộ phía trong đi ra. Cụ Chương vừa kéo tay chàng vừa vẫy họ.
- Các ông lại đây! Có anh bạn trẻ này hợp với chúng mình lắm!

Người đàn ông đi đầu tuổi trạc ngoài năm mươi, tóc chải kiểu hai thập niên trước, complet cà vạt ủi hồ thật thẳng. Trông ông ta như sắp đi dự đại tiệc. Người đàn ông nói:
- Tôi là Thanh, chủ hãng cưa Phúc Lợi, rất vui được biết cậu.
- Không dám làm phiền bác, cháu là Ðiềm vừa quen với cụ đây.

Chàng bắt tay ông Thanh. Ba người đi sau cũng vừa tới. Một cô gái mặc áo dài trắng tóc thề, một người lính trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt và một người thương phế binh áo ngụy trang bê bết bùn đất. Người thương binh cụt chân, Ðiềm nhìn sững họ quên cả chào, lúc này mà còn mặc áo lính Cộng Hòa thì phải có máu mặt.
- Chào anh bạn! Tôi là Trình Văn Khánh! Người thương phế binh phác tay chào Ðiềm theo cung cách quân đội cũ.
- Mừng anh ghé tham quan! Người sĩ quan võ bị vồn vã ôm hôn chàng, vừa vỗ vỗ vào lưng thân ái. Không quen với kiểu chào này nên Ðiềm ngượng đỏ mặt. Cô gái chỉ khẽ gật đầu nhìn chàng, không xưng tên, chỉ lẳng lặng đứng nép một bên mả.
- Tôi tên Thìn, sinh đẻ ở phố Kim Mã, quận Ba Ðình châu thành Hà Nội, rất hãnh diện được đón tiếp anh hôm nay!

Người sĩ quan Ðà Lạt bây giờ mới trịnh trọng tự giới thiệu. Chàng không hiểu gì ngớ người ra nghe.
- Thôi bây giờ là người nhà rồi cả nhé, không cần khách sáo nữa. Nếu cậu Ðiềm không bận thì ra ngôi mả uống với chúng tôi một ly, chả mấy hôm mới có được chút rượu đế. Ta đi nào!

Cụ Chương không chờ Ðiềm trả lời, thân mật nắm tay dẫn ra một chỗ mả tương đối sạch sẽ trống trải. Ông cụ vừa đi vừa kể cho mấy người kia nghe ý định tìm đất của chàng. Hai người lính bật cười ha hả còn ông Thanh thì khen ý hay, chỉ có cô gái vẫn không nói gì chỉ lẳng lặng theo sau. Trưa nghĩa trang gió buồn buồn đưa mưa qua những ngôi mộ vắng vẻ, có được vài người cùng đi kiếm đất chung thì cũng bớt cô đơn, nghĩ vậy Ðiềm mạnh dạn bước theo họ.

- Nhấm nháp qua loa rồi chúng tôi đưa cậu đi coi đất, trong này thì không có chỗ nào mà chúng tôi không biết. Nhưng chọn đất là việc hệ trọng, cậu không nên hấp tấp, con cháu mai sau nhờ cả vào đó.

Sáu người ngồi dưới một tàn cây nhạc ngựa, chung quanh cỏ lau, mồ mả im lắng như tờ. Ðiềm trông thấy một hàng phượng nở hoa đỏ, giữa chiều mưa in hình lên nền trời ướt nước của lối đi chính mãi tận đầu nghĩa trang. Cụ Chương không biết lôi ở đâu mấy đĩa xôi gấc, loay hoay tháo bọc ny lông phủ mặt. Ông thanh cũng rở mấy bánh oản, lớp giấy bóng kính xanh đỏ đủ màu. Thìn rót nước trà ra tách, Khánh chuyển cho mỗi người một ly đế. Cô gái ngồi im nhìn.
- Làm một ly anh bạn!

Khánh đưa ruợu đến chàng, vui vẻ.
- Rượu trắng hơi nặng, nhưng trời lạnh uống vào nóng ran người, thích thật! Cụ Chương gật gù khề khà.

Ðiềm cũng đưa ly lên môi nhấp, rượu đế rẻ tiền cay bỏng lưỡi lại nồng nặc mùi nhang, chắc tro tàn rơi vào ly. Chàng cố chiêu ngụm rượu, lẽ ra Ðiềm không được uống nhưng trước sau thêm vài tháng thì có khác gì đâu. Nghĩ vậy Ðiềm nhắm mắt uống cạn ly, chất lỏng nóng như sôi sục trong dạ dày Ðiềm. Chàng khà một tiếng lớn.
- Bạn chịu chơi lắm! Tôi phục bạn, ít người uống nổi thứ ruợu đế này!

Khánh ngồi xuống cạnh Ðiềm có vẻ thích thú, anh ta nói tiếp:
- Tôi là hạ sĩ quan nhảy dù, tiểu đoàn 11 của Nguyễn Ðình Bảo, bạn biết chứ? Trận Charlie tôi bị vào đây.

Khánh đưa tay đập đập vào phần đùi còn sót, rồi nói không tải thương được. Khánh nốc hết ly ruợu một hơi, rồi phác một cử chỉ nửa đáng tiếc mà cũng bất cần.
- Sống khôn thác thiêng, sống hùng chết vinh, trúng đạn què chân, binh chủng hào hùng thì phải bỏ mạng sa trường, poncho gói thây. Bạn đồng ý không? Ai như thằng này!

Khánh nói một hơi trước khi đưa tay chỉ vào mặt Thìn.
- Cứ phát biểu linh tinh! Thế nào là sống hùng chết vinh? Ði lính thuê cho đế quốc ấy à?

Thìn, người mặc áo sĩ quan Ðà Lạt, đeo kiếm và mang găng trắng như sắp đi duyệt binh ngày quốc khánh, đang ngồi chồm hổm trên một ngôi mả bực bội trả lời. Anh ta gỡ cái nón kết lưỡi trai trên đầu xuống cầm tay quạt.
- Rắm thối nhà anh! Cứ có tí ruợu đổ vào là chết vinh hơn sống nhục!

Thìn nói thêm câu nữa, trước khi xúc miệng òng ọc bằng trà. Chờ cho Thìn nhổ toẹt bãi nước xuống đất rồi Khánh mới dằn mạnh ly.
- Ðù mẹ mày! Ðội đồ đi bộ từ Bắc vào Nam gia tài có mỗi đôi dép Bình Trị Thiên, bây giờ đeo găng, mắc kiếm, mang anh dũng bội tinh Việt Nam Cộng Hoà không biết xấu hổ! Giải phóng cái con mẹ mày!

Khánh chửi lại:
- Này, đừng có chạm vào thành quả đấu tranh của nhân dân Nam bộ! Việc tôi mặc áo sĩ quan đeo quân hàm ngụy thì không phải do tôi muốn. Người ta lộn, đem tôi về tắm rửa cho mặc áo lính ngụy đành chịu. Lúc đó ngoài Trung tình hình găng quá, thân nhân của cái thằng lộn không ra nhận được, chờ lâu họ phải hàn xì vì sợ xông mùi. Thật tình là như thế anh ạ!

Thìn quay lại phân bua với chàng. Ðiềm không hiểu họ muốn nói gì, chàng cho là cả hai chóng say đâm ra dở hơi. Nhưng Khánh thì vẫn cứ hùng hổ:
- Ðù mẹ! Cứ coi là mày bị cầm nhầm, nhưng đồ ăn của gia đình thằng bị lộn vào cúng mày cứ xơi là thế nào? Còn giấu ăn riêng thì quân đội giải phóng chúng mày tệ thật!
- Ðói thì phải ăn! Chứ thân nhân có biết tôi ở đâu đâu mà thăm nuôi! Sự đời nó có nhiều cái oái oăm, không biết thằng lộn bây giờ nằm đâu. Hôm ấy tắm ở suối lên chậm một chút thì chưa chắc đến nỗi, mình lại bò lên trước các đồng chí ấy, chưa kịp chòng cái áo thì bị biệt kích nó bắn. Ði không mang theo được một món kỷ niệm. Tiếc hoài cái áo trấn thủ anh Ðiềm à. Cái áo tự tay cô Miễn may lấy cho tôi có thêu cả tên họ chữ lót của hai đứa. Tiếc quá. Bây giờ nước nhà thống nhất, người ta xum họp còn tôi không biết đến khi nào mới gặp lại...

Thìn thở dài thườn thượt, nhìn đăm chiêu ra cổng nghĩa trang, nhưng lối ra bị mấy hàng tranh cao che khuất. Ðiềm lạ lùng theo dõi cuộc cãi vã giữa hai người lính, chàng ngờ ngợ một chuyện gì mà chưa dám tin vội. Ðiềm thấy tay chân mình bủn rủn cả.
Từ nãy vẫn có vài người đàn bà đi tảo mộ ngang qua chỗ họ ngồi. Mỗi lần Ðiềm đều để ý thấy mấy người đàn bàn chỉ nhìn một mình chàng. Mưa lâm râm gần tạnh hẳn, mùi đất xông lên ngai ngái cả một khu mả đìu hiu thê thiết. Ðiềm cứ ớn lạnh từng chập, chàng nhìn mấy người ngồi quanh thấy họ tự nhiên như không. Chàng muốn bỏ đi mà không nhấc nổi chân. Ông Thanh bóc một bánh oản mời chàng.
- Cậu xơi miếng bánh! Còn hai anh kia thôi cho tôi can, nể mặt cậu Ðiềm với chứ. Xin lỗi cậu Ðiềm nhé, ngày xưa họ đánh nhau chưa chán nên bây giờ cứ gặp nhau là kiếm chuyện thù oán.
- Này ông Thanh! Không có bọn lính tráng tụi này xả thân bảo vệ lãnh thổ cho ông làm ăn để tụi nó vào đặt chất nổ khủng bố, thì có mười trại cưa Phúc Lợi ông cũng không mở được. Ðừng khi dễ bọn này chứ!

Khánh quay sang cãi nhau với ông Thanh. Ông chủ hãng Phúc Lợi chưa kịp có ý kiến thì Thìn đã chõ vào:
- Bảo vệ lãnh thổ? Nghe thối!
- Thôi thôi! Tôi đã bảo hai anh thôi là thôi. Câu Ðiềm đâu có vào đây nghe hai anh cải nhau. Chuyện cũ qua rồi, tôi bây giờ cũng không còn điều khiển trại cưa nữa. Cậu thấy tôi nói có phải không cậu Ðiềm? Họ hăng máu quá, cái thời trẻ của tôi đâu có như vậy, lúc ấy tôi chỉ nghĩ làm sao học một nghề kiếm ăn lương thiện có ích và hữu dụng, có vốn rồi mở một cơ xưởng để của cho con cháu nhờ... Suốt cuộc đời tôi chỉ ước vọng có bấy nhiêu, thế mà tôi không đạt được cậu Ðiềm à, khi đau bệnh gan không làm việc được nữa, tôi để lại cho vợ con cả một cơ sở phồn thịnh. Vợ chồng thằng cả đưa nhau trốn ra nước ngoài bị bắt, cơ xưởng máy móc ván gỗ họ tịch biên hết, mẹ chúng nó vào đây than thở, nghe mà tôi cứ khóc ròng, bao nhiêu năm gầy dựng chớp mắt đổ đi.
- Chính sách nhà nước bao giờ cũng đúng đắn, để phường tư sản các anh lũng đoạn thị trường cạnh tranh vô tổ chức ấy à!

Thìn lại chõ vào câu chuyện, không nể nang. Ðiềm tưởng ông Thanh sẽ trả lễ ngay, nhưng không ngờ ông ta chỉ nhỏ nhẹ đáp.
- Các anh cứ cho chúng tôi là giai cấp bóc lột, nhưng thật sự nếu không có các cơ sở thương mãi của chúng tôi, những hãng xưởng thủ công nghiệp mà các anh gọi là tư sản dân tộc, thì nhiều người dân mà các anh tự hào là chiến đấu cho quyền lợi của họ không có công ăn việc làm đâu. Kinh tế nước nhà cũng không phát triển vì thiếu vốn đầu tư. Xã hội nào, tầng lớp nào cũng có kẻ xấu người tốt, đừng nên vơ đũa cả nắm thế. Tôi nói thế đúng không cậu Ðiềm?
- Dạ, cháu cũng nghĩ như bác.

Ðiềm trả lời, chàng bị hút vào các mẩu tranh luận của họ mà bấy lâu nằm bệnh chàng ít khi được tham dự. Chàng ngờ ngợ họ không phải là người sống, một lúc chàng đã ớn lạnh khắp cả người, nhưng rồi Ðiềm lại thấy họ bình thường quá, thật quá, còn sống động hơn cả người thật. Có thể nào mấy người này đang đóng kịch để trêu chàng. Nghĩ kỹ rồi Ðiềm thấy không đúng, làm sao đóng kịch tài đến như thế. Nhưng nếu họ là ma thì Ðiềm lại thấy không có gì để sợ. Trời còn sáng, người phu xe còn đợi chàng ngoài cổng. Hơn nữa... chậm nhanh một vài tháng Ðiềm cũng vào nằm trong này. Làm bạn với họ trong một vài tháng, hay làm bạn bây giờ thì cũng thế. Nghĩ vậy chàng không còn thấy sợ.
Mấy người trong bọn chia nhau xôi gấc. Cũng loại xôi bán để cúng. Phẩm đỏ loẹt gặp mưa dính nhớp nháp ra tay. Bận ăn, hai anh lính thôi cãi nhau, ông Thanh cũng im lặng. Cụ Chương từ nãy không nói gì cứ lâu lâu nhìn chàng tủm tỉm cười. Cô gái thì ngồi xõa tóc, lâu lâu thu vén những giấy rác mấy người đàn ông bày bừa. Ðiềm thấy thiếu nữ trông mặn mòi, hai con mắt đen láy, tóc óng ả như lụa. Chàng đang định bụng hỏi chuyện nàng thì nghe tiếng xột xoạt ở mả bên. Tiếng cười con gái rúc rích. Tiếng vải quần tuột mau. Giọng đứa con gái nũng nịu rinh rích.
- Anh trả tiền em trước đi!
- Thì xong rồi đưa, có mất đi đâu.
- Thôi đưa tiền em liền đi, nghe!
- Ừ, thì đưa. Bộ em hay bị quỵt lắm hả?
- Cũng có bị, nhưng có tiền trước em mới phấn khởi!
- Rồi đó. Bây giờ thì phu với cho ngon coi!

Giọng đàn ông cười hình hịch dâm đãng. Ðứa con gái vẫn cứ cười rúc rích. Thấp thoáng sau mấy cành lau sau lưng mả Ðiềm trông rõ cái bụng trắng tươi của đứa con gái làng chơi. Cánh tay nó lúc đưa lên níu cổ gã đàn ông, khi buông để giữ vạt áo bà ba cho khỏi rớt xuống đùi làm vướng víu. Gã đàn ông làm hùng hục như trâu kéo cày. Ðiềm chợt thấy Khánh và Thìn nhảy leo lên nóc mộ chỗ cặp trai gái đang làm tình để nhìn. Thìn cười hô hố chỉ trỏ mỗi khi gã đàn ông đổi kiểu, còn Khánh huýt sáo khi nghe đứa con gái rên ư ử. Kỳ cục là họ đứng ngay trên mả ngay chỗ cặp trai gái đang chơi mà gã đàn ông với đứa con gái vẫn tiếp tục làm tình. Bất chợt đứa con gái ngẩng đầu ngước nhìn bốn phía, nó chợt thấy Ðiềm ngồi ở bên này.
- Chết rồi có người! Anh!
- Ðâu? Ai?
- Dậy đi anh! Mặc đồ vô! Ði!

Gã đàn ông cũng vừa trông thấy chàng, hắn hối hả kéo quần dắt đứa con gái chạy đi. Khánh và Thìn cũng nhảy xuống đất chạy theo coi.
Ðứa con gái chòng được cái quần lãnh đen nhưng còn chưa kịp cài nút áo tất tả chạy theo gã đàn ông. Ðứa con gái vừa chạy vừa nói léo nhéo:
- Ðừng vô miểu thổ thần tội lắm anh! Qua bên kia kìa, mà coi như xong một cối rồi nghe anh! Phải trả em thêm đó!
- Xong cái gì! Người ta chưa ra mà! Sao em chơi đểu vậy?
- Chứ còn gì nữa, chẳng lẽ nảy giờ chùa sao!

Khánh và Thìn chạy đuổi theo sau cười nắc nẻ, nhưng cặp trai gái làm như không thấy hai người lính vẫn léo nhéo vừa chạy vừa mặc cả. Trời tạnh mưa, chút nắng muộn le lói soi khu nghĩa địa. Bốn người cùng chạy nhưng chỉ có hai cái bóng của cặp trai gái phơi trên lối đi đất. Cả bốn xa dần và khuất hẳn. Cụ Chương chờ cho tất cả trở lại yên tĩnh rồi mới lên tiếng.
- Tội nghiệp! Hai anh lính vào trong này giữa lúc đời họ còn sôi động quá. Còn dở dang tuổi trẻ nên họ ham vui, đôi lúc hiếu thắng, có lúc lại bất mãn tất cả. Tôi hiểu họ còn vướng nhiều bụi trần chưa dứt được, nên hay theo khuyên bảo nói chuyện với họ. Cái phần số không do mình định đoạt, cũng không do thượng đế đâu, do ở cái tiền kiếp lúc trước ăn ở thế nào kiếp này chịu vậy. Thượng đế không có bất công với ai, không có quýt làm cam chịu, mà ai làm người nấy nhận. Tôi ở trong này trên hai mươi năm rồi, gặp đủ hạng người, đủ khắp các thành phần nên tôi hiểu rõ con người ta lắm. Con người ta nhiều lúc đáng thương mà nhiều lúc cũng đáng ghét. Không biết ông bạn Thanh với cậu Ðiềm và cô Thủy nghĩ thế nào, nhưng tôi thì thấy con người ta là nạn nhân của chính mình mà lại thường đổ tội cho trời cao không có mắt.
- Thưa, cháu muốn hỏi cụ một điều không biết có nên chăng?

Ðiềm ngắt lời cụ Chương. Tự nhiên anh cảm thấy mến cái thần thái ung dung tự tại, phong cách chấp nhận cuộc đời, kiếp người ngay cả sau khi chết của ông cụ.
- Cậu cứ hỏi không việc gì mà ngại.
- Cụ vừa bảo nằm ở đây trên hai mươi năm, sao vong hồn không được siêu thoát?
- Trả lời cho cậu tôi cũng không biết nói thế nào, chuyện ấy ngoài thẩm quyền của chúng tôi, nhưng thời buổi nhiễu nhương của chúng mình bây giờ hồn âm khó mà siêu linh tịnh độ. Lũ chúng tôi ở đây không có ai được lên cõi niết bàn, mà đều chờ vào vòng luân hồi, chậm hay mau thì tùy thuộc vào ân đức của mình khi sống để lại. Lúc còn sinh tiền tôi không thấy mình có làm điều gì xấu, nhưng biết đâu! Có chuyện mình không cho là xấu mà nó vẫn cứ xấu, mà mình không nghĩ ra thôi. Nhưng cứ chờ mãi rồi mình đâm ra tin mình đã làm chuyện xấu, đành phải thay đổi cách nhìn chấp nhận ở đây vậy. Ở riết lại thấy trong này cũng vui vui cậu Ðiềm à. Chẳng hạn cái cảnh giang hồ vừa rồi, cái thời tôi còn ở vùng quê mình ngoài Bắc làm sao có. Lúc ấy trai gái gặp nhau thì chỉ hát quan họ. Cậu biết quả đồi Lim không? Chùa Lim, xã Lim bên cạnh sông Tiêu Tương, làng tôi là cái nôi quan họ cổ truyền đấy!
- Lúc di cư cháu chỉ trên mười tuổi nên bây giờ không nhớ gì, thưa cụ.
- Ối giời ơi! Hát quan họ thì mê lắm lắm! Âm điệu của nó du dương tỏa khắp cả người mình. Cái giọng con gái Bắc Ninh mới chết!

Cụ Chương nói rồi liền cất giọng hát:
Em là con gái Bắc Ninh Em nghiêng vành nón mái đình nghiêng theo Tòa sen Phật muốn lặng thinh Nghe em ca bỗng thấy mình trần gian Quê em sóng, nhịp, gió, đàn Nắng thêu nên nhạc, trăng vờn nên thơ Tiêu Tương dấu cũ con đò Xuống sông nỗi nhớ, ngóng hờ nỗi thương...
- Mấy chục năm rồi mà tôi vẫn không quên mấy câu hát ấy, nó như ăn vào hồn mình. Trần Linh Quý làm bài hát ấy nổi tiếng cả vùng Bắc Ninh.
- Cậu Ðiềm rảnh rang thì vào đây nghe cụ Chương hát quan họ, kể chuyện hội Lim thú lắm.

Ông Thanh nói với chàng.
- Cụ Chương còn biết nhiều thắng cảnh miền Bắc, những đêm trăng bọn trẻ chúng em thường tụ tập nghe cụ kể chuyện đi chùa Hương, chùa Keo, viếng đền Kiếp Bạc, hồ Ba Bể thích lắm. Hôm nào không bận bịu anh Ðiềm ghé chơi nhé!

Cô gái tên Thủy nãy giờ mới lên tiếng. Ðiềm trông nàng duyên dáng quá. Ðột nhiên chàng thấy vui vui, buổi trưa lúc vào nghĩa địa tìm cho mình miếng đất sinh phần, chàng đâu nghĩ có cuộc gặp gỡ kỳ lạ này. Nói chuyện miên man, bâng quơ giữa kiếp người, cõi sống, cõi âm, làng quê đất tổ ngoài Bắc, cãi lộn quốc cộng giữa hai người lính, kinh tế tư bản cá thể, kinh tế Mác xít quốc doanh, Ðiềm nhận thấy cõi âm cũng khác không bao xa với cõi người sống. Ðời sống vẫn tiếp tục, kéo dài dù chỉ là những hệ lụy đem theo. Vài tháng nữa vào đây nằm, chàng không đánh mất gì nhiều, vẫn tiếp tục sống dù chỉ còn là linh hồn vấn vưởng. Nghĩ thế Ðiềm thấy chàng thật sảng khoái, không còn sợ hãi buồn chán cho số phần mình chẳng may ngắn ngủi.
- Thế nào tôi cũng trở lại thăm cô với bác và cụ.
Ðiềm trả lời cô gái. Chàng tiếp:
- Chắc cũng chẳng còn bao lâu thì tôi vào ở luôn, nếu may mắn tìm được miếng đất.
- Thế thì còn gì bằng. Ấy chết! Em nói bậy quá! ý em muốn nói là chắc bác và cụ đây đã có cảm tình với anh cũng mong gặp lại thường.
Thủy nói lỡ vội chữa, nàng cười xin lỗi câu nói gỡ khi nãy. Lúc cười, Thủy có hai lúm đồng tiền nho nhỏ và chiếc răng khểnh mà Ðiềm thấy có duyên lạ.
- Thôi, mình cũng sửa soạn đi tìm đất cho cậu Ðiềm đi bác Thanh nhỉ?
- Ừ, mình đi kẻo muộn để cậu ấy còn về cho kịp, chiều hôm ở đây cũng ngại.
Ông Thanh đứng lên theo cụ Chương. Thủy cũng đứng dậy thu vén chỗ ngồi lần chót, nàng không quên liếc nhìn chàng và cứ cười tủm tỉm.
- Mình đi phía đằng này, tôi chắc còn một vài khoanh trống. Tôi không rành khoa địa lý nên khong biết đất tốt xấu thế nào, để tùy cậu định đoạt không dám ép. Mà cậu đã có đi xem ở chỗ nào khác chưa?
- Thưa cụ chưa. Trước khi vào đây cháu có định lên xem nghĩa trang Gò Vấp nữa đã rồi mới quyết định, nhưng bây giờ được biết cụ, bác Thanh và cô đây thì cháu nghĩ cũng là do ý trời xếp đặt, nếu được một miếng đất đủ nằm thì cháu mua ngay không lên Gò Vấp đâu. Trăm sự nhờ cụ và bác Thanh cho.
- Thôi được rồi, nếu cậu tha thiết như thế thì tôi chỉ cho một miếng đất còn chừa, đúng ra thì họ đã đặt cọc nhưng mình có thể mua lại. Cậu đi xem rồi trở ra thành phố thương lượng với người ta. Mà này, sau này nằm có bị kiến với trùn, mối nhiều quá thì đừng có mắng vốn tôi đấy nhé!
Cụ Chương cười thật đôn hậu. Hai người đi trước, Thủy và ông Thanh đi sau. Cụ Chương ghé tai chàng nói nhỏ:
- Cô ấy ngoan lắm, con nhà đàng hoàng, tính tình hiền lành, lần đầu tiên tôi thấy cô ấy vui vẻ dạn dĩ với một người đàn ông là cậu đó. Nếu duyên định cô cậu gặp nhau dưới này cũng hay.
Ðiềm cười theo, chưa dám thổ lộ nhiều, chỉ mới lần đầu, biết Thủy xem chàng ở vai vị nào. Ðiềm thấy có nhiều đứa trẻ ở đâu chạy chơi trong khu nghĩa trang. Có đứa tụ nhau đánh đáo, bắn bi, có đứa chơi ô quan, và có một đứa chạy ngang khoanh tay chào cụ Chương. Chàng biết chúng là ma, nhưng có cảm tưởng chúng mới vừa ngủ trưa dậy ra sân chơi. Trông chúng cũng hồn nhiên không khác mấy những đứa trẻ trong trường học, chỉ có điều đứa nào cũng mặc đồ mới. Ðiềm đi xem đất và bằng lòng lắm. Khoanh đất mát mẻ, có bóng cây, không bị mộ nào lấn. Ðất cứng không sợ bị xụp, chỉ xa lối vào nghĩa trang nhưng được cái ở gần chỗ Thủy nằm. Nghĩ mai mốt có thể qua lại chỗ Thủy, chàng đã vừa ý.
Ðiềm ra về sau khi cụ Chương cho chàng địa chỉ của người chủ đất. Lúc bước ra cổng, Ðiềm thấy bà già bán nhang đang ngủ gật. Người phu xe trông thấy chàng ngồi bật dậy, rời lòng xích lô dẩy nẩy:
- Bắt đợi cả buổi như vầy ông phải tăng tiền cho tôi!
- Anh cầm lấy tất.
Ðiềm móc túi còn bao nhiêu tiền trao hết cho người phu xe. Trình giấy cho người bộ đội gác cổng ngoài rồi chàng bảo người phu đánh xe lên Phú Nhuận. Rời Bắc Việt Nghĩa Trang, trên đường Chi Lăng Ðiềm lại phân vân nửa muốn về nhà báo tin mừng cho mẹ, nửa ngập ngừng nhớ cái không khí đưa đám ở nhà mình từ khi bác sĩ bảo bó tay. Suy nghĩ một chốc rồi chàng đổi ý, quay gọi người phu xe chở chàng đến thẳng cái địa chỉ cụ Chương vừa cho.


Ðiềm trở vào nghĩa trang tuần sau, nắng nóng chói chang trên mấy ngôi mộ, chứ không mưa lai rai ướt mặt người chết như hôm đầu. Cả khu mả thiêm thiếp giấc trưa, yên lặng không bóng người. Chàng cũng vào khấn nơi miếu thổ thần, rồi đi rảo tìm khoanh đất trống đã hẹn với người chủ cũ tiù nữa đến xem lại và ký giấy thỏa thuận. Trưa nắng chang chang trên mấy lùm cỏ lau gai sắc, không có bóng mây chỉ có mỗi một chiếc bóng của Ðiềm duy nhất vởn qua vởn lại tìm lối đi. Cỏ mọc che kín nhiều chỗ mả rậm rạp, chàng loay hoay bưng đồ cúng vạch lau lách. Quần hai ba vòng Ðiềm vẫn chưa tìm ra chỗ đất cụ Chương đã giắt chàng tới, Những kiểu mả lập bảo tháp, long đình, xây uynh thành giông giống nhau nên chàng không nhớ đã có đi qua hay không. Ðiềm đi tìm một hồi thì mệt, mồ hôi rũ ra ướt đẫm sống lưng, cơn đau bụng lại trổi lên hành hạ. Chàng ngồi vật xuống ven con đường đất thở dốc, dạ dày như có ai lấy kim chích đau xon xót. Ðiềm cố cất tiếng gọi cụ Chương ra đón mình, nhưng tiếng kêu của chàng chạm những thành bia đá dội đi vang vang không có người trả lời. Ðiềm vuốt mồ hôi chảy ướt cả cổ áo, rút khăn tay đắp lên đầu che nắng, rồi lại gọi ba bốn lượt. Cụ Chương ơi! Cụ Chương ơi! Có cháu đến tìm! Khánh ơi... Bác Thanh ơi! Cháu mang quà vào! Ðiềm nghe tiếng chàng vọng vang dội trở về lặp lại như có ai đùa. Chàng đứng lên dáo dác tìm rồi lại ngồi xuống thất vọng. Khu mả vắng vẻ quá, mộ lập chùng chùng biết đường nào mà tìm. Chàng tự trách mình hôm nọ đã không nhớ kỹ lối đi, lại để quên ở nhà tờ giấy người chủ đất ghi lô thứ tự. Ðiềm đành ngồi đợi, lâu lâu chàng ngước mặt nhìn bắt gặp một vài nụ cười hóm hỉnh trên bia đá.
Có cái am chúng sinh gần đó. Ðiềm chợt nảy ra một ý. Chàng tháo giỏ đồ cúng, bày cau chè, xôi vịt với rượu bánh ra trước am. Ðiềm đốt ba nén hương khấn vái những âm hồn đi hoang. Không có gió, khói nhang bay đè trên mặt đất, di di buồn buồn lượn lờ theo bóng nắng. Chàng gấp giấy báo lại làm quạt, mấy luồng hơi gió làm Ðiềm dễ chịu, như đẩy được chút nắng ra xa. Làn gió cũng đẩy khói hương đi bốn phía.
- Này anh bạn! Sao đem đồ cúng ở đây!
Ðiềm giật mình quay về phía có tiếng nói, thấy Trình Văn Khánh đang nhảy lò cò với chiếc chân cụt, mặt hớt hơ hớt hải:
- Dẹp đi! Trời ơi! Ðây là am chúng sinh, bạn cúng như vậy cô hồn các đảng tụi nó ùa tới ăn sao cho đủ!
- Phải đấy! Cất ngay đi, khẩn trương lên!
Chạy sau Khánh là Thìn, vẫn tươm tất trong bộ lễ phục sĩ quan Ðà Lạt. Cây kiếm mãn khóa Võ Bị, Thìn đeo bên hông chạm vào chân kêu lanh kanh.
- Cụ Chương có ra không? Chàng hỏi họ, vừa thương vừa tức cười.
- Có, ra liền bây giờ nhưng ông cụ đi chậm lắm. Phụ tôi khuân ra đằng mả cô Thủy, có bấy nhiêu mà chia cho cả nghĩa địa thì mỗi người chỉ được một hột xôi!
Khánh quơ quào mấy đĩa đồ cúng, trong lúc Thìn nhanh tay tắt nhang, nhặt chai ruợu. Ðã có dăm mười bóng người từ mấy ngôi mả xa ùn ùn kéo ra, mặt mũi ai trông cũng phấn chấn!
- Phát chẩn chúng mày ơi!
- Chẩn cái củ thìu biu! Không có hộ khẩu thì không được quyền nhận!
Thìn rút kiếm võ bị chống nhau với mấy người tha phương cầu thực. Ðiềm bị Khánh lôi bắn đi, chạy như ma đuổi.
- Lần sau anh bạn đừng có dại như vậy nữa nhé! Có hảo tâm cúng ai thì cúng một người đó thôi, nhân đạo chung chung như vầy vô bổ lắm!
Khánh lôi chàng phăng phăng băng qua mấy dẫy mả liền. Thìn ở đằng sau múa máy đường kiếm rồi cũng chạy theo.
- Các cậu ơi! Chúng nó đeo mình găng quá!
- Quẳng cho họ mấy cái bánh! Khánh hét.
Thìn vừa chạy vừa ném ra sau mấy phong bánh đậu và buồng cau Ðiềm mua lúc sáng, chỉ giữ lại chai rượu đế Hiệp Hòa với cây thuốc lá. Ðám cô hồn giành nhau mấy thứ rơi rớt trên đất quên cả đuổi.
* - Các anh làm gì mà la toáng lên thế? Lại đánh nhau nữa à?
Thủy từ sau mồ của nàng bước ra hỏi. Ðiềm để ý thấy nàng hôm nay bới tóc, xăn tay áo, để lộ cái cườm tay nhỏ đeo hai chiếc vòng ngọc thạch và một ngấn cổ ngó sen. Hai má lúm đồng tiền vẫn duyên dáng như hôm nọ, còn có phần xinh hơn.
- Anh bạn Ðiềm đến dâng cau chạm ngõ cô em mà bị chúng nó lột rồi!
Khánh cười hềnh hệch đắc chí với câu pha trò của mình.
- Nói tầm bậy nào! Thủy nhìn chàng đỏ mặt, không quên liếc một cái sắc lẻm về phía Khánh.
Bốn người bày mấy món còn đem theo được trên mả Thủy.
- Xem nào, còn một con vịt luộc, hai đĩa xôi, cây thuốc và chai rượu, tốt chán! Chỉ mất có buồng cau, năm phong bánh với nải chuối để quên trong am. Cứ xem như thắng lợi vẻ vang!
Thìn khoái trá đếm đi đếm lại mấy món đồ cúng, trịnh trọng rót ruợu ra ly bày sẵn. Khánh vội vã mồi thuốc rít từng hơi, ếm sâu vào phổi rồi mới từ từ thở ra bằng lỗ mũi:
- Phê quá!
Người hạ sĩ quan Cộng Hòa tiểu đoàn 11 Dù ngồi tựa tấm bia của ngôi mả bên cạnh lim dim mắt. Thủy từ lúc nãy đến giờ vẫn đứng nhìn chàng ngượng ngùng, lên tiếng hỏi bâng quơ:
- Anh Ðiềm thết tiệc chuyện gì vậy?
- Hôm nay tôi ký giấy mua đất nên muốn ăn mừng với Thủy, cụ Chương, bác Thanh và hai anh Khánh, Thìn.
- Cứ coi như anh bạn đãi tân gia!
Khánh lại mở mắt pha trò.
- Vậy là nhập hội tương tế với bọn mình rồi nhá!
Thìn vui vẻ cởi mở. Thủy cuời ngặt nghẽo với mấy câu đùa của hai người lính.
- Anh đã nhất quyết vào với chúng em?
Một lúc nàng chậm rãi hỏi.
- Tôi đã quyết định từ hôm đầu gặp cô.
Ðiềm nhìn nàng khi trả lời, chàng đọc thấy sự bối rối mà sung sướng ẩn trong đôi mắt Thủy đen láy. Chàng muốn nói đã yêu Thủy ngay hôm đầu nhưng không dám.
- Sao cụ Chương với bác Thanh lâu đến?
Thủy lảng chuyện, không dám ngó chàng nữa.
- Chúng tôi đây!
Bốn người quay ra, thấy cụ Chương và ông Thanh đang đi tới. Khánh cằn nhằn:
- Chờ hai cụ cắp ô tới thì con người ta đói rã ruột!
- Anh em chúng tôi phải chiến đấu căng lắm mới bảo vệ được thành quả của nhân dân lao động là mấy món ăn này do anh Ðiềm đem vào.
Thìn kể công.
- Chúng tôi biết! Xin lỗi các bạn trẻ vậy. Nào ta dùng cỗ đi chứ, chắc cậu Ðiềm có mấy lời ngỏ đầu?
- Dạ, thật ra cũng không có gì trọng đại, hôm nay cháu mua được cái sinh phần cho mình hẹn với người ta đến ký giấy lát nữa, được như vậy cũng là do cụ, bác Thanh, hai anh Khánh, Thìn và Thủy đây giúp đỡ, nên cháu muốn báo tin vui cho tất cả, nhân thể có ít xôi rượu mời mọi người đánh chén.
Mọi người vỗ tay khi Ðiềm dứt lời, chàng cảm động thấy mọi người đều thành thật chia vui với mình. Họ ngồi bệt xuống đất, Thủy chặt vịt, ông Thanh bới xôi, Khánh và Thìn rót rượu tiếp mọi người. Cụ Chương châm điếu thuốc hỏi chàng:
- Ðã sắm cỗ hậu quan quách gì chưa?
- Dạ chưa, nhưng chắc cũng phải đi mua nay mai. Ðiềm đáp.
- Ừ, liệu trước vẫn hay hơn, mua loại gỗ vàng tâm thì mới không sợ bị mục nước sau này.
- Sợ thời buổi khó khăn lúc này không tìm được thứ gỗ quý đó.
Ông Thanh vừa nhằn xương vịt nói. Cụ Chương gật gù đồng ý, bảo thôi thì gỗ lim cũng được.
- Anh đã chọn kiểu mộ chưa, anh Ðiềm?
Thủy hỏi thêm.
Chàng còn đương suy nghĩ, Khánh đã ồn ào:
- Mộ lập cho ngon thì phải xây ít ra cũng giống mồ cụ Chương với ông Thanh. Có bình phong, sân bái đường, hồ nước, hương án, thành mộ trồng hoa giấy, hoa dâm bụt, bên ngoài xây viên thành có cổng uốn. Người sống đi qua nhìn mới dễ nễ!
- Trong Nam các anh cứ quen thói tư sản! Xây cho đẹp vào chỉ tốn tiền của thân nhân mình chứ ích gì. Ngoài Bắc lúc tôi lên đường cứu quốc năm 73, người ta chỉ đắp đất hình nấm, không có xây gạch xây gung như trong này.
Thìn, tương phản trong bộ lễ phục võ bị, vừa nhồm nhoàm ăn vừa phát biểu.
- Bị bắt lính thì nói bị bắt lính, lên đường cứu quốc! Nghe không giống ai!
Khánh ực một hơi cạn ly rượu, rót thêm rồi lại ực. Mặt người thương phế binh đã đỏ gay. Thìn bị nói móc, cũng buông cái chân vịt, tợp một ngụm rượu.
- Ừ, không giống ai mà chúng tôi chiến thắng các anh lẫy lừng!
- Ðù mẹ! Chó táp phải ruồi! Bộ đội anh hùng, chỉ đạo đứng đắn, thi đua lập chiến công... tới Xuân Lộc chết như rạ!
- Ừ, chết đấy, nhưng ngụy quân ngụy quyền thì bị bắt sống cả bầy!
Thìn hất mặt thách thức. Khánh toan chồm lên phang chai rượu Hiệp Hòa vào đầu Thìn nhưng ông Thanh đã kịp thời can họ.
- Thôi thôi cho tôi xin, lại cãi nhau nữa. Cứ lần nào có rượu vào là các anh lại đánh nhau. Hai anh thoi nhau vì rượu chứ có phải vì chính nghĩa của hai bên đâu! Hôm nay là ngày vui của cậu Ðiềm, người ta làm tiệc đãi thì phải biết giữ tư cách một chút chứ. Các anh làm sao mang tiếng người chết chúng mình, không khéo cậu Ðiềm đổi ý không mua sinh phần ở đây nữa.
Ông Thanh bắt họ mỗi người ra ngồi một góc. Như hôm nọ, cụ Chương không nói gì chỉ tủm tỉm cười. Ông Thanh chiêu ngụm rượu rồi mới lên tiếng nói về cách thức xây mộ.
- Lập mộ có nhiều kiểu, Bảo Châu, Bảo Tháp, Trúc Cách, Long Ðình, đó là những kiểu đắt tiền xưa chỉ có triều thần hoàng tộc hay các nhà quyền quý mới được xây. Sau này trong Nam ai có tiền, muốn xây sao thì làm. Nhưng những kiểu mộ đó đòi hỏi đất rộng, ít ra cũng rộng bằng cái âm phần của tôi hay của cụ Chương. Chỗ đất của cậu mua thì hơi chật, không làm được sân bái đường đâu. Tôi đề nghị cậu xây kiểu trúc cách tam cấp, có bình phong với một ao nước nhỏ trước mặt là đủ đẹp. Cậu Ðiềm thấy thế nào? Còn hoa giấy, hoa dâm bụt thì tùy người nhà mình giồng, nhưng cũng chỉ được ít lâu rồi héo cả thôi mà.
- Dạ, cám ơn bác đã chí tình chỉ bảo, nhưng đời sống bây giờ đắt đỏ quá, cháu không rõ gia đình có đủ tiền lập mộ khang trang như lúc trước hay không? Cháu đã định bụng xây kiểu mộ liếp thường, đơn giản mà cũng tươm tất.
Ðiềm nói với ông Thanh. Cụ Chương nghe thế thì chen vào câu chuyện.
- Ừ, cậu Ðiềm nói cũng đúng, tôi thấy từ sau bảy mươi nhăm mấy người vào đây mồ mả ai cũng xoàng xoàng, hẳn là vật liệu bây giờ đắt kinh lắm. Thôi thì cậu cứ xây theo khả năng của mình. Nhưng nếu vẫn thích tối tối ngồi sân bái đường, trông sao uống chè, ngắm hoa, ngắm trăng soi hồ nước thì lại đằng tôi và ông bạn Thanh. Cửa mả chúng tôi lúc nào cũng mở rộng đón cậu.
- Cám ơn cụ đã có lòng xem cháu như con cái.
- Nhưng tôi chắc anh bạn đây thích ngắm sao đêm với cô em Thủy hơn là với cụ!
- Thích mê đi chứ lị!
Khánh và Thìn đã thôi cãi nhau, mỗi người một câu đùa làm người thiếu nữ đỏ bừng mặt.
- Cấm hai anh không được nhắc đến em nữa! Sàm sỡ vừa vừa chứ!
Mọi người bật cười ròn. Cụ Chương trịnh trọng nâng ly mời:
- Nào, ta nâng ly chúc mừng cậu Ðiềm sắp xây kim tĩnh.
- Mừng anh bạn!
- Mừng anh!
* Tàn tiệc, cụ Chương và ông Thanh cáo từ đi ngả lưng. Khánh và Thìn rủ nhau đi rình mấy cảnh bán tình của những ả giang hồ làm ăn trong nghĩa địa. Chỉ còn lại một mình chàng và Thủy. Thủy dợm đứng lên đi dọn dẹp, nhưng Ðiềm kéo nàng ngồi xuống.
- Thư thả, lát nữa anh phụ Thủy một tay.
Thủy nhìn chàng do dự, rồi ngồi xuống kế bên không nói gì. Ðiềm nhìn cánh tay nắng ôm ngang khu mả, lấp lánh trên những bia đá như có dát vàng. Yên tịnh quá, không có tiếng trẻ nít đùa giỡn như hôm nào. Có lẽ chúng đang ngủ trưa. Thế giới trong nghĩa trang im vắng khác hẳn cái cuộc đời trần tục xô bồ ở ngoài thành phố, chỉ cách nhau có con đường lộ. Ðiềm phân vân tự hỏi, không hiểu Thủy có hay biết những thay đổi biến động kinh khủng của xã hội người sống? Chàng thầm mong là nàng không hay biết gì hết, vẫn giữ trong đầu những hình ảnh vui tươi của miền Namtrước đây. Ðiềm nhìn tấm bia khắc trên mộ nàng. Phạm Thị Thu Thủy, hưởng dương mười bảy tuổi, thương con lập mộ. Dưới tấm hình nàng là hai câu thơ của bố mẹ Thủy thương tiếc con: Nụ cười đã tắt trên môi thắm, hình bóng con yêu đã khuất mờ. Chàng thấy thương cô gái đang ngồi cạnh mình, nàng đã ở trong này mười mấy năm rồi, một thân, một mình cô độc lẻ loi. Trông Thủy không khác trong hình bao nhiêu, có lẽ âm hồn nàng giữ lại hình ảnh của thể phách lúc chết.
- Có thật anh quyết định mua sinh phần vì em?
Thủy bất ngờ hỏi, hơi cúi mặt không nhìn chàng. Ðiềm gật đầu.
- Tôi không hiểu vì sao, nhưng thấy mình có cảm tình nhiều với Thủy.
Chàng do dự rồi nắm lấy bàn tay nhỏ trắng ngó sen, mấy ngón tay thuôn bum búp như những đọt măng non. Thủy để yên không phản đối, hai người không nói tiếng nào nữa, nhưng họ xúc động lắm. Mãi Thủy mới dám ngửng mặt. Nàng bắt gặp khuôn mặt Ðiềm ở sát mình, nghiêng nghiêng cúi xuống gần ở ngang tầm môi.
- Có phải anh săp hôn em?
Nàng đỡ khuôn mặt Ðiềm, hơi hốt hoảng. Chàng lại khẽ gật đầu.
- Âm dương chạm nhau không tốt đâu, bây giờ anh còn xác phàm.
- Chẳng bao lâu nữa là anh vào đây rồi, tốt hay không tốt thì cũng như nhau.
Ðiềm nói và nâng cằm nàng. Thủy nhìn sâu trong mắt chàng thật lâu, Ðiềm đọc được trên khuôn mặt nàng tất cả băn khoăn lo lắng chen lẫn tình yêu bối rối. Nhưng rồi nàng nhắm nghiền mắt, ngửa mặt chờ đợi. Ðiềm cúi xuống đặt nụ hôn khẽ vào giữa đôi môi thơm thơm hồng. Cảm giác lạnh khô và nhạt nhạt. Người Thủy mềm nhũn đi, đôi tay cũng lạnh mát níu lấy vai chàng. Ðiềm thấy nàng lẩy bẩy run rẩy đánh rơi một chiếc guốc xuống đất. Chàng cũng đê mê sung sướng, người con gái hiền quá, ngoan quá, đẹp quá, ngấn cổ thơm ngọc lan thoang thoảng. Chàng hôn tiếp không muốn rời...
- Ê! Anh làm cái gì vậy? Tôi tìm anh từ nãy!
Chàng và Thủy lật đật buông nhau ra. Người đàn ông mặc áo ôm vạt bầu, cỗ lưỡi mèo đứng nhìn chàng chăm chăm. Người chủ miếng đất trố mắt nhìn mấy đĩa đồ cúng lây lất trên mặt đất, rồi lại ngó chàng, hiển nhiên là ông ta không trông thấy cô gái.
- Một mình anh ăn hết chừng này à?
- Buổi sáng quên ăn sáng, nên hôm nay tôi đói quá!
Ðiềm lúng túng, không biết phải giải thích làm sao. Người đàn ông ngó vỏ chai rượu Hiệp Hòa mà Khánh vất chỏng trơ trên đất. Ông ta hất mặt.
- Uống nguyên lít đế thế này, không ung thư dạ dày cũng uổng! Nhưng sao lại ăn toàn đồ cúng không thế?
Người đàn ông nhìn quanh quất mấy ngôi mả bên cạnh như có ý nghi ngờ chàng lấy trộm thức ăn. Gã lấy chân đá mấy cái xương vịt rồi nói:
- Thôi đi xem đất nào, tôi còn phải về áp phe. Như vậy là anh đã thỏa thuận giá cả với vợ tôi?
- Bà ấy bảo tôi thương lượng với anh.
- Không thương lượng gì ráo, tôi có giá của tôi, anh không mua thì thôi. Tôi không thích mặc cả.
Gã đàn ông đi xăm xăm về khoảng đất trống còn chừa nằm cách mộ Thủy hai dẫy. Ðiềm cùng bước với nàng theo sau người đàn ông. Ông ta mặc quần gin Mỹ, có thêu nhãn hiệu Levis, đôi dép sabot đế cao, đồng hồ vàng Oméga và tấm lắc bự lủng lẳng ở cườm tay. Gã đàn ông tỏ ra là dân làm áp phe chuyên nghiệp. Thủy đi theo Ðiềm, chốc chốc lại nhìn chàng lo lắng. Ðiềm chỉ biết ra dấu trấn an nàng và đối đáp cầm chừng với gã đàn ông. Ðến chỗ ngôi đất, gã móc trong túi một sợi dây thước đo nói giọng chắc nịch.
- Hai thước ngang, hai thước dọc, vuông vức như vầy mới vừa đẹp. Năm bảy mươi tư tôi mua ngôi đất này ngót hai trăm năm chục ngàn tiền cũ, bây giờ thì giá lên gấp trăm. Giá thị trường sao thì tôi để anh vậy, không bớt, không tăng giá!
Ðiềm biết chàng gặp phải tay buôn chợ trời thứ thiệt. Sau bao kỳ đánh tư sản, truy quét tàn dư, dẹp chợ trời mà gã vẫn ung dung sinh sống, phát phì mỡ màng như vậy, tay này hẳn phải có bản lãnh hơn người. Và hiện giờ hắn đang nắm đàng chuôi, chàng là người cần đất, hắn không cần bán, trừ phi giá hời.
Gã đàn ông nhăn mặt nhìn đám tranh mọc rậm rạp kín mít ngôi đất.
- Tiên sư chúng nó, trả bao nhiêu tiền cũng không bao giờ chịu cắt cỏ. Tiền niên liễm hàng năm mình đóng cho hội không biết chúng vứt đi đằng nào! Cỏ xanh um thế này thì có ỉa vào đấy cũng không ai thấy!
Gã đàn ông lấy chân đạp cỏ, càu nhàu, nhưng rồi như nghĩ ra chuyện gì có lợi, ngoảnh ngay mặt lại nhìn Ðiềm vênh váo:
- Người ta nói khi nào cỏ quanh mả khô héo chết hết, hay đất nứt thành đường thì con cháu phải cải táng. Cỏ chỗ này xanh tươi tức là đất tốt có sinh khí, xem này có nứt chỗ nào đâu! Lẽ ra tôi phải tăng giá, tìm được đất tốt không phải dễ, anh may mà không biết!
- Tôi ứng tiền trước cho anh một nửa, khi nao tôi qua đời người nhà sẽ trả nốt phần còn lại, anh bằng lòng không?
Ðiềm lên tiếng, chàng biết trận chiến mặc cả bắt đầu.
- Không đưa trước đưa sau gì ráo, biết chừng nào anh mới chết!
Gã đàn ông quay phắt lại, rõ ràng là phản ứng của gã trở nên quyết liệt gấp bội khi đụng tới tiền.
- Tôi chỉ còn sống nữa năm sáu tháng, anh không phải chờ lâu.
- Anh chết tuần sau mặc xác anh, tôi bán đất tiền trao cháo múc, sống nhờ bát cơm, chết nhờ đất cát, anh chết anh cần đất, tôi sống tôi cần tiền. Không mua thây kệ anh, tôi không vội bán.
- Ðược, tôi bằng lòng trả ngay bằng bạc mặt, nhưng anh phải bớt cho tôi một phần ba cái giá mà vợ anh đã nói với tôi. Cái giá đó anh đã nhân gấp đôi giá thị trường.
- Bớt? Trong tự điển Việt Nam quốc âm tự vị của tôi không có chữ này! Anh muốn mua đất rẻ thì đến mấy chỗ họ đào kinh thủy lợi mà mua, đất ở đó người ta xúc cho không, đổ đi không hết!
Gã đàn ông như bức tường thép, không tài nào lay chuyển. Thủy nhìn chàng lo ngại, Ðiềm thấy mình đã hơi quá vội vui mừng khi làm tiệc đãi mọi người lức nãy. Chàng không dễ dàng mua được miếng đất mà không bị cứa cổ.
- Tôi tên là Thế, mua đất xây kim tĩnh cho mình nhưng mấy năm nay bận quá chưa có thì giờ làm. Bây giờ tôi có giấy bảo lãnh của ông anh ruột không cần nữa, tôi đi Pháp nay mai, nhưng nếu anh không đủ tiền trả thì tôi để lại cho người khác. Người chết bây giờ không thiếu!
Gã đàn ông tên Thế, tự giới thiệu rồi rút dây thước ra đo đạc. Ðiềm không hiểu tại sao gã chỉ mua đất để sẵn cho mình mà không mua cho vợ. Gã đàn ông vừa đo đất vừa nói như rao hàng.
- Dài hai thước đúng, không thiếu một phân. Tôi nói đâu có sai, tính ra rẻ chán, chỉ có mấy chục đồng một mi li mét!
Gã lại cắm cúi đo đạc chiều ngang, đến chân ngôi mả mới xây bên cạnh gã chợt đứng dựng lên la bải hải:
- Thôi chết tôi rồi! Tiên nhân cái thằng nào xây lấn qua đất của mình ba mươi cen ti mét! Sư cha nhà nó! Quân ăn cướp!
Gã Thế lồng lên, chồm người nhìn xuống ngôi mả còn tương đối mới. Gã đọc lẩm nhẩm tên họ người chết, nhìn vào tấm bia trừng trừng như đang đối diện người lấy cắp đất của gã.
- Nguyễn Văn Nhâm... sinh 1761, một ngàn bảy trăm sáu mốt...! Chắc là khắc nhầm! Ðồ đểu nhà nó, không biết dạy con cháu, xây lấn qua đất người khác!
Gã đàn ông văng tục, vừa chưởi thề vò đầu bức tai, vừa đá vào hông mả mấy cái. Giận quá mất khôn gã đập luôn hai cái bình bông để trên mộ. Ðiềm chụp vội ngay cơ hội.
- Thiếu ba mươi phân đất, như vậy anh phải bớt cho tôi một phần ba giá.
- Cái gì? Tôi bán đưa đủ giấy tờ cho anh, anh lên mà kiện với công an quận, không thì cho người tới cào bố mả nó lên. Ðất này của mình, mình có quyền đào xới!
Chàng nhận ra gã đàn ông đã dùng chữ “đất của mình”. Ðiềm lắc đầu.
- Tôi không biết, việc kiện tụng là việc của anh, chỉ có một mét bảy ngang và hai mét dọc, anh không thể đòi giá cao được. Chật thế này, ai nằm cho vừa!
- Tôi gần đi Pháp, không muốn giấy tờ lôi thôi, nếu anh không muốn kiện thì thôi, nhưng tôi không thể bớt được.
- Tùy anh, tưởng đất rộng tôi mua, ai ngờ đất hẹp thì thôi, tôi lên nghĩa trang Gò Vấp vậy.
Ðiềm nhún vai. Mặt gã đàn ông đỏ gay, mồ hôi chảy nhớt trên mặt. Gã thở phì phò mặt nhăn như táo bón.
- Thôi được, tôi bớt anh một phần ba giá.
- Bây giờ không phải một phần ba nữa mà là phân nửa!
Ðiềm thản nhiên, như việc xuống giá thật bình thường. Gã Thế hét lên:
- Anh bảo sao? Một nửa giá thôi ấy à? Anh cút đi tôi không cần bán nữa!
- Anh có ông bà cụ thân sinh cũng chôn trong này phải không?
Chàng từ tốn hỏi, trong lúc gã Thế biến sắc.
- Ai nói với anh?
- Vợ anh có nói với tôi là cả gia tộc anh chôn trong này. Anh nghĩ sao nếu tôi nói với thân nhân của cụ Nguyễn Văn Nhâm nằm đây rằng anh đã đá vào sườn ông cụ và đập bể hai lọ hoa. Anh nghĩ họ sẽ phản ứng như thế nào, nếu tôi chỉ mả của ông bà thân sinh ra anh? Dĩ nhiên là tôi sẽ nói luôn là anh muốn chạy tiền công an cào mả ông cụ lên chắc họ không hài lòng đâu!
- Anh, anh... dám làm điều đó?
Gã Thế lặng người nhìn Ðiềm, mồ hôi chảy võng trên mặt. Gã hung hãn bao nhiêu khi mới vào, lúc này xanh mướt hiền lành chẳng khác một kẻ buôn chui bị bắt.
- Dĩ nhiên là tôi không làm chuyện thất đức đó rồi, nếu anh chịu để cho tôi phân nửa cái giá chỗ đất này.
Ðiềm đưa tay chỉ chỗ mấy lùm cỏ um tùm. Chàng biết gã Thế đã giao động lắm và mình đã thắng cuộc mặc cả. Buổi chiều ôm nắng qua vòm nghĩa trang. Gió thổi hiu hiu những lọn tóc Thủy bay bay nhè nhẹ đong đưa. Nàng nhìn Ðiềm mỉm cười ranh mãnh, đan năm ngón tay nhỏ vào tay chàng. Bầu trời vẫn xanh biếc không gợn mây, nhưng nghĩa trang đã mất đi cái âm u rờn rợn lạnh lẽo, thê lương của nơi cúng tế. Bên cạnh người yêu, Ðiềm có cảm tưởng chàng đang đứng trong một khu an phúc, nơi cuộc đời tàn bạo là gã con buôn kia đã chịu thua. Chàng xiết tay Thủy tin tưởng. Nàng gật đầu khuyến khích. Ðiềm trông thấy thấp thoáng bóng của Khánh và Thìn đứng ngoài rình nghe. Ðiềm mạnh dạn lên tiếng:
- Anh suy nghĩ lẹ lên chứ! Chiều rồi tôi còn phải đi, nói tôi một tiếng anh có bằng lòng hay không? Bớt phân nửa giá, anh vẫn còn lời mà!


7-1991



























Cánh đồng mùa gặt khô





Cách đây không lâu, một lần tôi nhờ Tam đến nhà làm hộ bữa tiệc. Tam đi vượt biên từ miền Bắc, ngoài giọng nói phát âm nặng hơi của vùng núi đá vôi Ninh Bình, anh còn đem sang đất Pháp cả thuật nấu ăn kỳ diệu. Tài bếp núc của Tam không chỉ ngon ở miếng dồi tiết bầm sả, lúc đem nướng tỏa bốc thơm ngào ngạt, hay trong mơn mởn ở bát canh cải có ngâm gừng, nổi xanh non nõn từng cọng cải tươi che giấu miếng giò gà trắng mịn. Cái khéo của Tam là ở chỗ làm cho thức ăn trở nên thật bắt mắt, quyến rũ, lôi cuốn đến điên người. Quả tình có đứng ở bên cạnh, trông thấy anh làm bếp thì mới triệt thấu rõ hết những tài hoa điệu nghệ trổ vươn đâm ra từ mười ngón tay phù thủy của Tam không ngớt vung vẩy, múa may thoăn thoắt, lúc anh nhồi vào thân mực ống nào thịt bầm, nấm hương, hành tỏi xắt vụn trộn với miến. Xong món mực ống là Tam bắt đầu thái thịt. Cả một dẻo thịt bò cứ thế lụn dần rồi biến mất. Con dao to bản tôi mua ở chợ Sắt được dịp hoa vun vút. Trông xa Tam như người thuật sĩ đương múa kiếm. Chẳng vậy mà từ khi biết Tam, tôi vẫn thường có thói quen thích lượn lờ bên cạnh mỗi khi anh làm bếp, bởi tôi vốn có nhiều thiện cảm với món mực ống nhồi làm theo kiểu Hải Phòng, lẫn cảm mến đức tánh rất mực hiền hòa của Tam. Bữa đó, tôi nhớ có hỏi Tam: Vì sao anh hay làm các món ăn miền bể, mà ít khi chịu cho chúng tôi thưởng thức nghệ thuật bếp của quê hương anh ? Ninh Bình chắc hẳn có nhiều món ngon vật lạ như trên khắp các miền đất nước ? Hôm ấy tôi chỉ hỏi đùa, ai ngờ câu hỏi của tôi lại làm Tam mất hẳn sinh khí của một người đầu bếp đương hăng. Anh ngừng hẳn tay, thõng cho lưỡi dao hươi xuống đất, dáng vẻ của Tam giống dáng dấp của một người viết văn bỗng nhiên khựng lại vì bị ai hỏi xoáy vào tận cùng chốn tư duy giấu kín. Bản dao chênh chếch, lóe chút sắc kim lạnh phản chiếu lên mặt, xuất nắng hiu hiu của Paris đầu hè càng làm cho vẻ mặt Tam thêm tiềm ẩn. Tôi nhớ lúc ấy, ánh kim loại bật lên làm mặt anh như bị chẻ đôi. Mà là thứ vệt cắt từ trong ra ngoài. Cặp mắt Tam hấp háy, anh ngập ngừng chùi tay vào quần, rồi mới rút vội điếu thuốc tôi mời. Tam rít vài ngụm khói, trước khi phả ra ngoài cửa sổ. Lẫn trong màn khói làm như cũng có chất suy tư nặng sền sệt, dầy dặc len vào những bụi cây. Lần nào đến nhà tôi, hình như Tam cũng chỉ làm có ngần ấy cử chỉ: thái thịt, xắt hành, bầm sả, nhồi mực, đánh vẩy cá, pha tiết, rồi thở cho khói bay qua ô vuông cửa. Ðến lúc điếu thuốc cháy gần hết, anh mới quay lại, giọng buồn buồn: Ninh Bình quê anh nghèo lắm, chỉ có vôi và núi đá. Núi, Vôi, Ðất, Ðá là quê hương, nhưng những thứ đó không ăn được. Muốn ăn ngon thì phải đi xa, thật xa, càng xa bao nhiêu thì vật lạ của ngon càng nhiều chừng ấy. Ở đời thường có nhiều chuyện ngược ngạo, chính những kẻ nghèo khó, không may mắn, cơ cực ở đời lại là những người dám bán mạng vì miếng ăn, là những kẻ khó ăn, sành ăn, và thích ăn. Tam nói là anh ở trong số những con người ấy. Tam bỏ Ninh Bình ra Hải Phòng vì những lưới cá tươi, cách hấp cá, làm bún, rang cua, nhồi mực của những phu phen ven bến cảng. Hải Phòng thì có gì mà đẹp. Thô lậu bỏ cha! Tam chắc lưỡi mỉa. Chỉ được nước bạo phổi, bạo ăn, bạo đàn đúm, chẳng thế mà phát sinh ra điệu hát Ðúm Hải Phòng, tương tợ như hát quan họ Bắc Ninh, nhưng giản dị và bình dân, ít rườm rà, “nhộn” hơn nhiều. Nhưng cậu đừng tưởng bở là bọn Hải Phòng hiếu khách! Tam lên giọng bất chợt. Anh lấy cán dao gõ gõ đập đập vào mặt bàn như muốn nhấn mạnh, hù họa kẻ chưa bao giờ trông thấy miền Bắc là tôi. Hải Phòng là đất thảo khấu! Dân anh chị có, bọn buôn chui chém mướn có, đảng viên thoái hóa có, cán bộ nòng cốt đi đêm có, tàn dư phong kiến địa chủ tái sinh cũng có, tất cả mọi người hội tụ về chỗ điểm nóng ấy để giành nhau chút khoắng bể nhổ neo cho tàu rời nước. Kỳ quặc là ở chỗ đó. Ở miền Bắc sau này ăn là lẽ sống, được ăn nhiều, uống nhiều... thoải mái, tức là có thực thi dân chủ! Dĩ nhiên cái ngon ở Hải Phòng không thể nào sánh bằng miếng ngon Hà Nội. Bánh đúc, bánh tôm, cốm vòng, tiết canh vịt... từ thời Lý Công Uẩn cho tới đời Lê mạt ở Hà Nội thì vẫn tuyệt sắc. Nhưng ở Hà Nội, ăn giữa khung cảnh sừng sững của lịch sử, nhấm nháp bát bún chả mà cứ khổ não vì chung quanh chứng tích công đức của tiền nhân nhiều quá, công khó oai hùng ngày xưa nhiều quá, rực rỡ là thế mà thời đại mình thì cứ tàn lụi, tâm thần ray rứt thì còn bụng dạ đâu mà thưởng thức. Bốn bề tiền nhân, văn hóa bao đời, từ cái cổng Văn Miếu, đến ngôi đền Quan Thánh, tượng Trấn Võ... sao mà lắm! Của ngon có dâng đến miệng cũng chả nuốt được. Nghẹn! Phải nói là mình bị nghẹn!



Tam uống bia, lý giải cái phần tâm linh nhầu nát trong anh những ngày còn ở quê nhà. Cách kể chuyện, lối so đo của Tam có vẻ hơi cường điệu, giống lối kể chuyện của những người Bắc vào Nam sau năm 75, khiến tôi đâm ngờ ngợ, nghĩ là anh nói quá. Ăn ở đâu thì ăn. Cớ gì phải sợ hãi lịch sử ? Ngày trước tôi vẫn thường hay ăn dồi chó bên hông Lăng Ông Bà Chiểu, mà có mặc cảm bao giờ đâu? Chừng như đoán ra được ý nghĩ trong đầu tôi, Tam chắc lưỡi: Cậu không tin thì cứ về du lịch nước mình một chuyến. Ra Hà Nội vào ăn chả cá ở quán Lã Vọng thì sẽ thấy, chan mắm tôm lên bún mà sao mùi mắm với mùi rau thì là cứ xông lên đến là bẽ bàng. Mỡ xối lên cá kêu xèo xèo cũng không đánh thức được những rạo rực trong bụng mình. Chỉ vì không khí, khung cảnh, con người, cuộc sống ở Hà Nội nó nhếch nhác thế nào, không giống ở Hải Phòng.

- Nhưng ở Hải Phòng thì khác ra sao ?

Tôi nóng nảy, bộp chộp hỏi.

- Khác chứ!



Tam chìa ly cho tôi rót thêm bia. Những sóng bia vàng óng ánh, tưởng là sóng biển xanh ngoài vịnh Bắc Việt còn đọng trong mắt Tam lăn tăn. Khác lắm. Bát bún tàu xào cua bể ăn ở Hải Phòng không chỉ có nấm mèo, thịt cua, hành ngò, mà còn trộn lẫn mây trắng, ước mơ của thuyền bè đến từ biển lớn. Sau này Hải Phòng là trung tâm xuất khẩu người đi Hồng Kông. Ăn ở Hải Phòng, là ăn với tâm trạng nắm bắt được tương lai trước mắt. Bát miến cuối, ngày mai đời nở hoa! Mình sống với ý nghĩ không còn vướng bận, trách nhiệm gì với 4000 năm lịch sử đang vây kín chung quanh mình nữa. Thoải mái ăn, tự do ăn, hạnh phúc dân chủ mớm được tới nơi... ! Tam cười ha hả, giọng Bắc đậm đà hào sảng. Cười đã đời rồi anh vụt im lặng, trở lại làm bếp, như thể anh chẳng còn liên quan gì đến câu chuyện nữa. Tam nhẫn nại thái da heo ngâm vào nước nóng, rồi giã gừng lấy tinh chất, chế vào thau nước lạnh, cho thêm rượu trắng, thả bóng bóp nhẹ... Không trông thấy mặt, song tôi biết anh xúc động lắm, bởi cử chỉ Tam không còn nhịp nhàng, đứt quãng, như anh phải thừ người suy nghĩ để nhớ ra mình đang làm gì. Chén rượu trắng pha nước lã trong tay Tam cứ chao nghiêng ngả như chỉ chực đổ. Cách “hãm”, lối kềm chế những tình cảm vui buồn, thất vọng, khổ não, bất ngờ dậy dâng trong lòng Tam khiến tôi cũng buồn lây. Những thống khoái, há hê, tin tưởng vào cuộc đời ở những con người như Tam, sang đến trại Cấm Hồng Kông bỗng nhiên bị đập vỡ, đập vụn, tan thành từng mảnh. Có là con vật cũng phải chua xót.

Bữa tiệc chiều đó, tôi ăn không ngon, nuốt không vui. Miếng rượu cay cất mười hai năm trong chai đục, nút có đóng sáp, mua với giá một ngày lương mà rót vô miệng vẫn thấy đắng.



*



Hình như tôi có duyên với Tam. Tuổi rượu tôi thua tuổi rượu anh, thế giới của tôi khác xa thế giới của anh, tôi sinh trưởng trong một gia đình tiểu tư sản thành thị miền Nam, không biết thế nào là đói, khổ, là oằn oại nhão người. Song giữa tôi và Tam hình như còn có một cái gì khác, phải lâu lắm sau này tôi mới nhận ra trong anh là cái phần thằng người miền Bắc trong tôi không được sống. Nó ở đó. Chờ đợi. Câm nín và chờ đợi. Nhưng chờ đợi điều gì ? Bao nhiêu đêm tôi thức trắng tự hỏi ? Tôi cần gì ? Kiếm gì ? Và tìm gì ở cái đất nước này ? Ðất nước ba trăm sáu mươi lăm ngày thuế má. Ðất nước đi rửa chén cũng phải có bằng. Ðất nước ăn ngủ mối tình đầu không thấy người yêu nhỏ giọt nước mắt khóc cho phần trinh tiết đánh mất.

Một lần khác, tôi rủ Tam đi dạo phố. Phố xá ở đây thì chỉ có hàng quán. Sang ra khu Khải Hoàn Môn, nghèo lầm lũi trong những con đường hầm ngun ngút mắt. Không có thành phố nào tồi tệ, sống chui rúc dưới đất bằng Paris. Mồ hôi, thuốc lá, son phấn, bọ rận chen chúc nhau trong những toa tàu cáu bẩn. Bên trên sự cáu bẩn đó là quán Fouquet. Trời mùa hè, nắng phơi bên trên những tàng dù lấp phấp. Tam gọi một ly đế William Bon Père. Tôi kêu hai chope bia vàng ngậy. Lúc tôi uống hết chope thứ nhất, một tên Ả Rập đi ngang, giọng hát nghìn lẻ một đêm vang từ máy cassette trên vai hắn đong đưa rên rỉ thiểu não chảy vào giữa dòng người cuồn cuộn khắp mặt lộ. Tiếng hát Ả Rập nghe trước quán Fouquet, đối diện tiệm nhảy Lido tương phản đến lạ lùng. Tôi có cảm tưởng phải nghe cải lương trong Caféteria Rex. Song Tam lại tỏ vẻ thích thú. Anh bảo tôi thằng này khá đấy. Ngày xưa có lần đi Tunisie, dẫm chân vào khu sa mạc cát vàng, tôi cũng có lần bắt gặp thứ âm thanh nỉ non, rung nhiều ở đầu lưỡi, và “láy” bằng cổ họng vang vang trên mặt đất. Quả tình, chỉ có trên sa mạc, nhạc Ả Rập mới cất hết sức chuyên chở kỳ bí của nó. Âm thanh cứ kéo dài ra mãi. Nhạc Ả Rập lạ ở giọng ngân, một thứ ngân gần như khốn khổ đứt hơi, mà cứ phải ngân hoài hủy. Chuyến autocar bỏ chúng tôi xuống bách bộ, chỉ có một máy transitor nhỏ của người tài xế mà tiếng ngân như đi suốt sa mạc. Ði hết cả một nền trời đỏ cát lừng lững nắng. Có tiếng nhạc mắc võng trên đầu những trụ điện tồi tàn của Tunis, luồn lách trong chợ Souk, băng ngang cổng đền cấm đàn bà, và bám trên những mảng thịt cừu đỏ tươi treo bằng móc đen đặc ruồi bu, thì mới thấy hết cái hay của nhạc. Nhưng ở đây, trong khu Khải Hoàn Môn sang trọng, âm thanh trở nên lạc lõng kỳ dị, gần như một thứ quái thai. Vậy mà Tam lại bảo khá! Tôi nhìn Tam không mấy hiểu. Tam chiêu một hơi đế, hỏi ngược:

- Cậu có dám vác máy ra đây phát nhạc hồ quảng, cải lương không ?

- Anh khùng à! Tây nó cười cho.

- Thế thì cậu thua thằng Ả Rập rồi. Niềm tự hào dân tộc của hắn mạnh hơn cậu.

- Tự hào không đúng chỗ!
- Ừ, đúng. Tự hào không đúng chỗ. Nhưng vẫn cứ là tự hào.

Tam uống cạn ly đế. Không nói gì nữa. Như đã rời xa, trở về đất nước. Cái con người ham sống, thích ăn, thích uống ở anh như biến đâu mất. Cả cái kẻ làm bếp tài hoa sống động cũng không còn ngồi đó nữa. Tam có lẽ đã trở về với những khoảng sân thượng chìm trong màu lam đục của buổi chiều tắt nắng Hà Nội. Tam có đôi mắt mệt mỏi, khuôn mặt mang nhiều vết tích cuộc đời, ở nhân dáng anh hình như chỉ đội chiếc mũ phở là hợp nhất. Mà Tam có lẽ cũng chỉ hợp với vị trí anh hàng phở, tự hào về nồi nước gia truyền, về thế đứng chỗ đậu của chiếc xe kéo thơm lừng nước dùng. Nếu lùi được nửa thế kỷ, Tam sẽ là anh hàng phở Sức. Chậm nửa thế kỷ, anh ngồi đây, dưới chân Khải Hoàn Môn vĩ đại, nhưng vô dụng. Ngồi quán chán, tôi với Tam về nhà. Nắng sắp tắt, còn phải lo bữa chiều.

*
Tam mở chạn bếp, lấy vỉ sắt, bật ga cho nóng rồi mới thảy một chân giò heo lên trên. Ðùi heo săn ngay lại, bắt đầu đen cháy. Bao giờ mùi thịt nướng cũng khơi dậy hình ảnh trong trí óc tôi. Miếng dồi chó tím lợt, hay miếng chả nướng bằng than tàu đỏ rực chảy nhễu mỡ ròng ròng cứ ám ảnh đeo đuổi tôi hoài. Tôi mở tủ tìm rượu. Bản nhạc Ả Rập lúc nãy đã tan mất, chỉ còn mùi vị quê hương thơm lừng ngầy ngậy giữa gian bếp. Tam vừa giã giềng, trộn với yaourt thay mẻ, vừa kể chuyện những năm sống dưới thảm bom B-52, chỉ có thịt cầy là bán chạy nhất. Hình như ai cũng sợ chết trước khi kịp thưởng thức. Anh đương dở tay, nên nhờ tôi trở thịt. Cả một mảng đùi heo đen rắn bốc ngào ngạt. Tam nhấp một ngụm Rhum, khà trong tiếng reo:
- Úi chà ! Cái thằng Rhum này tuyệt! Hắn là cái thằng hay gắt gỏng, mà chịu nằm yên trôi lừ lừ qua cổ họng mình thì khá! Năm nào ?
- Một chín bảy tám.

Tam ngửng vội nhìn tôi, vẻ mặt anh có nét sửng sờ. Tam nhấp thêm ngụm nữa rồi sang sảng kể: Năm bảy tám cậu ở đâu? Ngoài Bắc chuẩn bị chiến tranh chống Bá Quyền, mình hùng hục đào hầm ở biên giới, ai ngờ bên này có thằng nấu ruợu vô chai đợi mình sẵn... kỳ diệu! Quả thật đúng là kỳ diệu. Năm bảy tám gia đình tôi bị đánh tư sản, kiểm kê từ cây đinh đến con ốc. Thuế siêu ngạch, nghĩa vụ quân sự rình rập. Mối tình đầu tan vỡ. Bằng phổ thông cấp ba hụt thi. Trốn chui trốn nhủi sau những cồn cát Phan Thiết đợi đi chui... Chai Rhum vơi bén đi quá nửa. Chết thì thôi, nhưng sống phải uống cho bằng hết cái thứ nước kỳ diệu này. Có chất đốt, tôi với Tam thi nhau nổ chuyện. Tam kể ở Hà Nội có thứ rượu sen cất ven hồ Tây, trời chiều mưa lạnh uống vào nóng ran mình mẩy, mà hương sen còn đọng ở đầu lưỡi. Tôi không chịu kém, kể ở Củ Chi có thứ rượu hạ thổ chỉ mới ngửi qua đã nóng bừng mặt. Tam cười ha hả, bảo cậu rời Việt Nam còn thơm sữa biết thế quái nào là hạ thổ! Sợ nhà thổ cậu cũng chưa biết ?
- Ừ thì biết qua sách vỡ.
Tôi cứng lưỡi, chống chế. Tam càng cười lớn. Giọng cười của anh tôi để ý bình sinh ròn rã, chỉ có những lúc tuyệt vọng thì nghẽn như cái kèn đồng bị đổ nước.
- Này, bắn đi.
Cái kèn đồng chiều nay trơn tru, với tay lấy gói thuốc lào ba số 1, nhãn đề bán ở cửa hiệu Lý Thái Tổ, vo, se nhồi rồi đưa tôi đốt. Tôi bắt chước Tam tập hút từ hơn một năm nay. Từ khi “chạm” thuốc ta, tôi đâm mê mẩn, hút thuốc điếu không còn thấy ngon. Ðóm thuốc xòe lên, ngọn lửa vừa tắt thì gót chân tôi cũng tê rần. Trong cái bải hoải rã rời của tứ chi, mạch máu nở ra, tôi loáng thoáng nghe tiếng ríu rít như chim hót từ chiếc điếu cày trên tay Tam. Tiếng kêu của điếu cày nghe thật hay, khi buồn nghe như giọng thút thít của người con gái nức nở đêm tân hôn tấm tức khóc cho mối tình đầu, lúc vui vẻ nghe như con gà trống gân cổ gáy, khi giận thì chẳng khác mấy mụ nạ dòng đang rít qua kẽ răng. Thuốc lào không chỉ là thuốc, mà là cả một nền văn minh! Tam mạnh mẽ phát biểu trong lúc tôi lờ đờ. Bao nhiêu sáng tạo, thử thách, kinh qua để rồi mới chiêm nghiệm phải châm bằng đóm mới ngon. Ðốt thuóc lào bằng quẹt ga thì hỏng. Bằng diêm quẹt cũng hỏng nốt. Châm bằng Zippo thì chẳng khác mọi rợ mán mường. Ðem thuốc ngoại, thuốc tẩu mà nhồi thì hút không thấy hơi, bã bèn bẹt chả ra đâu vào đâu. Bởi thuốc lào sấy nắng, bao nhiêu gio’ sương nắng nôi của đất nước làm thành.
- Cậu ếm cả nắng gió quê nhà vào buồng phổi thì thấy, không có cái say nào bằng say quê hương!
Tam thở khói. Tôi gật đầu, còn lơ đãng trên những cánh đồng ruộng lúa ở nơi đâu, chưa đứng dậy được. Tam đã giở đùi heo đem xuống cạo, chặt thái hình quân cờ, rồi bóp riềng mẻ mắm tôm. Nồi thịt tím ngắt hoa cà. Cậu đem hầm đi, mình chuẩn bị thức ăn chơi. Tam rửa tay, lại sục vào chạn bát. Tôi lễ mễ bưng nồi thịt đặt lên bếp, lửa ga phừng phừng đến nóng mặt. Mười đầu ngón chân tôi hãy còn tê. Chỉ có một chút khói quê hương sao mà say.
Cái bàn sắt tôi với Tam khệ nệ khiêng ra sân sau. Ðêm hè gió mát rượi làm khô những giọt mồ hôi chỉ mới rịn trên da vụt tan ngay. Tôi đi đốt đèn dầu, không phải cúp điện, nhưng tôi với Tam vẫn ưa thứ ánh sáng tù mù vàng võ bâng khuâng, cháy èo uột của những đêm mưa, hay những đêm ngoại ô bắc ghế đẩu ngồi tán chuyện. Ánh đèn Hoa Kỳ hắt loang xuống thềm. Tôi khui rượu. Tam bày hai đĩa tiết mới đánh. Không có tiết vịt, đành đánh tiết heo. Tiết heo bán đong chai, một lít pha được không biết bao nhiêu đĩa. Tôi vắt chanh, ngắt rau thơm, cắn một miếng mề, nhai một quả ớt, rồi nhấm thêm một mẩu gan, bao nhiêu chất ngọt của tiết hòa vào mạch máu mát mẻ đến sảng khoái. Tôi rót rượu liền tay. Chiếc bóng của Tam ngả hẳng người ra bàn, mặt anh ửng đỏ trông như mặt Quan Công về hưu. Tam bắt đầu ngà. Ở Hà Nội lạ lắm. Mai mốt cậu về chơi sẽ thấy. Có những ngôi nhà cũ không tưởng tượng, rêu ẩm bám đen từ mặt trong ra mặt ngoài. Ngủ đêm cứ rờn rợn. Miền Nam mới quá, không dấu ấn của lịch sử. Nhưng ở Hà Nội, lắm lúc lịch sử cứ sờ sờ ra đó, bình thường mình không để ý, nhưng đêm nằm có lúc thảng thốt chợt nhận ra đầu ngõ là chỗ Chiêu Thống đón Tôn Sĩ Nghị chứ đâu xa, có khi cả cái nhà mình cũng là nhà của Nguyễn Hữu Chỉnh lúc trước. Nằm cứ toát mồ hôi. Mới hôm qua chứ bao lâu! Cái đất Thăng Long lạ. Ði xa như Nguyễn Hữu Chỉnh rồi cũng phải về chết ở đó. Mà chết tan xương nát thịt mới đau.
- Nguyễn Huệ không biết dùng người! Tự chặt tay chân mình thì sống với ai?

Tôi vét nốt đĩa tiết, tự nhiên thấy mình nóng nẩy vô lý. Tam đang đơm bún vào bát, ngắt rau húng, chan xâm xấp giả cầy, ngửng nhìn tôi ngạc nhiên :
- Ai bảo cậu thế?
- Chẳng ai bảo, nhưng thảm kịch của đất nước là từ khi Nguyễn Huệ tự ý đại cử Bắc phạt đấy thôi? Nồi da xáo thịt tự đó mà ra.
Không phải!

Tam đập mạnh ly xuống mặt bàn, rượu sánh cả ra ngoài. Những vũng rượu vang đỏ thẫm. Tôi cũng biết rượu vào lời ra nhưng không ngờ Tam cáu kỉnh đến thế. Anh nhai ớt rồn rột :
- Bi kịch của đất nước này xãy ra ở làng Hạ Lôi, cậu biết chưa? Cái làng ấy có tay Lý Trần Quán làm Thiêm Sai, lúc Chúa Trịnh chết thì tự chôn mình, chết ngu xuẩn thế mà người đời cứ xem như bậc nghĩa khí!
- Trung thế thôi anh còn đòi ?

Tôi cắn một miếng riềng, nhất quyết không chịu thua. Gì chứ chuyện lịch sử, tôi thuộc làu làu, lúc còn đi học trả bài bao giờ cũng được điểm cao. Trời sụp tối hẳn. Cái bàn sắt của hai chúng tôi nhô ra vườn trông như boong tàu thắp sáng lênh đênh trôi dập dềnh ngoài đêm. Mà chúng tôi cũng lênh đênh dập dềnh thật. Mấy tàng lá xum xuê trên đầu cứ ngả nghiêng chờn vờn, lất phất đong đưa như chỉ chực rớt xuống bàn. Bữa rượu đã lên tới tột đỉnh. Tam ném vỏ chai vào một góc vườn, khật khưỡng khui thêm chai nữa. Nắm tay anh xoay theo cái vặn quả quyết :
- Trung với ai, chứ với cái nhà chúa Trịnh thì mình ngờ lắm!

Bọn viết sử khen chê không đúng chỗ! Sao không nhắc cái công tôn phò nhà Lê hai trăm năm? Bằng chứng: Chúa vong thì Lê mạt!
- Ừ thì Lê mạt. Nhưng Hiển Tông, Chiêu Thống là cái gì ? Nhà Tây Sơn mới là cuộc cách mạng đích thực! Tay Lý Trần Quán đổ tiến sĩ nhé. Mẹ chết thì ở nhà mồ ba năm, không ăn thịt cá? Hắn làm thế để làm gì? Sao không ra giúp Nguyễn Huệ lại tự chôn sống mình? Làm màu à? Thảm kịch của đất nước là bởi bọn “trung trinh tiết tháo” kiểu ấy. Cho ăn học phí đi ! Hai trăm năm rồi mà ở Hà Nội lẫn Saigon cứ còn đường Lý Trần Quán, người ta theo tấm gương ấy đến độ đất nước lụn bại!

Tam nói một hơi. Chất rượu trong người anh bốc ra như giông gió. Tôi cũng say lắm, miệng lúng búng bún lẫn giả cầy. Vài miếng măng thái, ít củ chuối, hai ba miếng da lợn cháy vàng nổi lên mặt bát. Tôi và cho hết chén, làm cạn ly rượu, rồi phản pháo :
- Thiết tha, trăn trở cho bi kịch đất nước, thế sao anh còn qua đây làm gì?

Sắc màu hồng đỏ au trên da mặt Tam vụt trở nên xám lại. Tôi chỉ hỏi câu châm biếm, ai ngờ, ai ngờ cả thân mình anh cứng lại. Vai Tam nhô lên cao lắm, như thể anh muốn rụt đầu trốn tránh. Trông anh như bức tượng tội nghiệp hôm nào, và cái vệt cắt trên da mặt – cái vết chém từ bên trong – Tôi đã trong thấy một lần ở sau bếp khi hỏi Tam về trại Cấm Hồng Kông, cái vệt chém đó như bất ngờ mọc ra trở lại, năm ngón tay Tam cũng cứng lại làm rơi đôi đũa. Tam ngồi bất động, như trớ lưỡi, tròng mắt anh vừa ngượng nghịu, nửa xấu hổ, nửa giận hờn tại sao tôi lại hỏi như vậy? Vẻ mặt Tam lúc đó tôi không quên được, song tôi không dám ngó anh lâu, không khí đang hăng của bữa tiệc bỗng chùng hẳn xuống. Tam bất chợt cười ngúc ngắc, tiếng cuời như khóc của cái loa kèn nghẽn nước.
- Qua thì sao? Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu cũng lưu vong mà?
- Các cụ có làm được gì đâu ?

Tam im lặng. Biết anh không muốn trả lời, tôi lảng chuyện bằng cách rót thêm rượu vào ly. Tam nạp liên tục như muốn khỏa lấp. Một, hai, ba, rồi bốn, năm ly, chẳng mấy chốc anh đổ kềnh ra ghế.

Tam “lật” rồi tôi mới thấy mình lạc lõng. Khu vườn rộng hẳn, dài mênh mông gấp bội. Một đống vỏ chai, thau bún rỗng, nồi giả cầy cạn, nhưng còn rượu. Giá tôi đừng hỏi điều ấy, chắc bữa rượu hãy còn vui. Lần đầu, tôi trông thấy tận mắt đau khổ của một kiếp người. Tôi khui hết những chai rượu còn sót. Uống một mình. Từ năm 78, tôi đã uống hết bao nhiêu chai rồi?


1988


















Truyện vừa









Giáo Sĩ





1





2





3






































Sài gòn , ngày lạ mặt







Trần Vũ



Tôi trở lại đường Trương Minh Giảng bây giờ mang tên Lê Văn Sỹ. Thận Nhiên chạy xe Dawoo phía trước, tôi lái chiếc Cub phía sau. Nắng loang loáng trên mái tóc Nhiên nhẵn thín. Nắng loá con đường giữa trưa sáng bóng các biển hiệu. Nhà may Thủy Tiên, hiệu sơn Tất Thành, Karaoké Thời Mới... Một giờ trưa, nắng toé lửa. Chúng tôi hứng trận nắng như hứng những mảnh mặt trời nguyên vẹn rớt ụp xuống mặt. Tôi muốn dừng xe uống nước, nhưng Nhiên vẫn lầm lũi chạy tiếp, thỉnh thoảng quay lại kêu: ‘‘Nhà anh Mậu khó kiếm lắm’’. Tôi nghĩ Nhiên lạc, vì chúng tôi quần tới quần lui khúc giữa Sư Vạn Hạnh và nhà thờ Ba Chuông. Trận nắng nhảy múa trước giỏ xe cub như một ảo ảnh. 



Tôi trông thấy lại cảnh gia đình hốt hoảng chạy ra phi trường Tân Sơn Nhất. Tôi trông thấy lại cảnh chen lấn giữa tiếng súng Quân Cảnh cố vãn hồi trật tự. Thầy căng thẳng cực độ lái xe Toyota chở chúng tôi im thin thít tìm cách rời khỏi Sài Gòn hỗn loạn. Cũng con đường này, qua khỏi đường rày xe lửa, nhà thờ Ba Chuông đâm lên Lăng Cha Cả, tôi bó gối sợ hãi trông thấy một thanh niên bê bết máu phóng xe Honda lao ngược chiều la lớn ‘‘tụi nó chiếm Tân Sơn Nhất rồi’’ và gương mặt Thầy nhăn nhúm tuyệt vọng. Thầy quành xe lao về hướng Khánh Hội tìm một đường sống khác. Vô ích, Thầy không biết Thầy sẽ chết 13 ngày sau đó khi lá cờ Quyết Chiến Quyết Thắng bay trên nóc hầm De Castrie tại Ðiện Biên Phủ một lần nữa phất lên ngạo nghễ ‘‘hãnh tiến’’ trên đường phố Sài Gòn của tháng 5 im lặng. Thầy không biết, Thầy sẽ vĩnh viễn yên nghỉ tại đây, trên mảnh đất này, nơi Thầy di cư tìm đường sống tháng 9-1954.



Bà gởi tôi đi vượt biên thực hiện một hoài bão đã có từ những ngày Hà Nội sau tản cư. Bà gởi tôi đi, nhưng tôi trở về để chứng kiến lại một lần nữa, nỗi tuyệt vọng của gia đình buổi sáng 30 tháng 4 trên con đường này. Những tuyệt vọng hãy còn loang loáng ẩn hiện trên các mặt tiền những ngôi nhà đường Trương Minh Giảng. Những lớp cửa sắt im phắc. Những cánh cổng của những ngôi nhà ban trưa đóng kín, im ỉm. Tất cả giống câm điếc, giống những mặt người không thốt thành lời, chỉ có những dấu hỏi ngầm giữa tròng mắt: ‘‘Tìm gì? muộn rồi.’’



Tôi nhìn mặt đường. Tôi nhìn hai hàng cây. Tôi nhớ rõ, chỗ này bánh bao Ông Cả Cần, chỗ kia bò nhúng dấm, Thầy vẫn đưa gia đình đến ăn những tối thứ bảy. Tôi còn nhận ra hàng hiên lớp hội họa truyền thần bà ghi tên cho tôi học vẽ bây giờ là tiệm mát xa chân với đèn ông sao xanh đỏ. Vẫn con đường này, như không thể có con đường nào khác, vẫn là những thước nhựa tôi đã dẫm lên thời bé, nhưng đã là lớp nhựa tráng tên người khác.



Lê Văn Sỹ, tôi không biết là ai, nhưng tôi biết Trương Minh Giảng đánh Trấn Tây Thành, chiếm Kampuchia. Sao Trương Minh Giảng cũng thi hành nghĩa vụ quân sự quốc tế, giải phóng nhân dân Khmer mà tên ông bị bại đi trên các cột đèn này? Còn sống chắc ông nổi cơn thịnh nộ. Còn sống, tôi với Nhiên không dám nổi cơn thịnh nộ. Thế hệ tôi thiếu dũng, kiên, cường. Thế hệ tôi sợ hãi ở mỗi ngã tư đèn xanh đèn đỏ bị công an kêu lại xử lý.



Nhiên đỗ xe. Chúng tôi đi tìm một nhà văn miền Nam.



Miền Nam? Một quốc gia biến mất. Văn chương miền Nam? cũng biến mất. Còn Dương Nghiễm Mậu? Một gương mặt bí hiểm. Thế hệ tôi chưa kịp đọc ông. Chúng tôi hãy còn quá nhỏ, dù miền Nam tràn ngập sách báo, dù chúng tôi đi thuê truyện mỗi chiều, ngốn ngấu Duyên Anh, Nguyễn Thanh Trịnh, Ðinh Tiến Luyện, Từ Kế Tường, Nguyễn Ðình Toàn... Chúng tôi chưa ai đọc Gào Thét, Buồn Vàng, Ngày Lạ Mặt, Cũng Ðành,... Dương Nghiễm Mậu ở một thế giới nào đó vô cùng xa xôi mà chúng tôi không thể mường tượng. Tháng 4-75 đến quá sớm để tuổi trẻ kịp tận hưởng.

Dương Nghiễm Mậu tiếp tôi với Nhiên trong ngôi nhà lát đá mát lạnh. Không khác mấy khí hậu trong truyện ông, khô, lạnh lẽo. Mỗi tiếng động đều hàm chứa một nội dung rõ rệt, tựa như những điều muốn nói phải qua một phiến lọc khác dành riêng cho những ai có khả năng hiểu ra. Dăm bức sơn mài Dương Nghiễm Mậu làm lấy treo trên vách. Một gói thuốc Con Mèo gần cạn. Tủ sách để tượng trưng trống rỗng.

Tủ sách của một nhà văn miền Nam sau ngày “giải phóng” trống rỗng. Tôi nhìn tủ sách kỳ lạ. Thầy cũng có một tủ sách và tủ sách ấy ăn vào tuổi thơ tôi không hề biến mất. Tôi không thể nhớ tủ sách đem về khi nào, chỉ biết, từ lúc có trí khôn, tủ sách đã ở đó, chễm chệ và sừng sững. Thầy buôn bán theo truyền thống Trung Hoa, nhưng tủ sách chiếm nửa bức tường. Chiếc bóng của chúng tôi, của kẻ ăn người ở trong nhà luôn chao lượn lên khung kính phản chiếu những hình ảnh lặng lờ. Những khi tôi ngủ quên trên ghế đệm, tủ sách ngả chiếc bóng đen đè lên mình. Khi tôi thức giấc, chiếc bóng hoá trở lại thành tên khổng lồ mặt gỗ chứa thật nhiều sách rình rập canh chừng. Nhưng tôi lớn lên và nỗi sợ hãi biến mất, chỉ còn những tò mò thấp thoáng trên các tựa sách ở tầng cao khóa kín. 

Chính trong những năm đầu trung học đệ nhất cấp, khi chiều cao cho phép với lên phần có ổ khoá, tôi khám phá Dương Nghiễm Mậu. Sách của ông xếp cạnh sách Mai Thảo, Nguyễn Thị Hoàng. Tuổi Nước Ðộc, Con Sâu, Trong Hoang Vu, xếp cạnh Mười Ðêm Ngà Ngọc, Sống Chỉ Một Lần, Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, Hạnh Phúc Ðến Về Ðêm, Vòng Tay Học Trò, Dưới Vừng Hoa Trắng, Tiếng Chuông Gọi Người Tình Trở Về...

Tôi không bao giờ được phép xem. Với tôi là một khiêu khích. Tôi vẫn đi thuê truyện, say mê với Hitler và Những Tên Ác Quỷ Y Khoa, Hitler và Mặt Trận Miền Ðông, Moshe Dayan Bức Tường Thành Do Thái, Tora Tora Tora Bay Về Trân Châu Cảng, Kamikaze Những Trận Không Chiến Dữ Dội Nhất Lịch Sử Thái Bình Dương, Về Miền Ðất Hứa...nhưng Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo vẫn là một kích thích. Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao mình đã ngoan ngoãn nghe lời Thầy đến như vậy, tôi thuê truyện, nhưng chỉ thuê những cuốn sách Thầy cho phép đọc. Những cuốn sách nhà cấm, tôi nhìn tò mò, nhưng không cầm đến. Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Thị Hoàng, Mai Thảo, Túy Hồng, Trùng Dương, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Thế Uyên, Mặc Ðỗ, Thế Phong, Nguyễn Thụy Long,... xếp ngay ngắn sau lớp kính có ổ khoá.

Buổi trưa ngồi với Nhiên, Dương Nghiễm Mậu không nói điều gì. Ông chỉ lẳng lặng pha trà cười nhẹ nhàng, nghe Nhiên nói, nghe Nhiên kể về nỗi sôi sục huyết quản của một thi sĩ, của Nhiên và bạn bè Nhiên. Tôi khác Nhiên, tôi chỉ muốn hiểu thế giới bí mật của văn xuôi. Dương Nghiễm Mậu cười nhẹ như tàu dừa lay, gần như ông không động đậy. Ở Dương Nghiễm Mậu nụ cười diễn ra ở chuôi mắt, ở ngón tay đập cán thuốc mà nhịp nhanh chậm thay cho tiếng cười luôn luôn kín đáo. Dương Nghiễm Mậu rót trà. Ông hiểu thế hệ tôi và Nhiên không còn ai uống trà nữa, nhưng ông vẫn rót. Váng nước vàng màu mỡ gà, giữa buổi trưa nóng hực sủi tăm như số lượng dấu hỏi chất chứa trong đầu tôi từ buổi trưa tháng 5-75 

Bà mở khoá cho chúng tôi đọc tất cả sách người lớn của tủ sách đồ sộ, trong vòng 48 giờ rồi Bà đem bán ký vì Công an phường đã ra lệnh tịch thu văn hoá phẩm đồi trụy củaNgụy. Tôi còn nhớ Bà bán cân ký 150 đồng ông Thiệu mỗi ký. Bà bán sạch tủ sách, kể cả sách thiếu nhi Lữ Hân Phi Lục, Phan Tân Sĩ Phú, Tintin, Lucky Luke, Astérix Obélix, chở đi mấy xe ba gác. Bà bán sạch tuổi thơ tôi trong chớp mắt. Làm sao tôi đọc hết hai mươi năm văn học miền Nam trong 48 giờ? Làm sao tôi trưởng thành kịp trong 48 tiếng để hiểu những chiếu bài mạt chược, trong phòng khách sạn rì rầm, hai người đàn ông đàn bà làm gì trên mặt nệm trong tiểu thuyết Mai Thảo. Tôi chưa đến 13 tuổi nhai ngốn ngấu Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng trên sân thượng giữa trưa nắng ngun ngút, cố mường tượng ra cô giáo Hoàng với đồi thông Ðà Lạt trong ngôi nhà gỗ thông thơm phức với tên nam sinh tên Minh sớm biết hút thuốc, có bật lửa zippo và gan dạ tán tỉnh cô giáo. Tôi ngốn ngấu Tháng Giêng Ðưa Ðám của Nhã Ca, kinh ngạc khám phá tiểu thuyết có sức chở mang gấp mười lần tivi số lượng hình ảnh Tết Mậu Thân ngoài Huế. 

Trưa nắng thiêu đốt. Tiếng động chiến xa T-54 ầm ĩ từ Gò Vấp đổ xuống Phú Nhuận băng lên đại lộ Hai Bà Trưng không át nổi âm thanh của 16 vỏ chai bia mỗi ngày Túy Hồng quắp rổ đi đổi cho Thanh Nam lúc còn sống trong building Cửu Long và diễn ra trong tiểu thuyết Tôi Nhìn Tôi Trên Vách. Không át nổi tiếng nhạc xập xình mỗi buổi tối cô ca ve đi làm luôn có một người đàn ông chờ sẵn, đem đến một gói Salem xanh biếc trong Thủy và T6 của Thế Phong... 

Tôi khám phá xã hội miền Nam ngay trong ngày xã hội đó bị xích sắt T-54 nghiến nát dưới lòng đường. Tôi chưa kịp đọc Dương Nghiễm Mậu. Tôi chỉ kịp trông thấy ông bị vất lên xe ba gác chở ra lề đường. Nhưng cũng chỉ một hai tháng sau lề đường bị truy quét tàn dư Mỹ Ngụy và ông biến mất.

Dương Nghiễm Mậu hiện ra trở lại buổi trưa Lê Văn Sỹ. Ông yên lặng quan sát tôi với Nhiên. Chúng tôi, những độc giả thiếu nhi của miền Nam cũ, cũng đột ngột hiện ra trước mắt ông. Cũng đành... dường như ông muốn nói vậy. Tôi cũng quan sát ông, quan sát cái tủ sách trống trơn của một nhà văn miền Nam. Tôi ngắm ông với cảm giác kỳ quặc là ông hãy còn trong tủ kính bị khóa, giống như ông đang là cuốn sách câm chưa được phép mở ra cho tôi xem. Nhưng Dương Nghiễm Mậu vẫn ở đó, trong sâu thẳm của một miền Nam ngã đạn.


Trần Vũ
__________________























Hiệp Hội Tương Tế Bắc Việt Nghĩa Trang







Lưng Trần



































ttểu tuận











Lịch Sử Trong Tiểu Thuyết.



















Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc Hậu Hiện Đại.



Cách đây 12 năm, tháng 10/91 họa sĩ Khánh Trường sang Pháp ra mắt Hợp Lưu số đầu tiên. Ðón anh ở phi trường, tôi nhận ra ngay nhân vật Khánh của Có Yêu Em Không. Nhân vật làm tình kinh khiếp trên căn gác gỗ với em gái của đồng đội hãy còn quàn ở nhà dưới trong mùi nhang khói tang tóc luồn qua kẽ hở, nhân vật mỗi chiều say đẵm phóng xe lao vào căn hẻm miệt Phú Thọ Hòa đi tìm tình yêu và cái chết. Khánh Trường với Khánh là một. Một con người và một nhân vật với tất cả liều lĩnh khinh mạn, nửa hảo hớn, vừa du đãng, chất ngất đam mê nhưng cũng bất cần đời và đôi lúc biết mất dạy. Buổi sáng đó, mái tóc dài mafia, Khánh Trường mang hình ảnh Franco Nero trong miền viễn tây bước ra khỏi sân bay ngang tàng với... thùng tạp chí Hợp Lưu trên xe đẩy.

Những ngày sau tôi khám phá anh là type Django như tôi ưa thích. Tôi cũng thích có một người anh chịu chơi như vậy, đầy thói hư tật xấu nhưng biết hiên ngang bao che cho đứa em khi cần thiết. Tất cả bắt đầu bằng lá thư anh gởi đến bằng hữu mùa hè năm 91. Lá thư kêu gọi đổi mới cho sinh hoạt văn học VN ngoài nước. Lá thư từ bỏ thái độ qua sông chặt cầu, phong tỏa bao năm của hội đoàn. Lá thư công nhận sự hiện hữu của con người VN sau 75 trên quê hương, cho dù con người đó không Quốc Gia, không Cộng Hoà. Anh chép tay thêm dòng chữ: Vũ thích gì viết ấy, cứ viết, có anh hứng mũi chịu sào. Và chỉ với dòng chữ ngắn đơn giản này anh đã quyến rũ được tôi, lôi về mình biết bao người viết trẻ dạo đó. Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Vũ Quỳnh Nh., Nguyễn Thị Thanh Bình, Phạm Thị Ngọc, Phạm Chi Lan, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Hoàng Nam, Hoàng Mai Ðạt, Ðỗ Kh., Trầm Phục Khắc, Ngọc Khôi, Hồ Ðình Nghiêm, Vũ Ðình Kh., Vĩnh Hảo... chứng minh sự thành công này.


Hợp Lưu như thế chánh thức ra đời trong hiệu phở Thụ quận 13. Nhưng khác với Võ Phiến khi làm tạp chí Văn Học Nghệ Thuật bộ cũ, buổi chiều tháng 10/91 khi Khánh Trường bước chân vào hiệu phở gọi một tô chín nạm, văn chương Việt ngoài nước đã bắt đầu một thập niên thương khó. Những năm 78-79, tuy chưa có computer, chưa internet, chưa font chữ Việt, mọi thứ còn chép tay, đánh máy bỏ dấu tay, sách bày chung với thực phẩm, người viết người đọc rải rác, đầy khó khăn - nhưng Võ Phiến đã lên đường với niềm nhớ quê hương mãnh liệt không nguôi vô bờ bến của cả một lớp người di tản. Mọi người trân trọng chữ Việt, yêu quý, ôm ấp gìn giữ chữ Việt, thứ chữ Quốc ngữ của một đám đông vừa đánh mất tổ quốc.


Thời điểm 91, chữ "Phỡ" trên thực đơn phở Thụ viết với dấu ngã. Tiếng Việt đã không còn là quốc ngữ, mất thiêng, không mấy ai quan tâm và rất nhiều pha Anh, Pháp vào trong câu chuyện. Chữ Việt giản dị chỉ là chữ viết của một sắc tộc thiểu số sinh sống ở Ău Mỹ, hay quốc ngữ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà xa lạ nào mà mọi người bắt đầu du lịch. Chữ Việt in trong số Hợp Lưu ra mắt là thứ chữ không còn có thể dùng để hái ra tiền, một thứ tử ngữ.


Chị Thụy Khuê mời tôi với anh và bác Mai Thảo ăn phở trước để dằn bụng tiếp khách. Tôi hỏi Mai Thảo: Bác thấy phở hải ngoại có bằng phở Sài Gòn ngày xưa? Phở bên này ít nước, mau nguội bánh. Mai Thảo ầm ừ trả lời. Ông chỉ hút một cọng phở duy nhất. Tô phở của chị Thụy Khuê, của tôi, của anh Khánh Trường cũng nguội nhanh. Nguội nhanh như văn chương hải ngoại đang lạnh dần.


Gần 10 năm trước, 1982 năm Mai Thảo quyết tâm tục bản tạp chí Văn, sinh hoạt văn học hải ngoại chưa nguội, ngược lại bắt đầu hâm nóng. Người Việt đã bắt đầu an cư sống tập quần. Tuy các cây viết mới hãy còn hiếm, Mai Thảo đầu đàn của văn nghệ miền nam quy tụ dễ dàng các bạn bè của ông. Con hùm xám Vũ Khắc Khoan, Thanh Nam, Mặc Ðỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Tuý Hồng, Viên Linh, Nguyễn Ðông Ngạc, Trang Châu, Tạ Tỵ, Trần Ngọc Ninh, Hà Huyền Chi, Du Tử Lê, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Hoàng, với Bình Nguyên Lộc qua sau... là những gương mặt nổi tiếng của miền Nam một thời. Bằng kinh nghiệm của một chủ bút tài hoa lẫy lừng, Mai Thảo nhanh chóng khám phá, thừa nhận và thúc đẩy những ngòi bút nữ: Lê Thị Huệ, Phan Thị Trọng Tuyến, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Trần Diệu Hằng, Phạm Thị Ngọc, Cao Bình Minh sẽ làm nên hiện tượng nữ sau đó. Không chỉ phát hiện những cây bút nữ, mục Người Viết Trẻ mỗi tháng giới thiệu một gương mặt mới, có tháng trong cùng một số báo có đến 4 người viết mới Nguyễn Thạch Giang, Ý Ngôn, Vũ Phương Nam, Ðặng Mai Lan. Suốt 6 năm 82- 87 tạp chí Văn không thiếu sáng tác, không thiếu người viết lẫn sự trợ giúp đông đảo của các văn hữu.


Sau Mai Thảo, tạp chí Làng Văn trình làng. Làng Văn thừa hưởng không khí bừng bừng khí thế của một cộng đồng đang độ tăng trưởng chín muồi sung mãn, kèm nỗi nhớ nhaø nóng bỏng của lớp người mới vượt biên. Một tạp chí mới, một lớp độc giả mới với một tâm tình mới. Huyền Châu, Tuệ Nga, Hồ Trường An, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Ngọc Ngạn, Lê Văn Lân, Ngọc Khôi, Nguyễn Tấn Hưng, Thái Vaên Kiểm, Võ Kỳ Ðiền, Nguyễn Văn Ba, Trần Long Hồ, Phan Ni Tấn, Luân Hoán, Lâm Hảo Dũng, Diệu Tần, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn... đem đến cho Làng Văn những độc giả trung thành trường kỳ. Những năm 84-89 thời kỳ cực thịnh, Làng Văn thành công rực rỡ, số bán vượt xa các tạp chí khác. Người Làng đông như trẩy hội như nhà báo Nguyễn Hữu Nghĩa nhận xét. 


Cùng thời gian đó, 1985 Võ Phiến tục bản Văn Học Nghệ Thuật bộ mới, rồi từ tháng giêng 86 đổi tên là tạp chí Văn Học do Nguyễn Mộng Giác điều hành có thể xem là tạp chí uy tín nhất của giai đoạn 85-88. Ða số những bài viết xuất sắc đều xuất hiện trên diễn đàn này và bên cạnh những nhà văn cộng tác trụ cột thường xuyên Nhật Tiến, Võ Ðình, Lê Tất Ðiều, Ðịnh Nguyên, Tưởng Năng Tiến, Võ Phiến, Nguyễn Bá Trạc, Hà Thúc Sinh, Nguyễn Tất Nhiên, Thế Uyên, Hoàng Khởi Phong, Trần Hoài Thư, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Xuân Hoàng, xuất hiện vô số người viết mới: Khế Iêm, Ngu Yên, Phạm Việt Cường, Phan Tấn Hải, Kiệt Tấn, Thường Quán, Cao Xuân Huy, Trịnh Y Thư, Nguyễn Ðức Lập, Nguyễn Ý Thuần, Hồ Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Trúc Giang, Trần Thị Kim Lan, Trần Thị Lai Hồng, Trân Sa, Lê Bi, Vũ Huy Quang, Trương Vũ, Thế Giang, Trần Vũ, Ðỗ Kh., Mai Kim Ngọc, Vũ Quỳnh Hương, Nhược Thủy (Y Chi)... Cũng chính trên diễn đàn này khởi đầu nền phê bình ngoài nước qua các bài viết đầu tiên của Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc và Nguyễn Hưng Quốc. Văn Học như thế đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng thuận tiện, với một nguồn nhân lực mới mẽ hùng hậu đang trong giai đoạn khởi viết.



Trường hợp Hợp Lưu khác hẳn. Hợp Lưu ra đời khi đa số những tác giả kể trên, một số đã bỏ cuộc, một số đông khác các sáng tác hay nhất của họ đã viết xong. Giống Mai Thảo nhận xét phở hải ngoại ít nước,mau nguội. Lý do quá nhiều bánh, quá nhiều thịt, nhưng ít nước. Nhận định đó đúng cho giới sáng tác Việt sống ngoài tổ quốc. Ðã nhiều bài viết lý giải những khó khăn của người sáng tác bị cách ly khỏi quê hương. Chất liệu sáng tác sáo cũ, ngôn ngữ mẹ đẻ mỗi ngày một nghèo đi, kinh nghiệm quê nhà thiếu cập nhật, sự hội nhập lấn dần tính hoài niệm hao mòn dần căn cước gốc, không nhuận bút, không độc giả, ít sinh hoạt chung đưa đến tình trạng băng giá. Ðó là những nguyên nhân nội tại, nguyên do bên ngoài nhiều hơn nữa: Tranh sống kiếm cơm, viết văn tay trái tối chủ nhật, biến động Ðông Âu đưa đến hoang mang, văn chương trong nước... bất ngờ đổi mới cạnh tranh bất chính, khủng hoảng kinh tế thất nghiệp khiến mãi lực mua bán của độc giả giảm... Hợp Lưu chào đời trong hoàn cảnh tăm tối đó.


Năm 91 là năm khởi đầu của nhiều bài viết cảnh giác thái độ nhẩn nha cầm chừng trong sáng tác, tranh cãi hay kết án những vòng tường ghetto bao vây. Ðiều đó chứng minh sau một thập niên khởi sắc, sáng tác hải ngoại gặp khủng hoảng. Trong tình trạng thụt lùi như vậy, làm báo chỉ từ chết đến bị thương giống họa sĩ Khánh Trường than. Nhưng đó chỉ mới là khó khăn riêng của một bộ môn sáng tác, những sáng tác mà Khánh Trường luôn luôn rất cần cho những số Hợp Lưu nối tiếp. Còn nhiều khó khăn khác.


Buổi tối ra mắt Hợp Lưu trong hiệu phở Thụ là một buổi tối thành công kỳ lạ. Ðông đến mức quán hết chỗ, mọi người phải đứng và lần đầu tiên tôi thấy Mai Thảo bị dịch giả Kim Lefèvre quay. Ðông, vui, như cơn say quên trời đất của Kiệt Tấn, như ánh mắt hấp háy lạc quan sau lớp kính ve chai của nhà nhạc học Nguyễn Thiên Ðạo, nhưng nụ cười tươi của chị Thụy Khuê không khỏa lấp những lo lắng cho ngày mai. Hơn ai hết chị Khuê biết rõ khả năng tài chánh của Hợp Lưu. Hơn ai hết chị hiểu rõ áp lực của hội đoàn đảng phái. Họa sĩ Khánh Trường hùng dũng trấn an: Chị cứ yên tâm, tôi không thua đâu.


Tôi không thua đâu. Có lẽ đây là câu trả lời chính xác nhất vì sao và tại sao chuyển động Hợp Lưu thành công và tạp chí đứng vững suốt 12 năm. Câu trả lời này xác định cá tánh đặc biệt của người chủ biên tạp chí.


Ðể hiểu quyết tâm của Khánh Trường, phải sống trở lại bối cảnh của cộng đồng VN đầu thập niên 90. Chưa khi nào áp lực của hàng trăm hội đoàn mạnh đến như vậy. Việc cướp máy bay, rải truyền đơn rồi nhảy dù xuống VN của Lý Tống (xẩy ra sau vài số Hợp Lưu) biểu trưng tất cả tinh thần quang phục đất nước lúc đó. Phaûi đọc tất cả các báo Việt ngữ xem affaire Lý Tống là một thiên anh hùng ca, phải đi giữa đường phố Bolsa rợp lá cờ vàng để hiểu hành động làm tạp chí Hợp Lưu của Khánh Trường là một hành động can đảm. Phải trông thấy cảnh cuốn sách Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương bị lôi trên đất và đốt cháy để hiểu bầu không khí quá khích bao trùm nặng nề lúc đó. Ðiện thoại chửi bới nửa đêm, fax văng tục, mail hăm dọa, thư nặc danh, đập kính xe là thực đơn hằng ngày. Cùng với Hợp Lưu, tạp chí Trăm Con của Trân Sa và Tư Ðồ Tuệ cũng trong chiều hướng giao lưu đã không chịu nổi áp lực phải đình bản. Áp lực đến nỗi, khi cho xuất bản Cánh Cửa, nhà văn Nhật Tiến trả lời phỏng vấn đã thẳng thừng chua chát: Nhà văn VN ngoài nước không có tự do sáng tác! Trước đó, chỉ với Mùa Biển Ðộng với một chương tả người lính VNCH say rượu đeo xâu tai xác chết cắt quanh người, Nguyễn Mộng Giác đã bị chê trách "Bôi nhọ quân lực" và áp lực đến mức chủ bút Văn Học Nghệ Thuật Võ Phiến phải mời trị sự của mình từ chức, tạo nên sự cố Văn Học không dễ tuỳ nghi lúc đó.


Chưa một tạp chí nào ra đời khó khăn như vậy. Không chỉ một mình chủ biên Khánh Trường chịu búa rìu dư luận, tất cả những nhà văn, nhà thơ chấp nhận đăng bài trên Hợp Lưu đều mặc nhiên bị xem là VC, hoặc lịch sự hơn: nối giáo cho giặc. Nhà văn Nhật Tiến, người cha tinh thần đỡ đầu cho Hợp Lưu, người chủ trương giao lưu sớm nhất từ Mồ Hôi Của Ðá, đã gánh chịu không biết bao nhiêu phỉ báng, một trong những lý do khiến ông buộc lòng rời khỏi Ban chủ biên. Không ai có thể trách tác giả Thềm Hoang, Giải thưởng văn chương phủ tổng thống VNCH là một nhà văn thiên tả, không ai có thể trách Nhật Tiến là một nhà giáo không gương mẫu, hay một người thiếu đạo đức. Nhưng cũng không ai chịu hiểu tinh thần quang phục đất nước chỉ là một tinh thần hoang tưởng đầy ảo vọng. Nên khi Hợp Lưu, tạp chí thuần văn học đầu tiên đưa ra cái nhìn khác - Ðã đến lúc người Việt phải đối xử với nhau như những con người cho dù khác chính kiến và VN hoâm nay phải không còn hận thù, một văn bản nếu mang giá trị văn học là một văn bản có giá trị, dù tác giả của nó sống trong hay ngoài nước - Cái nhìn mới này đã tạo ra một cơn sốt ý thức rất lớn trong tâm hồn của rất nhiều những kỹ sư tâm hồn.


Thời gian đó, với các văn, thi sĩ được chủ biên Hợp Lưu gởi thư mời, chọn lựa không dễ. Với mỗi người đã là một bước qua lời nguyền vô cùng khó khăn, với tất cả rủi ro trấn áp kết án từ bạn bè, các báo quốc gia đang cộng tác và cả với lương tâm của chính mình, lương tâm nào đã quyết định rời bỏ quê cha đất tổ ra đi vì không chấp nhận chính quyền đương nhiệm và lương tâm nào ý thức không thể phân ly chia đôi đất nước mãi mãi?


Nhưng thật kỳ lạ, nếu mở lại những số Hợp Lưu đầu tiên, thành phần ban chủ biên tăng dần rất nhanh sau mỗi số báo cho đến khi hầu hết các tác giả thường xuyên viết trên các báo Cộng Hoà đều lần lượt xuất hiện trên Hợp Lưu. Ðó là dấu hiệu mà Khánh Trường nhận ra anh đã đi đúng hướng, và đó cũng là dấu hiệu cho thấy những nhà văn Việt đã tự chất vấn mình từ rất lâu. Chắc chắn trong thâm tâm, Khánh Trường cảm tạ rất nhiều tấm lòng của những người bạn Phan Tấn Hải, Ngu Yên, Phạm Việt Cường, Cao Ðông Khánh, Nguyễn Mạnh Trinh, Trần Mộng Tú, Du Tử Lê, Thường Quán, Khế Iêm, Lê Bi, Lê Thứ, Hồ Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trần Long Hồ, Trầm Phục Khắc, Vũ Huy Quang, Võ Ðình, Nguyễn Thị Thanh Bình, Phạm Chi Lan, Chân Phương, Ðỗ Kh., Hoàng Mai Ðạt, Trương Vũ, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Nguyễn Hương, Lê Thị Thấm Vân, Trân Sa, Vũ Quỳnh Nh., Thụy Khuê, Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Thị Khoa Phương, Phan Thị Trọng Tuyến... đã tham dự hết mình ngay từ những ngày đầu, và hơn nữa cảm tạ dân tộc Việt hãy còn biết đến tha thứ, nhân hoà.


Khó khăn vẫn chưa hết. Ai đã làm báo hiểu rõ khó khăn kinh khủng nhất vẫn là khó khăn tài chánh. Bao nhiêu tờ báo Việt ngữ đã sập tiệm. Hồn Việt chết theo với Thanh Nam, Nhân Văn của nhóm Nguyễn Thượng Văn và Tưởng Năng Tiến, Tân Văn của Hà Thúc Sinh, Văn Lang của Nguyễn Mộng Giác, Văn Xã của Nguyễn Hữu Nghĩa, Ý Thức của Viên Linh, Chân Nguyên của Phạm Công Thiện, Tập Họp của nhóm trẻ Úc, Ðối Thoại của Lê Bi, Việt của Nguyễn Hưng Quốc đều phải đình bản. Võ Phiến cũng chết đi sống lại hai lần với Văn Học Nghệ Thuật, và tạp chí Thơ của Khế Iêm trong tình trạng khắc khoãi thường trực của một cái chết được dự báo. Ðó là chỉ kể những tạp chí tên tuổi. Khác với Thế Kỷ 21 được công ty Người Việt hỗ trợ, Hợp Lưu chỉ sống bằng công quả của bằng hữu, bằng công sức và lợi tức thu nhập cá nhân của chính Chủ biên Khánh Trường. Sự sống sót của Hợp Lưu liên tục suốt 12 năm qua, đều đặn gởi đến tay bạn đọc bao nhiêu số chủ đề, bao nhiêu biên khảo, phỏng vấn và sáng tác thơ, văn, kịch chính là sự thành công riêng của Khánh Trường và sự sống sót tinh thần của chính cá nhân anh.


Ðể hiểu khó khăn tiền bạc của chủ biên Hợp Lưu túng thiếu nhường nào, tôi có một kỷ niệm đẹp về tình bạn giữa Mai Thảo và Khánh Trường. Mùa đông năm 96, tôi hay thích đến căn lầu xép trai phòng của Mai Thảo. Không có gì thú bằng ngồi dưới chân giường Mai Thảo nhìn ra hàng hiên trồng những đọt chuối xanh, nghe im lặng của buổi trưa phả hơi nóng nhẹ nhàng xâm chiếm chậm rãi căn phòng. Nhất là căn phòng đầy những chai lọ cognac tôi ưa thích, chỉ cần với chân cũng khều được dăm chai. Buổi trưa sâu thẳm yên tĩnh trong con hẻm Song Long, tôi vừa bị Mai Thảo lừa cho uống cognac có ngâm cu con hải cẩu thối hoắc, thứ rượu thuốc Nguyễn Xuân Quang - tác giả Người Căm Thù Ruồi - tặng ông uống chống lạnh, thì Khánh Trường ập vào, giọng anh hối hả:

- Anh có tiền cho em mượn, Hợp Lưu in xong rồi mà em chưa có tiền lấy.

- Bao nhiêu? Nhiều thì không có, ít thì có thể.

Mai Thảo điềm nhiên lắc lắc ly rượu vàng lóng lánh. Màu vàng của buổi trưa loang đến cườm tay ông đọng lại thành vệt lỏng. Giá Khánh Trường có thể ngồi xuống uống rượu thưởng thức sự im lặng của trưa không có những phiền hà nợ nần của đời sống. Ðâu ai biết gồng Hợp Lưu thường đắng như con hải cẩu chết tiệt.

- Một ngàn đô, anh.

- Hà hà... tưởng bao nhiêu, một ngàn thì nhà băng lớn nhất nước Mỹ này cho vay.

Mai Thảo, người thầy tinh thần của Hợp Lưu, bạn nhậu của tôi với anh, lặng lẽ lục tìm ví đưa tiền cho Khánh Trường mang ra nhà in ông Ðào Văn Ngoạn lấy báo.

- Vẽ được mấy cái bìa sách em sẽ gởi trả anh.

- Không hứa, không hẹn gì cả, có tiền thì trả thế thôi!

Mai Thảo gắt, ông ghét nói chuyện tiền bạc. Ông đưa tay quơ tìm baät lửa, đốt điếu thuốc Winston. Hành động của ông vừa nãy thật đẹp. Cho vay vô điều kiện, không thắc mắc dù ông cũng rất nghèo. Bác Thảo lúc đó còn mạnh, cười móm mém :

- Tiền thì không có, nhưng rượu thì không khi nào thiếu. Và không bao giờ thiếu, không thể thiếu được! C'est inadmissible, insolent!

Mai Thảo đập mạnh tay xuống mặt đệm. Tôi biết ông không bao giờ thiếu rượu. Tôi đã từng chở một cốp xe 30 chai cognac quà tặng cho ông đêm sinh nhật 63 tuổi. Mai Thảo là người giàu cognac và giàu tình bằng hữu nhất trần gian. Mấy ngày sau, rời quán Song Long sau điểm tâm với Hoàng Khởi Phong, Cao Xuân Huy, Du Tử Lê, tôi và người bạn làm báo văn học liên mạng trên internet Phạm Chi Lan đến chơi với Khánh Trường. Tôi với Phạm Chi Lan không giúp gì được anh trong công tác tòa soạn, nhưng vẫn thích ngồi quanh quẩn xem anh làm việc. Chúng tôi ngỡ ngàng nhìn 1500 cuốn Hợp Lưu chất đầy mặt đất.

- Sao anh chưa gởi bưu điện, trễ hạn rồi mà? Lan hỏi.

- Ờ hớ, để anh vẽ xong mấy cái bìa băng, bìa sách có tiền rồi gởi.

Khánh Trường thản nhiên, không có vẻ gì cấp bách, nhưng tôi biết, đã 6 tây là trễ một tuần. Và từ hôm vay tiền bác Thảo cũng gần cả tuần, có nghĩa anh chưa có tiền. Phạm Chi Lan với tôi đi lạc quyên các anh chị Lê Thứ, Lê Bi, Nguyễn Hương, nhà xuất bản Hồng Lĩnh, và Trương Vũ từ miền Ðông qua chơi, cuối cùng được vài trăm phụ với anh tiền cước phí bưu điện. Những ai còn thắc mắc nguồn tài trợ Hợp Lưu thì thực tế là như vậy. Và thực tế tài chánh này triền miên dằng dặc từ số đầu cho đến nay. Hai tháng một số báo qua thoăn thoắt, 66 số Hợp Lưu của 12 năm là 66 lần họa sĩ Khánh Trường xoay tiền chóng mặt.


Một lần Hợp Lưu được Viện Vận Ðộng Dân Chủ của Quốc hội Hoa Kỳ đề nghị trợ cấp $10000 một năm, vì tạp chí được xem có đóng góp cho chuyển động dân chủ. Những ai đã sống ở Âu Úc Mỹ biết rõ, những tài trợ của chính phủ, trường đại học, hay hiệp hội tư nhân cho những hoạt động văn hóa, nhân văn vô cùng bình thường. Ban chủ biên điều hành tạp chí lúc đó, Nguyễn Hương, Lê Bi, Phan Tấn Hải, Khánh Trường, Ðỗ Hữu Tài, và nhà văn Nhật Tiến đã thảo luận cân nhắc việc nhận số tiền này. Giảm mối âu lo tài chánh để rồi tai tiếng như tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo đã nhận trợ cấp của Phòng thông tin Hoa Kỳ? Nhận tài trợ nhưng nhất quyết giữ vững độc lập của tạp chí? Cho thì lấy nhưng không dính gì đến Hoa Kỳ? Nhưng ai cho tiền dễ dàng vô điều kiện như vậy? Trong cuộc đời có vay, có trả. Nhật Tiến cương quyết và dứt khoát nhất. Nhưng làm sao gồng triền miên trong tình trạng thị trường chữ nghĩa khánh kiệt như vầy? Ban chủ biên quyết định biểu quyết qua cách bỏ phiếu kín. Mọi lá phiếu đều đã ghi một chữ duy nhất: No! Tôi ở xa không rõ vụ việc, chỉ biết như vậy. Cá nhân tôi tiếc mãi số tiền này, thêm tiền thêm nhiều khả năng mới, tăng trang, phụ bản tranh màu, đẩy mạnh nhà xuất bản Hợp Lưu, có thể trả nhuận bút cho các tác giả nghèo trong nước, đỡ chật vật cho Khánh Trường. Nhưng tôi hiểu nhân cách và lòng tự trọng không cho phép Nhật Tiến chấp nhận điều này. Và tôi cũng hiểu ông muốn tạp chí Hợp Lưu giữ linh hồn trong sạch. Nhật Tiến là một người thầy, một nhà văn đúng nghĩa, quyết định của ông được toàn Ban chủ biên theo tuyệt đối. Quyết định đó, về sau, ngay cả những lúc khánh tận nhất, Ban biên tập không ai hối tiếc. Trừ tôi - vẫn nghĩ, tất cả sinh sống ở Âu Mỹ, nhưng suy nghĩ giống quân tử Tàu. Nước Mỹ là một nước Dân Chủ và có quy chế Dân Chủ. Chúng ta có quyền hưởng quy chế xây dựng trên lá phiếu của từng công dân và trích từ tiền thuế tất cả cùng đóng. Nếu áp lực đến từ cơ quan nào đó của quốc hội Hoa Kỳ, chỉ cần viết một bài báo đăng trên New York Times, áp lực đó sẽ biến mất tức khắc. Các quân tử đã không chịu hành xử quyền công dân Hoa Kỳ của chính mình, thứ quyền công dân mà tất cả đã bỏ nước đi tìm. Quân tử, nên những ngày Khánh Trường bệnh nặng, không bảo hiểm y tế, không tiền túi, bạn bè phải chạy lo thuốc thang, các tác giả bác sĩ chạy giấy nhập viện, rồi anh xuất viện, toâi đến thăm, quần vẫn còn ướt đẫm máu, lại nhập viện. Hay những khi túng thiếu, Ban biên tập khất thực từng tác giả, nhưng không phải ai cũng có tấm lòng của anh chị Trương Vũ, anh chị Lê Tất Luyện, anh chị Hoàng Chính Nghĩa. Khất thực một lần, lần thứ nhì, ni cô chê. Quân tử Tàu, nên Khánh Trường phải viết dâm thư kiếm tiền nuôi Hợp Lưu. Không một quân tử nào khác chịu viết Kim Bình Mai chung với anh. Thê thảm là vậy, cho Khánh Trường, kẻ ôm hoài bão văn chương. Nhưng kỳ diệu, Khánh Trường không xuống bùn, bạn đọc, văn hữu vẫn dành cho anh những tình cảm quý mến vì tất cả hiểu, anh bán mạng cho Hợp Lưu.

Trong thư từ biệt của chủ biên, Khánh Trường nhìn nhận sự bảo bọc của độc giả và nhiệt tâm đóng góp của văn hữu. Nhưng anh quên mất: Chính anh xứng đáng được nhận sự bảo bọc và nhiệt tâm đó. Không phải ngẫu nhiên nhà phê bình Thụy Khuê thường xuyên giúp đỡ anh, lo bài vở cho các số chủ đề, phỏng vấn định kỳ, hỗ trợ anh trong những quyết định khó khăn. Cũng không ngẫu nhiên mà mỗi lần anh kêu cứu, nhà tiểu luận Trương Vũ bay từ Washington DC sang cứu nguy, cũng không ngẫu nhiên mà chị Thụy Khuê, rồi Trân Sa, rồi Mai Ninh, rồi Miêng, rồi Phan Huy Ðường và nhiều bằng hữu nữa đứng ra lạc quyên cứu trợ bão lụt miền Trung cho Hợp Lưu mỗi lần... thiên tai hạn hán. Chuyển động Hợp Lưu là một chuyển động dài, không ai có thể đơn thương độc mã gánh vác, và như Khánh Trường khẳng định: Tạp chí Hợp Lưu không thuộc cá nhân ai, là một diễn đàn cấp tiến chung cho tất cả - thì việc mọi người góp công, góp của là bình thường và chính đáng.

 *
Ðã trình bày ba khó khăn lớn nhất của Hợp Lưu: Sự lão hoá của bộ môn sáng tác. Trấn áp trù dập từ các hội đoàn quá khích. Tài chánh eo hẹp. Cũng đã trình bày sự đứng vững của tạp chí suốt 12 năm. Hôm nay, giờ phút thay đổi Chủ biên, bước ngoặt lớn cho những ngày sắp tới, bạn đọc đã có đủ thời gian để nhìn lại chặng đường HL vừa đi qua. Mục tiêu ban đầu - Giao lưu văn hoá - có thật đạt được hay không ?

Mở lại số Hợp Lưu 1, chưa có bài trong nước gởi ra, chỉ đăng lại các sáng tác quốc nội, dù việc đăng tải những văn phẩm của những nhà văn quốc doanh lúc đó ở ngoài nước là kỵ huý, thì chưa thể xem là đã có dấu hiệu giao lưu thật sự trong số ra mắt. Tuy vậy, điểm son chính là bài phỏng vấn Mai Thảo.

Nguyễn Ðăng Quý, bút hiệu Mai Thảo, sinh tại Nam Ðịnh di cư vào nam năm 54. Chỉ một dòng chữ này, một con người này thôi đủ biểu trưng cho tinh thần quốc gia, sức đề kháng chống đối mọi tràn lấn đến từ miền Bắc. Mai Thảo không bao giờ thoả hiệp. Mai Thảo luôn vinh danh cho Tự Do Ở Ta như chữ ông thường dùng trong mục Sổ Tay trên Văn. Nhưng ông chấp nhận trả lời phỏng vấn đăng trên Hợp Lưu. Chấp nhận tên tuổi mình hiện diện trên một tạp chí đang bị khủng bố, và phỉ báng theo giặc. Có thể giải thích vì tình bằng hữu với Khánh Trường là người ông quý mến. Như thế quá dễ dàng vì Mai Thảo không bao giờ khiên cưỡng, ông biết quyết liệt và biết mắng thẳng vào mặt những điều ông khinh bỉ. Phải xem bài phỏng vấn ông trên Hợp Lưu số 1 ở vào thời điểm gay gắt nhất của cộng đồng là thái độ tôn trọng tự do của Mai Thảo, một nhà văn bảo vệ quyền tự do. Bằng hình thức đó, Mai Thảo chống đối những báo chí hội đoàn đảng phái quá khích, và cũng bằng hình thức này ông thừa nhận khuynh hướng giao lưu, và sau hết khi cho phép Khánh Trường đem tên tuổi mình lên tạp chí, ông gián tiếp giải thoát sự cô lập cho Hợp Lưu. Ðây là một nghĩa cử hiệp sĩ mà Ban chủ biên không thể quên. Trong số ra mắt, Mai Thảo, thủ lãnh của văn nghệ miền Nam đã làm công tác giao lưu trước nhất.

Tôi bước chân vào quán Monge quận 5 lần đầu tiên một buổi sáng tháng 4/92. Ba số Hợp Lưu đã ra, vẫn chưa có bài trong nước gởi đăng và lần đầu tiên 13 năm sau khi vượt biên tôi bước chân vào nơi lui tới của những người tả khuynh. Ðịnh nghĩa Tả khuynh dưới thời VNCH rất đơn giản: Thân Cộng. Ðịnh nghĩa hữu khuynh: Tư Bản. Ðịnh nghĩa tư bản: Chống Cộng. Khi vượt biển đến các nước Nam Dương, Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân, các thuyền nhân mang theo định nghĩa này làm nền móng cho nền cộng hoà Pulau Bidong, trại đảo tỵ nạn nổi tiếng khổ cực nhất lúc đó. Sang định cư ở các quốc gia đệ tam, cộng đồng tỵ nạn với tất cả đau đớn hy sinh của thân phận thuyền nhân, với xấp định nghĩa giản lược thẳng tay gạt bỏ những gương mặt tả khuynh có quá khứ phản chiến và chống chánh quyền miền Nam. Tả khuynh hàm nghĩa loài hủi, nổi cộm lên nghĩa trốn lính vừa nhận học bổng của tổng thống Thiệu vừa đâm sau lưng quân lực. Ngược lại, giới tả khuynh phản ứng bằng cách không giao tiếp với hữu khuynh, bỉ thử những thuyền nhân chạy theo Hoa Kỳ, đóng cửa xây pháo đài. Trong một thời gian vô cùng dài, tả và hữu khuynh hành xử với nhau như tả đô đốc Vũ Văn Nhậm kình chống với hữu đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh dưới thời Tây Sơn, chỉ chực hãm hại lùng giết nhau.

Trả lời phỏng vấn trên Hợp Lưu số 17, Nina McPherson dịch giả của Dương Thu Hương, Bảo Ninh, Ngọc Khôi, Nguyễn Thị Ấm, Ðỗ Kh., Ðỗ Phước Tiến, Võ Ðình nhận xét: Văn chương VN toát lên một nổi ám ảnh quá khứ. Người Việt bị quá khứ nhập tràng. Nhà văn VN để tang cho quá khứ đánh mất, làm như với cuộc ly tán, cùng những vết thương sâu đậm của chiến tranh, quá khứ của người Việt bị cướp mất. Và thiếu quá khứ chung, tương lai trở nên khó hiểu. 

Quá khứ nhập tràng hay thiếu quá khứ chung, tương lai người Việt trở nên mù mờ khó hiểu. Chưa có lời nhận xét nào văn chương và chính xác cho bằng và cũng là lời giải thích cho mối xung đột tả hữu, nam-bắc, trong-ngoài. Buổi sáng tôi bước chân vào quán Monge, nền trời ẩm xám, hơi nước bốc lên mù các tấm kính. Buổi sáng lạnh yên tĩnh nhưng tâm hồn tôi xáo động. Tôi sắp gặp những gương mặt tả khuynh chống chiến tranh VN, góp phần làm sụp đổ Sài gòn khiến gia đình tôi ly tán. Tôi tiến đến chiếc bàn trong góc coù nhiều người chờ với mặc cảm phản bội bố mẹ đã bỏ hết nhà cửa của cải ở phố Sinh Từ và Hàng Ðào di cư vào nam. Tôi rủa Tổng biên tập Khánh Trường đã nhờ tôi thay anh ở xa, gặp nhóm chủ biên Diễn Ðàn, hậu thân ly khai của tờ Ðoàn Kết hội Việt Kiều Yêu Nước. Ban chủ biên Hợp Lưu quyết định mời ban biên tập Diễn Ðàn viết bài đăng trên Hợp Lưu và ngược lại. Tôi không rõ vì sao Khánh Trường nhờ mình đại diện, có phải vì tôi nhỏ nhát, chưa kịp có quá khứ để tương lai bớt mù mờ?
Chủ nhiệm Hà Dương Tường mời ăn bún bò. Tôi từ chối để giữ thế giá của người Cộng Hoà. Ngoài biên tập viên Trần Hải Hạc, phụ trách trang khoa học Bùi Mộng Hùng, phụ trách trang văn học Ðặng Tiến, chủ bút Nguyễn Ngọc Giao, còn có cựu "chính ủy" Phan Huy Ðường bắc kỳ di cư.
- Làm gì nghiêm trọng thế? - Hà Dương Tường vỗ vai.
- Chúng tôi mời Vũ dùng bún bò ở quán này vì không tệ lắm.
Nguyễn Ngọc Giao khuyến khích. Mọi người cùng ăn, ngồi không tất kỳ, tôi cất thế giá của người Cộng Hoà vào cartable. Chưa kịp gắp móng giò heo trắng muốt, mềm như bàn tay một đứa bé, người Marxiste Phan Huy Ðường đã kiểm tra kiến thức:
- Vũ nghĩ gì về cuốn sách của Lê Ngọc Trà?
Tôi chẳng nghĩ gì hết. Giản dị vì tôi không quan tâm đến biên khảo, lý luận phê bình. Tôi chỉ đọc truyện ngắn, tiểu thuyết và tuỳ bút. Sau kiểm tra vấn đáp điểm zéro, sau...ba ly grand vin de bordeaux cuvée du patron, tôi mạnh dạn đặt điều kiện:
- Hợp Lưu sẽ đăng các bài viết của các anh, ngược lại những sáng tác của ban biên tập Hợp Lưu đăng trên Diễn Ðàn đừng viết chapeau kiểu những đứa con lầm lạc đi hoang đã trở về nhà và đây là điều kiện tiên quyết!
Tất cả mọi người cười ồ cho đến khi chủ bút Nguyễn Ngọc Giao trấn an:
- Chúng tôi đâu đến nỗi thế!
An tâm, nhưng tôi vẫn lập lại điều kiện một lần nữa, dù Khánh Trường không dặn, vì lý do giản dị những người bạn sáng tác trên Hợp Lưu thích đi hoang, chưa chịu về, còn đi chơi tiếp. Còn khuya Sa mới về,giống Trân Sa ưa nguýt. Giống Vũ Quỳnh Nh. đủ khả năng uống cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất rồi đón máy bay đi Prague chỉ để ăn sáng, trưa về lại Paris và tối bay đi San José tìm một thiên đường khác.

Chuyển động Hợp Lưu với giới tả khuynh bắt đầu như thế, trước tô bún bò Huế. Rất nhanh Diễn Ðàn số tháng 7/92 làm chủ đề giao lưu văn hoá giới thiệu trang trọng các sáng tác của Phạm Việt Cường, Lê Bi, Thế Uyên, Thụy Khuê, Ðỗ Kh., Trần Vũ với minh họa của Khánh Trường. Từ số này về sau tiểu luận Thế Uyên, thơ Thường Quán, truyện ngắn Mai Ninh, Miêng, Phan Thị Trọng Tuyến sẽ đăng đều đặn bình thuờng. Ngược lại đông đảo các gương mặt khét tiếng tả khuynh sẽ xuất hiện ồ ạt trên Hợp Lưu ngay trong năm đầu tiên và sau đó: Trần Ðạo, Ðặng Tiến, Ðơn Hành, Phạm Trọng Luật, Tạ Trọng Hiệp, Nam Dao, Phan Nguyên, Huỳnh Mạnh Tiên, Lê Bá Ðảng, Lê Thứ, Huỳnh Hữu Ủy... Chuyển động Giao Lưu không chỉ ngừng ở trao đổi bản thảo giữa hai tạp chí Diễn Ðàn-Hợp Lưu, mà còn bình thưòng hóa quan hệ giữa những người tả khuynh với cộng đồng tỵ nạn. Trên Thông Luận, Nguyễn Gia Kiểng, lãnh tụ tổng hội sinh viên Sàigòn-Paris, viên chức cao cấp chánh phủ cuối cùng trước ngày thất thủ, giới thiệu trân trọng trường thiên tiểu thuyết Gió Lửa của Nam Dao, một tiểu thuyết gia không cùng chung quá khứ. Phan Huy Ðường, qua nhà xuất bản Philippe Piquier, lập collection truyện VN dịch sang tiếng Pháp. Lần đầu tiên một collection bao gồm các tác giả trong ngoài nước gồm nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn được giới thiệu đến thế giới.

Hợp Lưu số 6 đăng một bài tiểu luận nhức nhối của Ðặng Tiến. Ngoài tài hoa mà Ðặng Tiến thể hiện qua biết bao nhiêu bài bình thơ như Lưu Trọng Lư, Ðoá Mộng Ðầu hay Hoàng Cầm Cây Tam Cúc, nhà phê bình thâm niên này đặt một câu hỏi: Thế nào là Dân Chủ? Rồi ông thong dong giảng: Hồ Chí Minh xưng bác với đồng bào là không dân chủ! Bài tiểu luận đã làm phiền lòng không ít những độc giả bảo hoàng.

Hợp Lưu số 15 đăng một bài tiểu luận nẩy lửa khác của Trần Ðạo phê phán gay gắt quan niệm tiểu thuyết của Nguyễn Khải, một nhà văn hàng đầu trong nước. Ðọc lại một lần nữa phần nhập Gặp Gỡ Cuối Năm, Khi Lập Trường Thắt Họng Văn Chương để thấy suy nghĩ của người tả khuynh từ cuối thập niên 80 không khác suy nghĩ của những thuyền nhân hôm qua:


"Với những người khác họ chửi Cộng Sản hay bênh Cộng Sản, tôi đều không quan tâm mấy, họ chửi cũng chả hại được mình, họ bênh cũng chẳng làm mình sang trọng hơn. Viết được về họ kể ra cũng vui vui, không viết gì về họ cũng chẳng ai nỡ trách tại sao lại thiếu... Người ta chỉ say mê có những con người của hôm nay thôi." "Ai thế?
Tài đức bao nhiêu mà ngạo mạn đến vậy?
Nếu là một bạo chúa thời Trung cổ thì đã đáng buồn: Chúng ta thừa kế quá khứ của nhân loại, một phần nhân phẩm của ta đúc kết bằng di sản đó. Nếu là một nhà chính trị, thật đáng lo: trong lịch sử cận đại, quan điểm đó về đồng loại đã đào khá nhiều hố chôn tập thể khổng lồ, trong đó không thiếu gì người Cộng Sản. Khủng khiếp thay! Ðây là câu văn của một nhà văn có tiếng, có miếng, có tác phẩm được đăng, được khen, và có quyền hành, tác giả tiểu thuyết Gặp Gỡ Cuối Năm, Nguyễn Khải, một con họa mi trong cao trào 'đổi mới' văn học." 
(trích Trần Ðạo, HL15 trg 185).



Không thể kể hết 12 năm trong một vài trang giấy, chỉ có thể ghi nhận, tuy ít sáng tác (thơ Huỳnh Mạnh Tiên, truyện ngắn Nam Dao, Dã Tượng, Phan Nguyên...) nhưng rất nhiều tiểu luận sắc nét cùng với biên khảo, hiệu đính công phu của Tạ Trọng Hiệp, Phạm Trọng Luật, Lê Thứ, Ðơn Hành, Huỳnh Hữu Ủy... đã chứng minh những đóng góp nhiệt tâm, nhiệt tình của giới tả khuynh trên Hợp Lưu. Chỉ với vài số báo, Khánh Trường đã xoá đi bức tường ngăn cách, giàn hoà Vũ Văn Nhậm với Nguyễn Hữu Chỉnh. Không còn tả, không còn hữu, chỉ có con người Việt Nam mà phẩm giá duy nhất để đo lường là nhân cách. Chỉ vài số báo việc hợp lưu những con người dị biệt quá khứ sống ngoài tổ quốc đã được thực hiện. Ðây là một thành công.

Hợp Lưu số 8 chủ đề Văn Cao, đánh dấu một bước ngoặt. Lần đầu tiên tín hiệu công khai giao lưu với trong nước được thể hiện rõ qua bài viết của Hoàng Cầm trách Phạm Duy hiểu chệch choạc (chữ của Hoàng Cầm) về thi ca ông. Trong cùng số báo Phạm Duy viết bài trả lời Về Những Cái Gọi Là Hoàng Cầm Ca! Những số báo sau, cả hai sẽ có thư trao đổi làm hoà. Trong chủ đề Văn Cao còn có hai bài viết khác trực tiếp gởi từ trong nước ra theo lời mời của Ðặng Tiến, một của Dương Tường và một của Hoàng Phủ Ngọc Tường, cả hai đều viết về Văn Cao. Hoàng Phủ sẽ là người tham dự Hợp Lưu hết mình cho đến ngày ông ngã quỵ. Bạn đọc ngoài nước rất bất ngờ khi khám phá Hoàng Phủ Ngọc Tường - tên đồ tể Huế như hội đoàn cộng đồng kết tội- biết viết những trang tùy bút diễm ảo lạ thường. Ðường lên núi Bạch Mã với đôi chim phượng bay về núi mỗi chiều qua rừng tùng tím thẫm, rặng bạch đàn xanh ngút ngắt biết thổn thức dọc Trường Sơn, giải đất đá khô cằn nứt nẻ ngoài Bình Trị Thiên mỗi mùa cát lấp mất đi tiếng khóc của trẻ nhỏ chào đời. Khó mà tin một tên đồ tể thảm sát chôn người tập thể ngoài Huế lại nhậy cảm và nhiều cảm xúc như vậy. Tôi không rõ Hoàng Phủ Ngọc Tường có thật trách nhiệm thảm kịch Mậu Thân 68 hay không, nhưng tôi biết tòa chưa tuyên án chưa ai có tội, và tôi cũng biết: Sau Nguyễn Tuân, Mai Thảo, Võ Phiến, Hoàng Phủ là người viết tuỳ bút tài hoa nhất của đất nước. Lần cuối về thăm ông bại liệt trong ngôi nhà cũ của Trịnh Công Sơn ở Phú Cam, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn hỏi thăm từng người trong Ban biên tập Hợp Lưu. Ông không còn đi đứng được để dẫn tôi đi chơi lăng, để cùng ngồi uống rượu đế Làng Truồi ở lăng Gia Long. Lăng mộ đẹp nhất trong các lăng mộ vương triều Nguyễn. Ngồi bên cạnh Hoàng Phủ, dưới gió núi hoang vu, trước lăng tẩm của vị vương tử đầy quyền uy và quyết tâm Nguyễn Ánh, tôi không bao giờ tìm ra câu trả lời Vì sao ngày xưa ông nhảy núi? Nhưng tôi hiểu tại sao ông yêu Huế, chính vì Hoàng Phủ Ngọc Tường thương nỗi buồn trong từng con người Việt Nam và Huế là thành phố buồn bã nhất. Ngắm bậc tam cấp còn uốn các chú rồng nhỏ, ngắm viên quan chắp tay cụt đầu, con ngựa cung đình thui chột, tôi nhớ Phan Nhật Nam trong Dựa Lưng Nỗi Chết kể chuyện nhân vật lính lên lăng Gia Long uống bia không đá và lấy súng M-16 bắn ngựa mù mắt trong một buổi chiều cuối năm sông Hương bốc mờ sương khói. Phan Nhật Nam, cũng là người viết bút ký chiến trường hay nhất Việt Nam. Phan Nhật Nam đã mở ra trong tôi bao nhiêu khu rừng thông có cánh chim trắng bay chậm rãi, cánh chim tinh khiết như tâm hồn các tân khoá sinh sĩ quan võ bị quốc gia Ðà Lạt. Phan Nhật Nam, thần tượng của một trời tuổi thơ, và bây giờ tôi ngồi cạnh Hoàng Phủ, tên đồ tể đang bại liệt còn thăm hỏi Hợp Lưu. Thiếu quá khứ chung khiến tương lai trở nên khó hiểu? Phải thế không Nina? Nhưng làm sao McPherson, dịch giả trẻ khả ái này có thể hiểu và nắm bắt nhanh như vậy nguồn gốc ung thư của chứng bệnh trầm kha chia rẽ của dân tộc này? Chỉ bằng xuyên qua dịch thuật mười truyện ngắn và ba cuốn tiểu thuyết? Câu trả lời nằm trong khả năng kỳ diệu huyền hoặc vô biên của văn chương.

Kỳ diệu và không biên giới, nên Hợp Lưu số 18 đánh dấu mốc vô cùng quan trọng. Tháng 8/94, trong thư ngỏ, Khánh Trường chính thức công bố hai bài viết gởi ra từ trong nước của các giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi thuộc Viện Văn Học Hà Nội. Nếu bài viết Sức Mạnh Văn Hoá và Sự Phát Triển Văn Minh của Hoàng Ngọc Hiến phân tích tổng quát tiến trình giao lưu không thể tránh khỏi trong khuynh hướng tương thùy (chữ của Hoàng Ngọc Hiến hàm nghĩa theo chiều ngang, đa quốc gia, đa văn hoá), và phân tích chi tiết sâu sắc những đòi hỏi văn hóa ở con người, ở một quốc gia, ở một dân tộc; thì bài viết của Nguyễn Huệ Chi, Vài Cảm Nhận Văn Học Việt Nam Hải Ngoại, tập trung khoanh vùng một thực tế đã khiến ông ray rức: Ðời sống tinh thần của người Việt xa xứ. Bằng uy tín cá nhân, bằng nghiên cứu cẩn trọng, Nguyễn Huệ Chi công khai tuyên bố sự hiện hữu của một dòng văn chương ngoài nước và đặc biệt - bài viết của ông toát ra khát khao chân thành tìm hiểu những sáng tác bên này biển. Tuy thiếu tài liệu tham khảo, giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã làm công việc nghiêm túc của người làm văn học: Xác định và đánh giá khách quan không thành kiến, không quan điểm, không lập trường, chỉ bằng chính tấm lòng ngay thẳng của mình. Bài viết của ông là một trong những bài viết đầu tiên mở đường cho những nhận định khác xây dựng trên cùng một giá trị vừa kể (xem Lê Hoài Nguyên, Một Cách Nhìn 18 Năm Văn Học Nước Ngoài HL14).

Tất nhiên, Khánh Trường và toàn Ban chủ biên, cùng các tác giả có hay không tham dự Hợp Lưu không chờ đợi Nguyễn Huệ Chi trích lục khai sinh. Cũng không chờ đợi ông đóng một nhãn hiệu cầu chứng, hay cấp bằng chất lượng ISO, cấp thẻ lưu hành cho xe máy văn chương trên 100 phân khối. Tất cả đều hiểu văn học hải ngoại hiện hữu bằng chính khả năng sáng tạo đã có và không cần bất kỳ một thị thực nhập cảnh nào, cho dù bị xem là văn chương Việt kiều. Ðiểm son trong bài viết của Nguyễn Huệ Chi nằm ở đây. Giáo sư không hề có tham vọng cấp hộ khẩu văn chương, nhưng khát khao tìm hiểu sáng tác của những nhà văn không có chứng minh nhân dân. Hợp Lưu số 18 đánh dấu một cách nhìn mới ở trong nước, một phần thưởng quý giá đối với Ban chủ biên, mà tất cả đã quý trọng lòng dũng cảm vô biên không chỉ với riêng Nguyện Huệ Chi mà còn với cả nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến đã can trường gởi bản thảo, và trách nhiệm hành động ý thức này.

Cùng trên Hợp Lưu 18, Phạm Thị Hoài gởi đăng hai truyện ngắn mới nhất chưa hề xuất hiện trong nước, hai truyện ngắn kinh dị của văn chương Việt Nam. Tiệm May Sàigòn miêu tả đời sống tâm lý kinh hoảng của bầy thợ may mang tên âm trắc, yêu dễ dãi và chết dễ dãi trong u tối văn hoá. Thực Ðơn Chủ Nhật liệt kê thức ăn đối chọi của hai thời đại xưa/nay, thời đại cơm bát bửu bị nhốt vào trong xó nhà chết sình thối không ai biết, và thời đại đái vào nồi rau muống luộc diễn ra trên vỉa hè của những hàng cơm tập thể thờ ơ với cái vừa chết. Phạm Thị Hoài, nhà văn duy nhất của giai đoạn đổi mới bùng nổ còn giữ lại phẩm chất sắc sảo trong tác phẩm, vẫn không gian milimètre, vẫn chuốt nhọn từng chữ, cân từng gramme dấu phẩy, đo từng đường kính mỗi dấu chấm, và xếp suy nghĩ thành hình khối thách đố trí tuệ. Truyện ngắn Ám Thị gần đây đăng trên Việt chứng tỏ tài năng nguyên vẹn này. Phạm Thị Hoài, trên sinh lộ mới của văn học như Thụy Khuê phân tích trong một bài phê bình cùng tên (HL11). Nhưng Phạm Thị Hoài không ngừng ở đó. Bằng hoàn cảnh sống, bằng những tham dự dấn thân, bằng thái độ sống, và đặc biệt bằng phong cách diễn đạt qua tác phẩm, Phạm Thị Hoài đã chiến thắng cụm từ Hải Ngoại-Trong Nước. Không ai dám nhận vơ Phạm Thị Hoài là nhà văn hải ngoại, và cũng thật khó khăn xếp Hoài vào nhà văn trong nước, khi Hoài sinh sống tại Bá Linh. Phạm Thị Hoài, một nhà văn Việt Nam, không trong, không ngoài.

12 năm không biên giới đã cho phép Hợp Lưu đăng tải voâ vàn những sáng tác, biên khảo, phỏng vấn của các tác giả trong nước. Không thể liệt kê hết 16500 trang của 66 số báo, chỉ có thể nhắc lại những ấn tượng chính:

Quả Vườn Ổi (Hoàng Cầm), Dị Mộng, Qua Sông (Cung Tích Biền), Ðàn Sẻ Ri Bay Ngang Rừng (Võ Thị Xuân Hà), Giấc Ngủ Nơi Trần Thế (Nguyễn Thị Ắm), Ðảo Ngụ Cư (Ðỗ Phước Tiến), Vũ Ðiệu Của Cái Bô (Nguyễn Quang Thân), Phù Thủy, Hậu Thiên Ðường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Lão Khổ (Tạ Duy Anh), Một Chuyện Phải Gió (Nguyễn Quang Lập), Gió Dại, Khắc Dấu Mạn Thuyền (Bảo Ninh), Mùa Hoa Cải Bên Sông, Người Ðàn Bà Xóm Trại (Nguyễn Quang Thiều), Bảy Trích Ðoạn Mùa Xuân Vùng Da Cam, Phòng Bốn Giường (Bùi Hoàng Vị), thơ Thanh Thảo, Nguyễn Ðỗ, Hoàng Hưng, Bùi Chí Vinh, Nguyễn Quyến, Nguyễn Quốc Chánh, Nguyễn Duy, Nguyễn Trọng Tạo, Trần Vàng Sao, Lâm Thị Mỹ Dạ, Triệu Từ Truyền, Lê Ðạt. Truyện ngắn Nhật Tuấn, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Ngô Thị Kim Cúc, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Trung Trung Ðỉnh, Lý Lan, Võ Thị Hảo, Trần Thị Trường, Hoà Vang, Nguyễn Bản, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng, v.v... Biên khảo lý luận của Nguyễn Kiến Giang, Lại Nguyên Ân, Bùi Thiết, Ðào Thái Tôn,Vương Trí Nhàn, Tiêu Dao Bảo Cự, Lê Ngọc Trà, Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Xuân Nguyên, Lê Hoài Nguyên, v.v... Ở mỗi bộ môn đều có rất nhiều bản thảo gởi ra từ trong nước như trường hợp Thằng Bắt Quỷ (Cung Tích Biền), Xuân Hồng (Nguyễn Huy Thiệp), Từ Man Nương đến AK (Phạm Thị Hoài), Không Ðề (Trần Vàng Sao), Chia (Nguyễn Trọng Tạo), Người Thuận Tay Trái, Chạy Ðạn, Dặm Trường (Trần Thị Ngh.), Tự Bạch, Tiểu thuyết Vô Ðề (Dương Thu Hương), Ngọn Núi Ảo Ảnh, Tuyệt Tình Cốc (Hoàng Phủ Ngọc Tường), Tầng Trệt Thiên Ðường, Nghiệp, Dị Mộng, Khu X Nội Quang (Bùi Hoàng Vị), Truyện Của Chíp, Bụi Nắng (Phan Huyền Thư), Văn Học và Xã Hội VN (Phạm Thị Hoài), Nhìn Chung Một Bức Tranh Hoàn Chỉnh Về Văn Học Dân Tộc (Phạm Xuân Nguyên), thơ Hoàng Hưng, Nguyễn Ðỗ, Nguyễn Quốc Chánh, nghiên cứu ngôn ngữ Nguyễn Bạt Tụy, tiểu luận Trần Ðộ, v.v... Sau hết, trận bút chiến kinh thiên giữa Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên, Thường Quán với Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Ngọc-Tuấn trong chủ đề Trí Thức-Phản-Trí Thức bắt nguồn từ Phê Bình Văn Học Của Hoài Thanh (Hoàng Ngọc Hiến) và ngay sau khi Lê Ðạt cao tuổi trượt chân. Phạm Xuân Nguyên, nhà nghiên cứu thuộc Viện Văn Học Hà Nội đã đóng lại đúng lúc cuộc tranh luận bắt đầu nghe ra tiếng sắt, tiếng vàng lẫn nhau đó. Nhiều bạn đọc lo sợ cho không khí căng thẳng có thể đổ bể bao công sức giao lưu, nhưng tôi tin: Một nền văn học khoẻ mạnh là một nền văn học phải có bút chiến, chỉ cần giữ được tinh thần bút chiến Phan Khôi. Các trận Cóc, Phản Trí Thức càng chứng minh hiện tượng giao lưu văn hoá là có thật.

Như vậy, mục tiêu ban đầu - Giao lưu văn hoá - có thật đạt được hay không? Khánh Trường có thể trả lời khiêm tốn: Thành công mỹ mãn! Hôm nay, bước vào năm thứ 12, tiểu thuyết Chốn Vắng của Dương Thu Hương, qua đại diện tại Pháp Phan Huy Ðường, tác giả cho phép đăng từng kỳ trên Hợp Lưu. Chốn Vắng, cuốn tiểu thuyết chưa bao giờ xuất hiện dưới dạng gốc Việt ngữ dù đã được phiên dịch sang Anh, Pháp. Chốn Vắng, mà mỗi trang in là mỗi trang thành tựu của chuyển động hợp lưu.


*


Tôi bước chân vào nghĩa trang Gò Vấp một tối vừa dứt mưa. Phần còn lại của nghĩa trang đã di dời, cải tạo chỉ là những vừng cây um tùm lá. Một góc tường đổ, chăng ngang sợi kẽm gai rỉ, đây đó lác đác vài gốc mả hoang không thân quyến nằm lẫn những hố sình. Buổi tối đen như mực. Càng bước vào sâu càng tối ám. Nhật Tuấn biến đâu mất. Tôi không biết anh ngồi ở đâu, cảm giác mình đi lạc. Tối quá, tôi mầy mò cố tránh những vũng nước bẩn và những bụi mía, đám trúc đâm tua tủa. Ai trồng mía ở đây? Bóng thiếu nữ vụt hiện ra.
- Anh tới mả em!
Những cánh tay trắng bất ngờ chập chờn vẫy. Những lùm cây lạo xạo. Ánh đèn cầy leo lét ở đâu cháy trong các hốc mả. Một tim đèn dầu phựt lên ma trơi.
- Anh ơi, mả em đằng này!
- Em ở mả này anh!
Tôi bắt đầu nhận rõ những chiếc bóng mảnh khảnh đang vây quanh vồ vập. Tiếng cười của các cô gái khiến khu mả vụt trở nên sinh động. Ðám con gái ăn sương cười rú chọc ghẹo.
- Anh tới mả em.
Tôi chọn cô gái đã mời đầu tiên. Thiếu nữ dắt tôi ra sau tấm bia. Các ngọn nến phụt tắt. Những chấm tim dầu đỏ cũng tắt ngấm. Khu mả trở lại tối tăm lạnh lẽo.
Cô gái trắng nhờ nhợ, chậm rãi bóc nhãn, rót bia. Lúc đi ra sau mộ tìm chỗ tiểu, tôi bật quẹt để nhìn gương mặt người chết: Nguyễn Thị Thanh Hương, hưởng dương 21 tuổi, không có ảnh. Ngọn gió chao khiến diêm quẹt tắt. Ý nghĩ cô gái ngồi cạnh cũng đang nằm phía trước, nhưng Thanh Hương đã đút nhãn, xé mực, mời bia. Ðêm nghĩa địa giống đêm trong bất cứ một quán bia ôm nào. Tôi đứng lên khi nghe tiếng Nhật Tuấn tìm. Thanh Hương chìa tay:
- Hoá vàng đi anh.
- Hoá vàng? Tôi không hiểu. Cô gái cười khúc khích:
- Tám lăm ngàn, tống đạt cho em đi.
Tôi đưa tiền, cô gái dặn với:
- Mả em ở lô 12/40, rảnh ghé chơi em.
Gò Vấp buổi tối khuya khoắc, đường về phía bệnh viện Cộng Hoà cũ vắng vẻ. Tôi rủ Nhật Tuấn đi ăn cháo Nhà Xác, nhưng anh nói xa lắm, tối quá không chắc còn bán. Chúng tôi ăn cháo rắn ở sạp Ả Oai. Ánh điện néon xanh mướt. Gương mặt cô bán cháo tím tái tựa xác chết, vô cảm trước những lời chòng ghẹo của vài khách nhậu. Tôi nghĩ đến cô gái bán bia ôm lúc nãy. Nhật Tuấn trách :
- Mày nhát quá. Ði chơi, chơi cho đáng tiền!
- Không thể nào làm giữa bãi tha ma như vậy. Với phải có tình cảm, trở lại nhiều lần thành bạn gái thân thì mới có thể...
Tôi không biết giải thích sao cho anh hiểu, cũng không sao phân biệt được trứng rắn với hạt sen trắng nõn trong tô cháo bốc khói nghi ngút.
- Mày lãng mạn công tử máy lạnh quá! Ăn cháo đi, ở đây rất ngon và rất rẻ.
Tôi húp cháo, vẫn nghĩ đến Thanh Hương. Làm sao cô gái biết sử dụng ngôn ngữ hay đến vậy? Hoá vàng? Tống đạt? Phải rồi vì đồng tiền tiêu ở quán bia ôm là đồng tiền ma quỷ. Ðồng tiền Việt kiều đổi ra bạc triệu như giấy cũng không có thật. Tất cả chỉ là vàng mã. Làm sao người viết ở ngoài nước với bill, voucher có thể nghĩ ra một câu gọi tính tiền văn chương hay hơn? Làm sao Thanh Hương, một cô gái trẻ bỏ học rất sớm, quê quán Cần Thơ chưa bao giờ đọc tiểu thuyết có thể nghĩ ra điều đó? Ðồng tiền đang tiêu trên đất nước này là đồng tiền ma quỷ. Không phải tiếng lóng của giới son phấn, chưa cô gái bia ôm nào nói với tôi ngôn ngữ đó và đồng nghiệp của Thanh Hương không đòi Nhật Tuấn trả tiền giống vậy. Hỏi Nhật Tuấn chuyên viên Ði Về Nơi Hoang Dã, hỏi Cung Tích Biền tác giả Cái Chết Của Một Con Ðĩ Ngựa, hỏi Nam Dao tác giả Người Mình, Phạm Xuân Nguyên, Phan Nguyên, nhị nguyên rất rành, rất am tường cũng chưa bao giờ nghe...
Sáng hôm sau, tôi bước chân vào quán bia-rượu-cà phê của thi sĩ Triệu Từ Truyền, chủ biên tạp chí thơ Gieo Mỡ. Sài gòn tháng 7, nắng gay gắt. Ðường Phan Thanh Giản-Ðiện Biên Phủ giữa trưa hầm hơi thiêu đốt. Càng tiếp xúc, tôi càng nhận ra cuộc đời tinh thần của giới sáng tác diễn ra nơi hàng quán. Tôi đã lê la bao nhiêu quán với Mai Thảo, Khánh Trường ở Cali, đã ngồi chiếu thịt cầy Nhật Tân với Nguyễn Huệ Chi, ăn bún chả Hàng Mành với Dương Thu Hương, uống cà phê Hồ Xuân Hương với Bảo Ninh, chui dưới gầm cầu Gia Hội ăn bánh khoái với Hoàng Phủ, leo dốc Nam Dao ăn bún dấm nuốt với Ngụy Ngữ, bar Thiên Ðường, Guns n' Roses với Cung Tích Biền, cá sấu chấm chao, trúc, cheo, nhím, rắn, cóc, dơi, khỉ ở quán Tri Kỷ, Quê Hương, Thuyền Quang, Hàng Xanh, Hoàng Ty... Kể lại kỷ niệm hàng quán ở câu lạc bộ Triệu Từ Truyền trưa đó để giải thích thêm hiện tượng bản thảo trong nước đến tay chủ biên Hợp Lưu đôi khi vòng vo tam quốc thật tình cờ. Trưa nóng, tôi với Cung Tích Biền đánh cờ. Tôi thử đánh liên tiếp pháo trùng, pháo lồng, song pháo, thua xiểng liểng... Cung Tích Biền tác giả Ngoại Ô Dĩ An đánh cờ cũng huyền ảo như ông viết Dị Mộng. Tôi loay hoay cố nhớ truyện ngắn tâm lý Ván Cờ của Vĩnh Hảo để tìm lối thoát. Triệu Từ Truyền dẫn một thanh niên to, cao đến giới thiệu:
- Ðây là Bùi Chí Vinh, đây Trần Vũ viết trên Hợp Lưu.
- Ai cho đăng bài thơ Con Ngựa trên Hợp Lưu?
Bùi Chí Vinh đầy bia bọt, da sạm, đẹp trai, và du côn.
- Mày phải hỏi thằng Khánh Trường, hỏi chi ở đây. - Anh Cung Tích Biền đỡ hộ.
- Chính Vũ chép lại gởi cho Khánh Trường bài thơ Con Ngựa. - Tôi trả lời.
- Ai cho? Sao không xin phép? - Bùi Chí Vinh đã ngồi xuống, hất hàm.
- Anh Nam Dao sang Pháp đọc cho nghe, rồi chép lại.
Tôi kể lại chuyện những buổi tối cùng Nam Dao lê la các hầm rượu Paris, Nam Dao ngâm bao nhiêu bài thơ Bùi Chí Vinh đã đọc cho nghe năm 80. Tôi chép bài Con Ngựa ưng ý nhất gởi cho Khánh Trường.
- Hà, hà.. tay Nam Dao. Nam Dao thì toàn quyền...
Bùi Chí Vinh cười rung người, rồi lại bực bội:
- Nhưng sao không trả nhuận bút?
- Trên Hợp Lưu ai cũng viết chùa. Khánh Trường rất nghèo, không có tiền trả nhuận bút, nhưng nếu Vinh đòi thì trả.
- Trả một chai Whisky đi. - Bùi Chí Vinh đề nghị.
- Rồi.
Triệu Từ Truyền đem ra một chai Johnnie Walker nắp đỏ. Tôi đếm 180.000 đồng trả. Không khí tưng bừng trở lại. Cung Tích Biền dẹp cờ tướng, Triệu Từ Truyền ngâm thơ, đãi rượu rắn, cả đám cạn thêm két bia, khui chai rượu nhuận bút uống cho hết một buổi chiều hoang vu nữa trên mặt đất. Chép lại bài thơ Con Ngựa đã đăng trên Hợp Lưu số 11, để nhớ người thơ ngang tàng Bùi Chí Vinh và nhớ Khánh Trường còn thiếu nợ chai rượu ứng trước.

Tụi nó cưỡi lên anh làm ngựa Khiến lưng anh trổ lông và gáy mọc ra bờm Anh vừa hí vừa vặn mình nôn mửa Một đống lạ lùng nửa áo nửa cơm 
Tụi nó lại treo trước đầu anh một giỏ hoa thơm Có mùi văn chương có hương nghệ thuật Anh nghiến răng nhai vội cuống cuồng Ðến khi ợ mới biết mồm tàn tật 
Tụi nó lại bắt anh ăn tươi sự thật Nên nước mắt em đã đông đặc thành chuông Anh cố sải dù bốn chân cà nhắc Ðể thấy rằng mình còn một quê hương 
Bài thơ thẳng băng không ẩn dụ. Giống đời sống tinh thần của giới sáng tác cũng diễn ra không ẩn dụ ở hàng quán, và giao lưu văn hoá, có lẽ, sau chót là giao lưu hàng quán với đầy tình cờ như tất cả đã gặp gỡ. Nếu qua cung cách đối xử trở thành bạn, thì giữ được tình bạn mới khó. Hợp Lưu đã thành công, giữ được Hợp Lưu còn là một thách đố.


*


Ðã điểm qua giai đoạn hình thành lịch sử, những khó khăn triền miên, những thành tựu nhất định, không thể không tiếp tục dàn bài mà các giáo viên văn chủ nhiệm không ngừng nhắc nhở: Ðã có thành tựu, phải có giới hạn và truy xét kinh nghiệm bản thân... những tiêu chuẩn đòi hỏi của văn học chính quy. Giới hạn của Hợp Lưu nằm ở đâu?

Mở lại các trang báo cũ, bạn đọc nhận ra ngay từ Hợp Lưu số 3, chủ đề văn chương nữ đương đại, Khánh Trường đã tham vọng... khai phá, vung lựu đạn đòi hỏi quyết liệt cách tân, đổi mới sáng tác. Hiện đại hoá văn chương Việt, hậu hiện đại hoá, hay đương đại hoá sẽ là khẩu hiệu, lá cờ quyết chiến-quyết thắng, quyết tử cho văn chương quyết sinh của chủ biên mặc dù anh không thể định nghĩa thế nào là hậu hiện đại. Ðiều kỳ lạ, rất đông đảo giới sáng tác đã đồng loạt lên đường trong giai đoaïn đầu, đồng loạt khởi phát một phong trào sẽ để lại nhiều tiếng tăm lẫn tai tiếng: Phong trào sinh dục hoá thi ca. Song song, nẩy sinh một hiện tượng khác: Các sáng tác trên Hợp Lưu (và tạp chí Thơ, một tạp chí đồng hành, chuyên ngành, đồng tâm huyết) thường rất khác lạ, trên hình thức, trong kỷ thuật, với đầy liều lĩnh.

Nhưng làm sao tổng biên tập Hợp Lưu, Khánh Trường, chưa khoác lên mình áo hoàng bào trưởng thượng, chưa đội vương miện thi bá, chưa xuống tay đao phủ văn xuôi, chưa lập thuyết có thể triệu tập tinh hoa của sáng tác ngoài nước? Và tại sao tất cả cùng đi tìm dâm tính, noạ tính trong văn chương như Trương Vũ nhận xét? Tôi không tin Khánh Trường có khả năng giao tế đến mức quy tụ hào kiệt, anh đôi lúc rất vụng về miền viễn tây, khiến một số sáng tác first choice như trường hợp truyện ngắn xuất sắc Trong Buốt Pha Lê, Kịch Câm, Treo Ðầu Dây Quan Họ của Nam Dao, do tôi chuyển đến Hợp Lưu trước nhất, cuối cùng vì Khánh Trường chậm trễ đã xuất hiện trên Văn Học. Có thể giải thích, bằng ý chí quyết tâm khai phá, bảo vệ môi sinh hoang dã, hỗ trợ tối đa mạch văn không chính quy, giao hẳn mấy chục hectaređất trên Hợp Lưu cho các tác giả trẻ muốn làm gì làm, Khánh Trường đã lôi kéo về anh sức mạnh của sáng tác. Chính tự do tuyệt đối trong sáng tác, trên Hợp Lưu, không bài vị, không kỵ huý, không Khổng Mạnh, không quốc cấm, "no care" như Khánh Trường thường hãnh diện, đã tạo cơ hội mới cho sáng tác. Nguyễn Hưng Quốc nhận xét hiện tượng đó một cách tổng quan và đại cương hơn trên Hợp Lưu số 40:
"Nếu quan sát kỹ sinh hoạt văn học hải ngoại từ trước đến nay, chúng ta sẽ thấy hiện tượng thú vị: thỉnh thoảng, có lúc, hình như, tự dưng một số nhà văn, nhà thơ (đặc biệt là các nhà thơ), một cách hoàn toàn tự phát nhưng lại gần như đồng loạt, từ giã tờ báo này để cộng tác với một tờ báo khác. Sự 'chuyển luồng' ấy thú vị ở chỗ: nó tự phát nhưng lại khá đồng loạt. Và nó để lại dấu ấn không nhỏ trên diện mạo của cả tờ báo trước lẫn tờ báo sau. (Theo tôi, những hiện tượng 'chuyển luồng' như thế thể hiện rõ hơn đâu hết quá trình vận động lặng lẽ của ý thức văn học của từng thời kỳ). Những sự chọn lựa âm thầm ấy của giới cầm bút góp phần quan trọng, chắc chắn còn quan trọng hơn cá tính của người chủ biên, trong việc định hình diện mạo và giá trị của tờ báo, từ đó, dẫn đến hiện tượng có thể có hai tờ báo có những cộng tác viên chính tương đối giống nhau mà chất lượng vẫn khác hẳn nhau: một tờ khá, một tờ kém; một tờ cấp tiến, một tờ bảo thủ; một tờ trăn trở đi tìm cái mới, một tờ tiếp tục ầu ơ những bài ca cũ. Ðại khái, cũng chỉ chừng ấy người viết chính" (trích Vài Ý Nghĩ Thoáng Về Báo Văn Học, Nguyễn Hưng Quốc, HL 40).

Nhà phê bình chụp bắt chính xác điều mà giới sáng tác đã cảm nhận từ rất lâu. Phân tích đó đặc biệt đúng với Hợp Lưu, một tạp chí chia sẻ người viết với các báo bạn, Văn, Việt, Văn Học, Diễn Ðàn... nhưng sự 'chuyển luồng' đó khác thường ở chỗ tập trung vào mặt hình thức, dâm tính hoá văn chương cùng cực dưới tên gọi: Khai Phá - mục tiêu chánh thức thứ nhì của Hợp Lưu.

Có thể chia lớp người viết trẻ - hiểu theo nghĩa trung niên trẻ mà Thế Uyên định nghĩa- tham dự trên Hợp Lưu làm hai nhóm. Nhóm phá phách nổi: Ðỗ Kh., Nguyễn Hoàng Nam, Ðinh Linh, Trân Sa, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Nh., Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc (trong thơ), Huỳnh Mạnh Tiên, Thế Uyên, Nam Dao, Chân Phương, Mai Ninh... và nhóm nghịch ngầm: Khế Iêm, Ngu Yên, Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phan Tấn Hải, Dã Tượng, Ngọc Khôi, Phạm Việt Cường, Lê Thị Huệ, Nguyễn Hương, Lê Bi, Thuận Ánh... Những tác giả khác, hoặc thầm kín như trường hợp Hồ Ðình Nghiêm, hay tách bạch trầm tĩnh, tĩnh mịch riêng rẽ và độc lập tiếp tục văn nghiệp đã định hướng như Võ Ðình, hoặc thu gọn trong trường phái nhất quyết không phát vãng trinh tiết: Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh, Thơ Thơ, Hồ Minh Dũng, Phan Thị Trọng Tuyến, Vĩnh Hảo, Miêng, Trần Thị Diệu Tâm, Sông Phố, Song Thao, Trần Mộng Tú... Nếu Chân Phương, Khế Iêm nhanh chóng chiếm chức lý thuyết gia của phong trào, trên mặt thi ca, trong văn xuôi chưa ai lý thuyết hoá những điều mình muốn viết. Tất cả chỉ biết ra đấu trường giác đấu với một chủ biên no care, với một tinh thần hung hãn của Mai Thảo.

Khai phá - phải hiểu là một cách nói đoạn tuyệt lịch sự. Giống Mai Thảo đã đoạn tuyệt với Tự Lực, chấm dứt một thời đại văn học, khởi sinh một thời kỳ Sáng Tạo nguy nga mới ngay khi ông vào Nam. Ðoạn tuyệt với Ðoạn Tuyệt của Khái Hưng, Nhất Linh. Ðoạn tuyệt với cái Tôi xã hội, Tôi chung của mùa thu tiền chiến. Lên đường, chất nổ đã ném vào, cờ đã phất lên, dù chưa biết đi về đâu. Có thể xem đây là nền tư tưởng chính của ban chủ biên Hợp Lưu cùng hai nhóm nổi-chìm trong suốt giai đoạn vừa qua. Một lập lại tư tưởng đoạn tuyệt của Mai Thảo, nhưng với chính... Mai Thảo. Ðoạn tuyệt với các bạn bè ông: Vũ Khắc Khoan, Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Ðỗ, Thanh Nam, Võ Phiến, Túy Hồng, Tô Thuỳ Yên, Nhã Ca, Dương Nghiễm Mậu, Trần Dạ Từ, v.v... Ðoạn tuyệt với cái Tôi Trí Tuệ của Thanh Tâm Tuyền! Ðoạn tuyệt luôn với hai thập niên hải ngoại thừa kế vừa qua. Lớn lao, khổng lồ, đầy tham vọng nếu đọc lại những gào thét của chủ biên Khánh Trường trong những lá thư toà soạn, nhưng đằng sau tư tưởng đó, là cả một vực thẳm sương mù trùng điệp mênh mông dài sâu hun hút, không đáy, không tiếng động, không hình dáng, không có gì rõ rệt. Vùng tuyệt Mù, như Thụy Khuê sẽ thật nhanh nắm bắt.

Trong đấu trường mờ mịt ở Châu Âu, Úc và Bắc Mỹ, trong chốn vắng tư duy đó, các tác giả hung hãn nhất, nhất quyết ra khơi. Phải nhìn nhận, trong những số Hợp Lưu đầu tinh thần ra trận của Phạm Tiến Duật đã có. Ðường ra trận mùa này đẹp lắm, trường sơn đông hú gọi trường sơn tây... Tất cả đã đồng loạt cùng một lúc thay đổi bút pháp, hình thức, câu chữ và đăng tập trung trong vài số báo. Nếu đại đa số chọn khuynh hướng biểu trưng đậm đặc, một số khác chọn trường phái dã thú, nhưng tất cả đều đã ùa đi tìm ấn tượng. Truyện ngắn Sắc Màu của Vũ Quỳnh Nh. đã mở đaàu bằng ba câu nhập hết sức khiêu khích:
- Gái tơ, trẻ đẹp đủ cỡ, ông thích không?
- Gái trẻ đẹp biết cách chiều chuộng, mời ông vô?
- Gái...
(trích Vũ Quỳnh Nh, Sắc Màu, HL3)

Chỉ với ba chữ Gái rao mời sáng tác khai phá, Vũ Quỳnh Nh. đã khẳng định mình không thuộc trường phái Chim Hót Trong Lồng của Nhật Tiến, vứt trả hết cho thầy Trần Trọng Kim những tâm huyết của nghề văn. Cùng trên Hợp Lưu số 3, Trân Sa viết truyện tình Thời Nàng Còn Ðiên và chứng tỏ Sa biết điên. Bốn số sau, Bản Chính trên Hợp Lưu 7, kể lại những ám ảnh hốt hoảng của một thiếu nữ chạy đuổi bắt chính mình thời nhỏ đang lao xuống vực thẳm của đời sống. Hốt hoảng trước những vuốt ve si mê của Vũ Anh, một người bạn gái, hốt hoảng trước những ngón tay mảnh dẻ cởi cúc xoa êm dịu làn da trần dịu mát của buổi chiều vừa chấm nắng. Sau ân ái, Trân Sa lặng lẽ bước ra vườn, tắt đèn ngồi ở bậc tam cấp lắng nghe những im lặng của chính mình. Truyện ngắn đã cố dấy lên một luồng gió.

Trước 75, Trần Thị Ngh, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Lệ Hằng cũng táo bạo, nhưng chủ yếu ở suy nghĩ, thường chay tịnh ở mặt hình thức. Trần Thị Ngh vẫn bấm cúc mặc áo dài ra đường sau mỗi trận làm tình ẩm ướt mồ hôi trong căn nhà hẹp có cửa khoá trái. Túy Hồng nhìn lên vách chiếc bóng sinh lý của đời sống vợ chồng. Nguyễn Thị Hoàng nằm suốt đêm trên đất, giữa căn biệt thự vắng vẻ Ðà Lạt, chỉ với những ngón tay xoắn xít trong tóc, chỉ dám mơn trớn cườm tay của cậu học trò dậy thì tên Minh. Lê Hằng loạn luân trong bản Tango cuối cùng và yêu rất nhiều cha xứ, nhưng chưa làm vị linh mục nào xuất tinh. Trân Sa, Vũ Quỳnh Nh, Phạm Thị Ngọc trong văn xuôi, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc trong thơ không vậy. Nguyễn Thị Hoàng Bắc vén áo dài thản nhiên ngồi tiểu, nghe tiếng nước đái nhỏ giọt trong bồn cầu tí tách, thứ nước ấm sóng sánh vàng hổ phách trong người tôi tuôn ra (HL35). Phạm Thị Ngọc không mặc lại áo lót sau khi làm tình nằm trần truồng nghĩ ngợi miên man, cho phép các nữ sinh chơi trò cô dâu-chú rể, cho phép trò Ngà đưa tay mân mê vú của trò Uyên giữa trưa nắng đứng ngọ giữa đồng (HL15). Lê Thị Thấm Vân năm 15 tuổi ngực dậy thì con gái, đầu vú nở bung(HL13), liếm sạch những giọt mồ hôi tình, sau Cuộc Tình (HL40) và Nguyễn Thị Thanh Bình, Trân Sa thích trần truồng dẫy dụa như con nhộng đưa ngực cho người tình... điểm tâm không chút nuối tiếc (HL18). Các tác giả nam còn táo bạo hơn nữa, Ðỗ Kh, Nguyễn Hoàng Nam nhanh chóng khiến các độc giả cao niên phải đội mũ bảo hộ mỗi khi đi xe ôm văn chương trên Hợp Lưu. Có thể nói, phong trào sinh dục hoá văn chương đã đem đến cách ân ái mới trong thơ văn ở ngoài nước. Mai Ninh, một tác giả chuyên trị nhục thể đến sau với Mây Một Ngày, với những tấm màn trắng phất phới phập phồng trên thân thể hai người đàn bà xiết chặt đùi ướt đẫm cùng giao hợp thân xác trong căn phòng xanh xao trông xuống cảnh vườn chùa u uẩn. Ðêm Rượu Ðợi của cùng tác giả này, đăng ngay sau đó trên Hợp Lưu, đánh dấu một cách nhìn tâm sinh lý khác. Lần đầu tiên, trong văn xuôi, nhân vật nữ chính xưng tôi yêu mê đắm một người đàn ông, chờ đợi suốt buổi chiều người tình lỗi hẹn, rồi quyết định làm tình với ông lão gác dan để thoả mãn dục vọng. Lệ Hằng, Nguyễn Thị Hoàng, Tuý Hồng, Trùng Dương, Trần Thị Ngh, Nguyễn Thị Thụy Vũ thời lao vào lửa đã chưa bao giờ cho phép sinh lý lấn lướt tình yêu đến như thế. Các truyện ngắn khác, Apocalypse Now của Vũ Quỳnh Nh., truyện ngắn dâm dật chủ ý của Thế Uyên, Không Khí Thời Chưa Chiến của Ðỗ Kh. với đối thoại sinh dục trắng trợn trong một căn phòng khách sạn Hồng Kông, hoặc Chỗ Trọ Trong Vườn Chuối của Ngọc Khôi, một tác giả bình thường không phát vãng trinh tiết, bất ngờ miêu tả những dòng nước lạnh chảy trên thân thể đàn ông hâm hấp rắn chắc trong một vựa chuối của hai mẹ con chuyên nuôi bệnh nhân trốn khỏi nhà thương điên, hưởng dương vật của người bệnh rồi lấy đá đập đầu cho đến chết! Với những miêu tả rõ ràng không dấu giếm, truyện ngắn đã đi tìm trận gió kinh thiên. Góp mặt của tôi giai đoạn đó, không khác bạn bè cùng đến với Hợp Lưu, nếu Giấc Mơ Thổ không nằm ngoài phong trào sinh dục, Mùa Mưa Gai Sắc là nỗ lực đoạn tuyệt với Nguyễn Huệ trong Sông Côn Mùa Lũ (xin hiểu đoạn tuyệt với cách nhìn chính thống, không với tác giả Nguyễn Mộng Giác, nhà văn đàn anh đã đem đến say mê bao ngày Mùa Biển Ðộng).

Nhưng chính các thi sĩ mới là những kẻ đã lên đường quyết liệt nhất. Cùng trên Hợp Lưu số 3, số của thời nàng còn điên, số có gái tơ trẻ đẹp chiều chuộng đủ cỡ, Ðỗ Kh. chính thức lập khai sanh cho phong trào sẽ in đậm bàng quang anh: Âm đạo rung rinh có động cơ điều khiển, Âm hạch xẻo luôn cho mày hết đường động cỡn, Tôi kiếm con nào chừng mười ba mười lăm, Vừa lú nhú li ti lông xoăn, trả Cash! Chân Phương thừa nhận và lập thuyết: Trong thơ phải có vú... Rất nhanh, Linda Mặt Ngang, Trong Túi Việt Kiều Cái Gì Tôi Cũng Có của Ðỗ Kh, thơ rách toạc slip, soutien, mông, đít của Nguyễn Hoàng Nam, thơ yêu chồng cho chồng sờ mó của Lê Thị Thấm Vân làm thay đổi hẳn hình ảnh quý phái của thi ca.

Võ Phiến, một thời, đã định giá thơ một cách tôn nghiêm sùng bái: Thơ, con đường vương giả trong văn chương. Mai Thảo, cuối nghiệp văn, bỗng dưng quên hết những Chuyến Tàu Trên Sông Hồng, Ðêm Giả Từ Hà Nội, những Viên Ðạn Ðồng Chữ Nổi, những Hạnh Phúc Ðến Về Ðêm, quên hết gia sản của ba mươi năm viết tiểu thuyết, gia sản có Karen, người tình của Viễn, người đàn bà Thụy Ðiển tóc vàng nở nang, dâm đãng, khoả thân tự do đi lại trong căn appartement đường Catina mở tung cửa cho mọi người cùng nhìn ngắm.. quên heát những ngày ông Gần Mười Bảy Tuổi để tự định nghĩa lại mình: Thơ là tiếng nói tận cùng và chung quyết của văn chương! Tôi. Thơ.

Cuối nghiệp văn, có lẽ, Mai Thảo lẫn Võ Phiến đã ngỡ ngàng nhìn con đường chung quyết trở thành bãi tắm truồng, và thi sĩ mua dâm đứng phóng uế nhan nhản ở mỗi ngã năm bùng binh vương giả. "Chúng mày không đi ngã tắt vào văn chương, thơ không phải là chỗ cho chúng mày bôi bẩn, chúng mày không được bựa! Phất phơ hồn của bông hường, nghe trong phiêu bạt còn vương máu hồng.. Thơ của người ta biển trời, trí tuệ, chúng mày không bao giờ có thể cất cánh được, thơ của chúng mày ở dưới đất!" Mai Thảo, sinh thời hay bẳn gắt, cáu giận mỗi khi nghe bàn đến thơ hải ngoại. Ông xứng đáng... làm trưởng thượng của lớp người muốn đoạn tuyệt với ông. Trưởng thượng mắng lúc nào cũng nặng, nhưng thi sĩ tỉnh bơ, như Chân Phương vẫn giả vờ cười hoát ngộ, nghe ma quỷ vỗ tay (HL18).

Nhưng nếu Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Trân Sa còn giữ được chiếc quần tắm nhỏ xíu xinh xắn dù mỏng manh của các nhà thời trang Elisabeth Arden, Prada, Hermès, Valentino; Ðỗ Kh., Nguyễn Hoàng Nam, thêm Âm Hộ Ðịt của Trần Minh Quân, đã khơi khơi phóng xe máy thơ tốc độ cao với thân thể tô hô tồng ngồng không mảnh vải của họ. Chưa có thời nào thi sĩ làm thơ ngon lành vậy, và cũng chưa giai đoạn văn học nào bạn đọc thơ ngã xe gắn máy vỡ óc chết tươi nhiều như vậy. Nguyễn Hoàng Nam nhanh chóng tìm ra niêm luật của thơ khai phá. Dành đường, lấn trái, phóng nhanh, vượt ẩu bỗng nhiên, chỉ qua dăm bài thơ, một sớm chiều vụt trở thành tấm bảng chỉ đường của cả một nền thi ca hậu hiện đại.

Phản ứng của độc giả dữ dội, chắc chắn. Phản ứng của các đồng nghiệp tiết hạnh sôi nổi, qua Trần Mộng Tú, một thi nhân trong sạch, gởi bạch thư kháng cáo. Hồi (hiếp) (d)âm tức khắc ân cần của Ðỗ Kh., Nguyễn Hoàng Nam. Trong Tổng Tập 20 Năm Văn Học Hải Ngoại, Nguyễn Hoàng Nam tự giới thiệu: Phục vụ tận tâm, giá cả phải chăng, giao tận nhà... Tận tâm đến mức Phạm Trọng Luật, ngòi bút tiểu luận Phật tử thuần hành khúc chiết của tạp chí, phải nhảy bổ vào làm Ðường Tăng phá vây cho Trần Mộng Tú sắp... bị khai phá. Ðường Tăng chưa kịp lần chuỗi hạt, Phạm Thị Hoài đã tiếp ứng Dương-Quá Ðỗ Kh. bằng ngọc nữ tâm kinh Sờ Linda, sờ luôn Ðường Tăng. Vương Trùng Dương của Toàn Chân Phái Hoàng Nguyên Nhuận dùng nhứt dương chỉ điểm mặt, và phái Võ Ðang chính giáo Mộc Hương, Ngô Nhựt Tân lao vào tiếp chiến với Ỷ thiên kiếm. Tây Ðộc Âu Dương Phong Thương Nguyên cứu Dương-Quá hạ độc thủ hàm mô công: Nguyễn Du bây giờ sống lại có thể viết Linda mặt ngang! Hợp Lưu các số 31, 33, 36, chủ đề tranh luận Thanh-Tục, bỗng chốc trở thành sân tinh võ, đấu chưởng hay hơn phim bộ. Giữa những tuyệt chiêu và giữa những đường gươm nguyên bá, Võ Ðình trầm tĩnh lập lại lời một hoạ sĩ Nhật Bản: Tôi không vẽ con két, tôi chỉ vẽ không gian két vừa bay qua. Võ Ðình muốn nhắc khéo tất cả: Trong thơ, văn, không gian mới là quan trọng, hơn sự vật. Ðỗ Kh đã có thể trả lời Trần Mộng Tú: Tôi không miêu tả bộ phận sinh dục, tôi chỉ tả không gian bộ phận sinh dục vừa đi qua... Duy phản ứng khác, trầm trọng hơn, nhà văn Nhật Tiến có lẽ đã nghĩ lớp viết trẻ dâm bôn ưa phá phách, không coi trọng chuyển động tâm huyết Hợp Lưu, xa rời dần tờ báo. Nói sao cho thầy hiểu, về người tình dễ thương bao ngày bọn em say đắm... 
Nhưng tư tưởng chính đằng sau những bộ phận sinh dục treo, móc, dán, ướp, xâm trong thơ nằm ở đâu? Và thế nào là nền thẩm mỹ mới? Chân Phương, Khế Iêm, Hoàng Ngọc-Tuấn đã viết nhiều bài lý thuyết đăng trên Hợp Lưu, Việt, Thơ, nhưng với rất đông, hố thẳm sương mù vẫn sâu thăm thẳm. Tất cả đã cố gắng bơi về những bến bờ cận đại của thế giới. Sương mù phủ trùm lấp khó phân biệt đâu là bến hậu hiện đại, bến Ða Ða, bến lập thể, bến hiện thực huyền ảo.. Mặc, mù vẫn ra khơi. Không thấy đường vẫn cứ lên đường. Ði đâu chưa biết, tách bến, nhổ neo, sửa soạn chất nổ, chỗ nào có viện bảo tàng thì ném vào! Không gìn giữ tiếng mẹ đẻ, phải phá bể tiếng mẹ đẻ. Khoâng bảo tồn di sản văn hoá, phải sắm sửa thêm cho văn hoá theo đúng thời trang thế giới, áo thun hở rún, quần xệ có đinh, slip string, piercing mũi, lưỡi, môi, rốn, văn chương ăn nhịp chuyển động toàn cầu, hết rồi thần tượng Che, hết rồi Marx, xa rồi Jane Fonda, phải bắt cho kịp dòng nhạc Kim Khí Ðen Black Metal, căn bệnh u trầm của Kurt Cobain và phơi bày cho bằng được cái đẹp sinh dục trần trụi lõa thể không phân biệt giới tính... Có thể tóm lược nền thẩm mỹ hình thức nỗ lực tối đa trên Hợp Lưu qua những dòng trên. Một nền thẩm mỹ giao (hợp) lưu như tên gọi bổn hiệu tạp chí. Giao hợp trong nghĩa bóng lẫn nghĩa đen với thế giới, với nhân loại, với những người đồng tính, với tất cả những gì có thể giao hợp. Nhưng cũng có thể tóm lược một cách nghiêm túc như Thụy Khuê đã nhạy cảm nắm bắt: Vùng Tuyệt Mù.

Vùng Tuyệt Mù? Phê bình thơ Nguyễn Thị Thanh Bình, một gương mặt khai phá cấp tiến trên Hợp Lưu, Thụy Khuê trích dẫn định nghĩa của Vũ Khắc Khoan: Cái đó, cái mà cho đến hôm nay, chưa một vị thiện-trí-thức, chưa một vị bồ tát nào mô tả được hình tướng, xác định được thể chất, cái đó có thể giản dị như mưa và nắng, hiện hữu rất tự nhiên -mặt trời lại mọc lúc đêm tàn- nhưng cũng lại có thể vô cùng phức tạp, ẩn hiện khôn lường.. Cái đó -chính nó- đôi khi vẫn thấp thoáng trong tôi, hoá trang thành những lời tra vấn trớ trêu, những tại sao ray rứt, lãng đãng quanh tôi, tưởng như dễ dàng nắm bắt, bỗng lại xa vời, nhoà dần, biến hẳn, tuyệt mù (Ðọc Kinh, Vũ Khắc Khoan, nxb An Tiêm & Sóng Từ Trường 1, Thụy Khuê, nxb Văn Nghệ).

Vùng tuyệt mù của con hùm xám Vũ Khắc Khoan, cách đây nửa thế kỷ đã vô cùng phức tạp. Ngắn gọn và trực tiếp hơn: Camille Claudel, nữ điêu khắc gia nổi tiếng của Pháp, viết thẳng: Il y a toujours quelque chose d'absence qui me tourmente. Luôn có điều gì đó vắng mặt tra khảo tôi. Thú nhận đau đớn của nữ điêu khắc gia đầu tiên đã tạc tượng bộ phận sinh dục đàn ông.

Ðiều gì đó vắng mặt, chính là vùng tuyệt mù hay vùng sân khuất, mà tất cả nghệ sĩ trên thế giới lùng kiếm. Ðổi mới sáng tác trên Hợp Lưu, do đó, trước tiên và sau hết, là đổi mới hình thức ghi khắc vùng tuyệt mù này. Chính trước những tra khảo của bản thân, Ðỗ Kh. viết: Tôi rất thích đĩ. Chính trước những dằn vặt mà Camille Claudel hứng chịu đưa đến cái chết trong điên loạn lúc cuối đời, khiến Ðỗ Kh. tra vấn: Ðàn bà là đồ chơi của đàn ông? Nguyễn Thị Thanh Bình làm thơ trả lời: Ðàn bà không là đồ chơi của đàn ông, cùng lúc thú nhận những tra khảo của chính mình -và tham dự khai phá- Thanh Bình vô tình chấp nhận làm đồ chơi, chơi chung trò chơi mới: Trò chơi thân xác của ngôn ngữ. Những dòng thơ xối xả của Lê Thị Huệ, những dòng thơ say mê không dứt gợi cảm của Lê Thị Thấm Vân, những dòng thơ nghịch ngợm trong trẻo tràn đầy phung phá của Trân Sa tiếp tục đi tìm điều gì vắng mặt đang xâu xé hay chưa biết đến. Bằng diễn đạt hình thức, đặt trọng tâm thể xác, những nhà thơ sinh dục hoá thi ca đã đi tìm sự chuyển hoán cái Tôi Trí Tuệ của Thanh Tâm Tuyền sang cái Tôi Thân Xác. Một tiếp nối bắt buộc và không tránh khỏi trong thời đại tín ngưỡng cơ thể Âu Mỹ. Nhưng nếu Sinh duïc hoá thi ca là thành công duy nhất, trong khai phá, cái Tôi Thân Xác là một thất bại đậm nét.

Lý do? Khám phá và gìn giữ cái Tôi thuần thân xác vô cùng khó. Ða số các nhà thơ muốn cách điệu nâng cao thân xác, nhưng càng thăng hoa họ càng lìa xa thân xác, đến gần với cái Tôi trí tuệ mà những thi sĩ giác đấu muốn đoạn tuyệt. Tất cả thơ của Thường Quán, Khế Iêm, Chân Phương, Thấm Vân, Thanh Bình, Trân Sa, Trầm Phục Khắc, Nguyễn Mạnh Trinh, Phạm Việt Cường.. đều mang dấu ấn của Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên - ngay cả trong những lúc cách tân đoạn tuyệt nhất. Cái Tôi thân xác như thế cứ lấp lửng giữa trí tuệ và thể xác, hồn không rõ hồn, xác không hoàn xác, hồn xiêu phách lạc. Hiện tượng đó thấy rõ trong tâm trạng của những cây viết nữ được xem bạo dạn, phá phách, hay thách đố nhục cảm. Ở họ, những băn khoăn chia cách phần trí tuệ và thân xác thể hiện rõ qua hai thể loại thơ và truyện ngắn, làm như đến với thể loại này là một chọn lựa ma quỷ, đến với thể loại kia là hướng thượng thiên thần. Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Hoàng Bắc chỉ dâm trong thơ, bước sang truyện ngắn họ là phụ nữ có chồng con ngăn nắp, thao thức cho đất nước, xã hội, con người. Trân Sa, Mai Ninh ngược lại, trong truyện ngắn, nếu cả hai ưa làm tình sôi nổi, thèm những mơn trớn cháy bỏng, thích vuốt ve dịu dàng người cùng phái, bước vào thơ họ hốt hoảng sợ hãi hoá thân thành nữ tu thánh thiện. Chính hai mặt ác quỷ và thiên thần này đã gieo hỏa mù, không cho thấy rõ nỗ lực khai phá. Ðâu là quỷ, đâu là ma, đâu là trí tuệ, đâu lời buồn thánh...? Chính phần đối trọng thân xác, về sau nhiều thêm lên, đã đè nặng cán cân trí tuệ, dẫn đến thất bại sau này. Thi ca trở về ngắm liên đêm mặt trời với Thanh Tâm Tuyền, nhổ tóc bạc cho Tô Thùy Yên, sau vài số báo đi hoang làm tình mệt nhoài. Ðến năm thứ 12, Ðỗ Kh., Nguyễn Hoàng Nam là những thi sĩ lãng mạn cuối cùng trong cõi nhân gian bé tí.

Nỗ lực khai phá thơ trên Hợp Lưu không chỉ ngừng ở sinh dục. Chân Phương đã thay nhớt ẩn dụ, Khế Iêm xoáy cylindre ngữ nghĩa, Thường Quán thay mặt nạ cấu trúc, Phạm Việt Cường tăng sên câu chữ, Nguyễn Ðăng Thường thay bửng, Diễm Châu lắp bạc đạn nhạc tính, Ngu Yên đổi phuộc nhún nhạc điệu, Huỳnh Mạnh Tiên gạt chống ngang, Nguyễn Mạnh Trinh so căm, Lê Bi đổi lốp, Du Tử Lê chỉnh/ga/nhịp/lục/bát. Chiếc xe máy thi ca được thay đổi mẩu mã hoàn toàn, kiểu dáng VN, lắp ráp tại Úc, Mỹ, Gia Nã Ðại, Pháp, toàn bộ do thợ VN, giá thành rẻ và thường xuyên khuyến mãi. Các thi sĩ chỉ chưa thay động cơ hai thì của Thanh Tâm Tuyền, bốn thì của Tô Thùy Yên, và tất nhiên vẫn tiếp tục chạy xăng super của các hãng xăng dầu phương tây: Paul Valéry, Paul Celan, Pablo Neruda, Nicanor Parra, Johannes Bobrowski, Cavafy... cung cấp.

Trường hợp văn xuôi không khác. *



Văn xuôi không đợi Ðỗ Kh. phát động sinh dục mới viết bạo. Trước đây Ngô Nguyên Dũng với tiểu thuyết Ðêm, Hồ Trường An với truyện dài Hợp Lưu, Diệu Tần trong Mùa Xuân Và Hố Thẳm, Nguyễn Xuân Quang với Hái Thận đã vô cùng bạo liệt những lúc làm tình và Vũ Quỳnh Hương đã cho những cụ già hút xì gà bằng âm hộ trong Miền Vĩnh Phúc. Khai phá táo bạo mạnh tay trên Hợp Lưu chỉ nhấn mạnh thêm nữa, xã hội không còn chay tịnh. Lối viết tiết hạnh khả phong tránh né, không đề cập, không băn khoăn, không đi hết tận cùng hố thẳm con người, đã không phaûn ảnh lối sống tự do tình dục của xã hội Âu Mỹ, nơi tuyệt đại đa số di dân VN sinh sống. Giống thi ca, khai phá văn xuôi tập trung vào hình thức, cố gắng cách tân, cập nhật kỹ thuật của Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ vào truyện ngắn Việt Nam. Ðiều đó thấy rõ ở Phạm Thị Hoài, dù Hoài đã tự định hướng ngay khi khởi nghiệp văn. Ðiều đó thấy rõ trong loạt truyện Nhà Cho Thuê (chủ đề văn học lạ lùng, mà tiêu đề lẽ ra... phải nằm trong mục rao vặt của nhật trình Người Việt). Trong 12 truyện ngắn đăng trên Hợp Lưu số 54, 12 tác giả đã nỗ lực sắp xếp dàn bài, chỉnh trang cấu trúc, chuyển hoán nhân vật và hệ thống kết cấu. Kỹ thuật lộ liễu trông thấy ở các truyện ngắn Trăng Thuê Ảo Ảnh (Nam Dao), Phép Lạ, Venezia (Dã Tượng), Vách Mận Trắng (Mai Ninh), Già Rossy Và Hương Cô Quạnh (Phan Nguyên). 12 tác giả, chỉ một thành công duy nhất: Eric Nguyễn Việt, một tác giả trẻ thuộc Hội y sĩ Không Biên Giới, công tác tại Sierra Leone, đã nhấn chìm kỹ thuật vào trong sáng tác, đã lôi cuốn bạn đọc vào không khí bất an loạn lạc với một người đàn bà nóng bỏng dữ dội không buông tha, yêu chết chóc, yêu đến ghiền, đến nhớ mùi, để cuối cùng thổ lộ: Người đàn bà ấy, không ai khác hơn "Chiến Tranh" đã ăn nằm bao ngày với vùng đất nghèo khổ lạc hậu này. Văn chương Việt Nam cần thật nhiều những Eric Nguyễn Việt.

Một số khai phá khác, đi tìm cái Tôi Lịch Sử, cái Tôi Dân Tộc trách nhiệm, thể hiện rất nhiều trong tác phẩm Nam Dao, đặc biệt qua hai bộ trường thiên Gió Lửa và Ðất Trời. Nam Dao thổi suốt 1500 trang tiểu thuyết một cái nhìn mới: Không chỉ nhìn lại các nhân vật lịch sử ở góc độ con người tầm thường như Nguyễn Huy Thiệp đã làm, nhưng nhìn lại chính bản sắc của dân tộc u mê và tăm tối đã đưa đến thảm kịch của quá khứ. Nam Dao không chỉ phán xét anh hùng, nhưng phán xét cả đất nước, đồng loại và văn hoá Á Ðông. Ðây là một tinh thần mới trong văn xuôi Việt Nam, nhưng hãy còn là một cố gắng cá nhân biệt lệ. Mai Ninh, tác giả nổi bật của hai năm sau cùng, tác giả ngoài phóng đãng còn chở mang một tâm hồn, đã cố gắng trau chuốt hình thức, mỗi chữ là một viên ngọc, mỗi dấu chấm là một hạt trai, và mỗi dấu ngã là giải lụa mỏng hiếm quý. Mai Ninh không ngừng đào bới cốt truyện, tìm kieám những âm, những chữ mới, thật hợp, thật trùng, cách điệu cho câu văn. Truyện ngắn Mai Ninh giống một tấm gương quý phái, đặt trên chiếc bàn phấn cổ xưa có chiếc lược bạc, còn vướng những lọn tóc rối của một người đàn bà đẹp, vừa vắng mặt, vừa chải tóc. Tất cả không gian của bàn phấn im lặng chỉ tấm gương còn phản chiếu những hình ảnh thác loạn điên cuồng vừa xẩy ra trước mặt kiếng. Mai Ninh, cây bút nổi nhất của năm 2000, thành công với nỗ lực thẩm mỹ hóa tối đa câu văn, nhưng cùng lúc đánh mất sự tự nhiên không thể thiếu trong văn xuôi. Nguyễn Thị Ngọc Nhung là một trường hợp ngược hẳn, không chải văn, không đi tìm thẩm mỹ trong câu chữ, giữ sự tự nhiên ở giọng văn, tìm cái đẹp trong đời sống năng động của xã hội phô diễn vây quanh nhân vật. Văn Nguyễn Thị Ngọc Nhung mạnh, cốt truyện chắc, tuy thời gian đơn điệu, không đa chiều và tỏa ra từ nhân vật thay vì nhân vật phải mọc ra từ mạch suy nghĩ chủ đạo của truyện. Cốt truyện, nhân vật do đó làm nền chính. Còn nhiều tác giả khác, Nguyễn Hương với kiến trúc mới lạ trong truyện ngắn, Thuận Ánh thông minh nghịch ngợm chịu nhiều ảnh hưởng của Phạm Thị Hoài trong các truyện A & B, Vô Va, Ðinh Linh thích giác hơi xã hội Hoa Kỳ...

Khai phá văn xuôi như thế đã đặt nặng vấn đề kỹ thuật, cốt truyện, và nhìn toàn cảnh, là một thất bại. Truyện ngắn đã đi tìm trận gió kinh thiên, nhưng chỉ thổi lên được luồng gió mát, làm giật mình bất chợt các độc giả đang thiu thiu ngủ. Thất bại ở thực tế không gây thành phong trào. Song Thao, Sông Phố, Ngự Thuyết, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Hồ Ðình Nghiêm, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trần Mộng Tú, Phan Thị Trọng Tuyến, Phạm Chi Lan, Trần Thị Diệu Tâm, Miêng, Thơ Thơ, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh, Vĩnh Hảo... không hề chịu tác động của khai phá, vẫn tiếp tục lối viết cũ của họ, không mảy may bận tâm luồng gió kinh thiên đang réo bên ngoài. Phạm Chi Lan tiếp tục viết truyện hoà bình, yêu cỏ cây thiên nhiên, biển cả, vạn vật. Phan Thị Trọng Tuyến tiếp tục viết hài kịch không đối thoại. Hồ Ðình Nghiêm tiếp tục những bứt rứt thầm kín của những mối tình lặng lẽ trong khuya khoắt của một xã hội không lối thoát. Trần Doãn Nho, sau Vết Xước Ðầu Ðời, một truyện ngắn tâm lý xuất sắc, bớt sôi nổi. Song Thao đi tìm những mối tình bình nhật. Miêng thủ thường với các truyện ngắn của mình. Trần Thị Diệu Tâm quá hài lòng những truyện đã viết. Thơ Thơ, Lê Minh Hà, Phạm Hải Anh, lớp người viết trẻ cuối cùng, qua sáng tác đã chứng tỏ họ có giọng văn gẫy gọn, truyền cảm, xúc tích, nhưng cả ba, cho đến bây giờ đều thiếu liều lĩnh trong cách dựng truyện, không nổi loạn trong suy nghĩ, chưa dứt khoát Tự Lực. Ðây là những người viết đều tay nhất, chuyên cần và mẫn cán, chính những nhà văn này đã sáng tác không ngơi nghỉ, đã lấp đầy 66 số Hợp Lưu. Ðiều đó cho thấy rõ, phong trào cải cách ruộng đất trong văn xuôi, trên Hợp Lưu, hoàn toàn thất bại, ít ai hưởng ứng.

Tại sao? Quá chú trọng vào kỹ thuật chỉ là một nguyên nhân. Chọn lựa khai phá nhục cảm, khiến... tô phở ít nước của Mai Thảo đầy thịt, chóng ngán, mau nguội? Có thể. Ai cũng biết, nhiều tình dục dễ đưa đến ít lý trí. Dành nhiều chỗ cho sạp bán thịt, khiến truyện ngắn, một thể loại không rộng bằng chợ Bà Chiểu, phải giải tỏa các sạp hàng khác. Nhưng đó vẫn chỉ là những lý do kỹ thuật, mà mọi tác giả tài hoa đều có thể vượt qua. Không thiếu những tác phẩm đầy dâm tính vẫn chở mang triết lý con người.

Với hai nhóm chìm-nổi khai phá trên Hợp Lưu, ngoài vài truyện ngắn hay, nổ lực cách tân thất bại. Kỳ lạ, với các tác giả không tham gia cách tân, các sáng tác của họ cũng thất bại, không chỉ trên Hợp Lưu mà cả trên các báo bạn Văn, Văn Học. Chính sự thất bại chung của sáng tác đã khiến không khí văn học trở nên đưa đám, cáo phó, u trầm, mất hẳn sinh khí, buồn chán đến thờ ơ lạnh lùng. Không ai còn dám khen văn xuôi đang khởi sắc và tất cả vụt trở nên thích đọc... bút chiến hơn sáng tác! Chúng ta có quyền tiếc một số đông tác giả đã không khai thác hết khả năng của truyện ngắn, đã không đi tìm điều khác thườngtrong văn chương, dù không nhất thiết dâm bôn, không nhất thiết phải đổi mới. Mỗi khi được hỏi về tình hình sáng tác ở ngoài nước, tổng biên tập Khánh Trường than vãn: Cứ viết làng nhàng mãi! Với tôi, đây là lý do khiến anh đánh mất đam mê làm báo, và quyết định buông tay.

Làng nhàng, như thế, là tên gọi của một giai đoạn văn học. Chắc chắn, không phải đánh giá riêng của Khánh Trường, các chủ bút khác, Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Mộng Giác qua một số bài viết, cũng nhận định như vậy và đa số người viết đều đồng ý.

Ðến đây, có một sự trùng hợp nghiêm trọng: Sáng tác quốc nội sau giai đoạn rực rỡ 87-92, giai đoạn của Thiên Sứ, Những Trận Gió Hua Tát, Những Mảnh Ðời Ðen Trắng, Ði Về Nơi Hoang Dã, Nổi Buồn Chiến Tranh, Mảnh Ðất Lắm Người Nhiều Ma, Bến Không Chồng, Ác Mộng, Dị Mộng, Ðảo Ngụ Cư, Giấc Ngủ Nơi Trần Thế, v.v... bỗng dưng tắt phụt trong nhiều năm, và nếu sự xuất hiện của Nguyễn Bình Phương, Bùi Ngọc Tấn, Nguyễn Thị Ngọc Tư mới đây cứu vãn phần nào, nhìn chung với dân số 70 triệu, vẫn là một đám ma văn chương lê thê, im phắc, không kèn trống. Và ở tất cả mọi bộ môn nghệ thuật, làng nhàng đã biến thành tình trạng chính, một tình trạng kinh hoàng cho đám con rồng cháu tiên có bốn ngàn năm văn hiến. Ở thời điểm hôm nay, chưa thấy có dấu hiệu thay đổi.

Tại sao? Câu trả lời nằm trong chốn vắng tư duy, mà nguồn gốc khởi sinh từ sự thất lạc ở trong từng người Việt, đặc biệt, trong từng người viết. Không ngẫu nhiên Văn Cao, lúc sinh tiền trả lời phỏng vấn của Nguyễn Châu Phong, nghiêm khắc nhận xét: "Ngoài Hoàng Hưng không còn ai cả. Tôi ít đọc, nhưng thỉnh thoảng đọc thơ trên báo Văn Nghệ cứ nghe chuồi chuội, có một vài câu thơ ngồ ngộ vui vui, nhưng không có tư tưởng mà con chữ cứ sền sệt xúm xít nối đuôi nhau" (HL13). Không ngẫu nhiên Lê Ðạt thích chơi chữ, chỉ đùa giỡn với bóng chữ, xác chữ. Không ngẫu nhiên Khế Iêm, Chân Phương bày cuộc chơi tung ném tự vị bách khoa rồi xếp lại theo sức hút của trọng lực. Không ngẫu nhiên Ðỗ Kh, Nguyễn Hoàng Nam thích nhìn âm hộ, mông, vú phụ nữ. Không ngẫu nhiên mà phẩm chất trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp, từ Sang Sông, Thiên Văn, hát bội Xuân Hồng, giảm sút đến mức không hiếm bạn đọc phải mua thêm hợp đồng bảo hành văn chương đọc kèm với tác phẩm mới của ông. Trường hợp Nguyễn Duy, Lê Minh Khuê tương tự. Không ngẫu nhiên Phan Thị Vàng Anh im lặng sau khi đi Hoa Kỳ và Châu Âu... Không ngẫu nhiên văn học hải ngoại lạnh dần rồi băng giá. Không phải tất cả không còn tài hoa, ngược lại, chưa bao giờ giới sáng tác kinh nghiệm và tự do như bây giờ. Tất cả chỉ cùng một lúc thất lạc với chính mình. Phân tích sự thất lạc đó, đòi hỏi cả một viện nghiên cứu tâm thần.

Thất lạc vì nhân loại đổ xô đi đào vàng? Thế giới lao vào kỷ nguyên khoa học kỹ thuật? Thất lạc vì sức tàn phá hung hãn của kinh tế thị trường lên người viết văn trong nước? Thất lạc vì cánh cửa bất chợt mở toang khiến nắng ập vào nhà chói chang loá mắt? Thất lạc vì phải hướng tác phẩm đến nhân loại nhưng không sao hiểu thấu đáo nhân loại vì chưa kịp trang bị đầy đủ? Ðó chỉ là những lý do nổi. Cũng nổi như giải thích đánh mất căn cước cá nhân của người viết ngoài nước. Sau đánh mất căn cước chính trị, sau đánh mất căn cước lưu vong, người viết ngoài nước trở về nhà, kinh ngạc nhận ra mình không còn giống người Việt ở trong nước, không giống suy nghĩ, không giống cung cách sống, và kinh khủng hơn, nhà văn Việt kiều khám phá mình không muốn trở về sinh sống tại quê nhà. Muộn mất rồi, con trùng hội nhập đã cắn nát trái tim. Sự chọn lựa lưu vong lần thứ nhì, đầy đau đớn vì là hành động tự nguyện. Lần đầu tiên, người Việt ngoài nước sau trở về, ý thức mình không còn Việt. Ðánh mất căn cước cá nhân khởi đầu từ lúc này. Một đánh mất khác hẳn buổi chiều 30/ 04 chôn thẻ bài, đốt giấy tờ tùy thân, khác hẳn mất mát lý lịch khi mua khai sanh gốc Hoa vượt biên bán chánh thức, lên trại đảo khai trụt tuổi, lấy một cái tên nào đó của anh em họ hàng trong gia đình. Chắc chắn, trong tiềm thức của những kỹ sư tâm hồn, những kẻ vô cùng nhậy cảm, đã trổi dậy vô số câu hỏi cắn xé: Tại sao mày không đủ can đảm trở về sống với dân tộc mày, lúc này, cùng chia sẻ vận mệnh của đất nước mày đang bước vào thế kỷ 21? Ðất nước mày sẽ đi lên, hoặc sẽ lụi tàn trong những thập niên sắp tới, mày bám víu tiện nghi ở đây để làm gì? Không. Ðất nước không xem tôi là người Việt, mà là Việt kiều. Ðất nước bắt tôi gia hạn khai sinh mỗi ba tháng, không cho mua nhà, mọi thứ bắt trả giá gấp đôi mọi người. Ðất nước không cho tôi viết văn tự do... Lý trí trả lời. Và tình cảm trấn an: Mày là công dân quốc tế. Nhưng tình cảm ăn gian, công dân quốc tế, một thứ thông hành chưa bao giờ có trên trái đất. Một bước, tất cả khởi đầu hành trình thất lạc. Nhưng đó cũng chỉ là khía cạnh nổi. Chốn vắng tư duy nằm trong sự thất lạc thâm sâu hơn nữa: Hội chứng Babylone. 
Nhà văn Việt bắt đầu leo lên ngọn tháp ngất ngưởng đó. Sau một trăm năm đô hộ, chiến tranh, phong tỏa, vượt biển, ngọn tháp hiện ra sừng sững ám ảnh. Lần đầu tiên người Việt trông thấy thật sự ngọn tháp nhân loại nhắc đến trong kinh thánh. Với trong nước, cửa tháp mở toang sau hủy cấm vận. Với ngoài nước, đông đảo bắt đầu chuyến hành hương ngay khi an cư. Thật ra, chỉ một số can đảm mua vé, rất mắc, và tự túc leo lên, đa số còn ngồi ăn hột vịt lộn ở ngoài bãi giữ xe. Ngọn tháp nhân loại mà những tầng cao chìm trong mây, vần vũ tiếng gào của gió xoáy bên trong cầu thang trôn ốc trơn trợt, lạnh lẽo. Tất cả đã ý thức, phải lên đến đỉnh, để có cái nhìn xuyên suốt trái đất, để tiếp xúc với tất cả nhân loại. Nhưng số đông, đã đi thang máy. Số đông đã muốn mình là người lên trước nhất, nhanh nhất, để..chụp hình. Không ai chịu hiểu năm ngàn năm nhân loaïi, hai ngàn năm văn minh phương tây có nền, có nếp, có thang, bậc, không thể lên tầng Kant trước tầng Aristode, không thể đứng ở bao lơn Trừu Tượng không qua đại sảnh Cổ Ðiển, không thể viếng tầng Hiện Sinh chỉ đứng ở quaày giải khát hành lang, chụp ảnh lưu niệm chỗ Sartre đã ngồi với Camus. Và kinh khủng hơn, hai ngàn năm tư tưởng và học thuật tây phương chia làm trăm triệu đại sảnh mênh mông, bát ngát, đầy cửa, đầy ngõ ngách, những sảnh đường thẳm thẳm, những tả hữu trường lang bất tận không chấm dứt, bắt nối nhau, chồng chéo, chập chùng san sát nhau, không bảng chỉ đường, không mũi tên hướng dẫn... Chính trong những tầng lầu không thể đếm hết của tháp Babylone khổng lồ, nhà văn ngoài nước đã bắt gặp Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Duy, Lê Ðạt, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái, Phan Thị Vàng Anh... cũng đang thất lạc. Trong-Ngoài gặp nhau bất ngờ ở tầng trệt, cùng đi lên, và tứ tán. Tất cả chỉ biết tầng cuối cùng mang tên Hậu Hiện Ðại, đa số không biết mình ở đâu, muốn gì. Nhà văn Việt đã khó khăn định vị trí mình trên tháp. Tầng nào cũng dừng lại nhìn ngắm chụp đèn trần, bước tránh tấm thảm sang trọng ở lối vào, lật vài pho sách, trả lời phỏng vấn của nhân loại, rồi tiếp tục... Tham quan, nhưng không rõ giá trị thực sự, vì thiếu kinh nghiệm thế giới. Những người quyết chí, tỉnh táo nhất, biết mình tìm gì, nhưng lại khoâng biết mình cần gì. Lên thẳng tầng lựa chọn rồi băn khoăn trước mật mã văn hoá. Không biết mình muốn gì, tìm gì, và cần gì ở nhân loại nên thất lạc, đưa đến chốn vắng tư duy trong sáng tác. Chốn vắng tư duy khiến tập trung đổi mới vào hình thức và kỹ thuật. Nhưng cũng chính Chốn vắng tư duy khiến kỹ thuật và hình thức không đủ sức vực dậy văn chương. Rất hiếm tác phẩm VN nào chở mang tư tưởng rõ rệt làm xương sống chủ đạo cho toàn truyện, và các nhân vật mọc ra từ xương sống đó như những xương sườn của xương sống đó.

Gabriel Garcia Marquez, trong Trăm Năm Cô Ðơn, miêu tả sự thất lạc của linh hồn tuyệt đẹp: José Arcadio Buendia bị xích trên giường mập ra rất nhiều lần sức nặng bình thường, không thể cử động được. Mỗi tối Buendia mơ thấy mình rời khỏi giường, mở cửa đi sang một căn phòng khác, cũng giống y như căn phòng có chiếc giường bệnh, ông lại mở một cánh cửa khác dẫn sang một căn phòng khác, cũng bài trí y như căn phòng ông đang đứng. Cứ thế Buendia đi hết từ căn phòng này sang căn phòng khác, mở cánh cửa này đến cánh cửa khác, tiếp nối vô tận, cho đến lúc ông bất ngờ gặp lại Prudencio Aguilar, người bạn thời trẻ mà do ghen tuông ông đã tự tay phóng lao thọc cổ giết chết. José Arcadio Buendia đi ngược trở lại tất cả những căn phòng đã đi qua, và chỉ tỉnh dậy khi Prudencio Aguilar đập tay lên vai trong căn phòng thực tế đầu tiên. Nhưng đến một đêm, Aguilar đập tay trong một căn phòng trung gian và Buendia đã ở lại đó mãi mãi vì tin đã trở về căn phòng thực. Ðám táng José Arcadio Buendia diễn ra dưới trận mưa hoa vàng. Những cánh hoa nhỏ rơi suốt đêm, đến sáng các phu đòn phải lấy xẻng xúc hoa dọn đường khiêng linh cữu.

Không phải chỉ có nhà văn Việt thất lạc trên tháp Babylone, mở hết những cánh cửa này sang cánh cửa khác, đi từ phòng này sang phòng khác, tiếp nối vô tận. Thế giới cũng có rất đông, rất nhiều nhà văn thất lạc. Nhưng người Việt đánh mất phương hướng cùng một lúc, đồng loạt. Hậu quả của đóng cửa, đô hộ, nội chiến, phong tỏa và tự cấm vận. Ðó là lý do vì sao sáng tác Trong-Ngoài nước rất thanh bần. Sáng tác VN mạnh khi ghi lại kinh nghiệm đau thương bản thân, nhưng yếu khi đi tìm thẩm mỹ và sáng tạo. Bùi Ngọc Tấn chứng minh sự thành công của vế đầu, Nguyễn Huy Thiệp, từ Thiên Văn, chứng minh khó khăn của vế sau. Ngày nào José Arcadio Buendia tìm được lối ra khỏi tháp Babylone, hắn sẽ trở thành nhà văn đích thực, có quyền vứt bỏ nhãn "nhà văn Việt Nam" do các chủ báo phong vương. Ðám ma hắn không chỉ có trận mưa hoa vàng, mà sẽ rất đông độc giả đi đưa, không như bây giờ.

Thay Lời "Hậu" Lộ:

Hợp Lưu như thế, mang trên thân thành công giao lưu và thất bại của sáng tác. Công bằng phán xét: Không có tạp chí Hợp Lưu, chuyển động giao lưu vẫn xảy ra, ở thời điểm 93-94 khi du lịch bùng nổ. Hợp Lưu chỉ đi trước chuyển hoá tâm lý cộng đồng 3 năm. Ðó là một thành công không nhỏ, của Khánh Trường, và tất cả các tác giả trong-ngoài nước đã tham dự, đã hoàn thành một chức năng ngành phê bình hay đòi hỏi: Tính dự báo trong văn chương.

12 năm, rất dài, nhưng vô cùng ngắn ngủi, tựa một sát na trong đạo Phật, khi tất cả mọi người cùng một lúc ngộ ra không chỉ có Quốc với Cộng, không chỉ có đen với trắng, nhưng còn có Con Người đằng sau khẩu hiệu. 12 năm Hợp Lưu, tựa một trang tôn kinh huyền hoặc, đã ghi lại dấu vết của những đổi thay trong lòng người Việt. Sao không huyền hoặc khi hôm nay, khách du lịch và dân chúng chứng kiến mỗi ngày cảnh tượng Chúa Nguyễn Hoàng, Chúa Nguyễn Phúc Chu, Chúa Nguyễn Phúc Loan của Ðàng Trong hàn huyên thân ái với Chúa Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Bồng của Ðàng Ngoài, huyên náo ăn sò huyết trên vỉa hè Phú Nhuận, tâm đắc nhậu thịt chó ở Quảng Bá. Chỉ có chúa Trịnh Sâm vắng mặt vì Tuyên Phi Ðặng Thị Huệ, viết cho báo Phụ Nữ chống say xỉn, không cho đi. Các Chúa nhậu xong cùng quàng vai nhau đi karaoké ôm người con gái Việt Nam da vàng yêu quê hương như yêu đồng lúa chín của Trịnh Công Sơn... Sao không huyền hoặc khi mình đã nghĩ đánh mất vĩnh viễn Sài Gòn, bỗng đứng trước ngôi nhà nơi mẹ đã sinh ra ở phố Hàng Ðào. 
Trần Vũ và Khánh Trường, thời xuân sắc! (Chú thích cho ảnh chụp tại nhà Thế Giang, Dortmund, Ðức tháng 10/1991, nhân dịp ra mắt Hợp Lưu số đầu tiên ở Paris, Pháp). 


Ngày mai đi tu, Khánh Trường có quyền hãnh diện, và biết đâu anh chẳng bị sư trụ trì từ chối: Ðến cửa Phật phải có duyên. Con chưa có duyên với nhà Phật, con chỉ có duyên với Hợp Lưu. Thôi con về trị sự và layout tiếp. Giống sư trụ trì đã từ chối Nghiêm Xuân Hồng hai mươi năm trước, khi ông nhất quyết xuất gia. Ngày xuống tóc, Nghiêm Xuân Hồng đau ruột dư phải vào bệnh viện, một chữ duyên tan thành mây khói. Trở về Cali, Nghiêm Xuân Hồng cho xuất bản Trang Tôn Kinh Huyền Hoặc, làm thơ, viết truyện ngắn, đăng trên Văn kể lại ngày Mai Thảo tiễn ông ở phi trường, tưởng đã không gặp lại nhau, hay gặp lại một bên Bạch Thầy, một bên Bần Tăng đã thọ trai giới không còn uống được nữa.. Ngày mai, ở lưng chừng núi Big Bear, bị sư trụ trì từ chối, Khánh Trường sẽ buồn vô hạn, anh đã vượt qua bao khó khăn để gầy dựng Hợp Lưu, cuối cùng không vượt nổi cửa Phật. Họa sĩ Khánh Trường sẽ trở xuống chân núi, nhìn những áng mây đỏ thẫm ráng chiều đang ào ạt trôi qua đầu về phía mái chùa còn vàng cong cánh sen đẹp rực rỡ. Khánh Trường sẽ ra parking lấy xe về lại Garden Grove, anh còn nghe tiếng gió đuổi xô trên vách núi, đuổi bắt tiếng gọi với của Thượng Toạ: Con nhớ chăm lo nỗi buồn 'chín tã' và gởi báo tặng, nghe đâu số tới chủ đề truyện tình hậu hiện đại, thầy cũng trông lắm... 
Cuối cùng, gởi đến anh chị, bạn bè, bằng hữu lời tạ lỗi đã đem hết tất cả nhúng lẩu, xay sinh tố. Hy vọng món lẩu vừa ăn, không quá cay, đã bảo hành khả ái và bao trọn gói. Cùng gởi đến đương kim tổng biên tập Phùng Nguyễn lời chúc: Sẽ xuất hiện trên Hợp Lưu Ðồ Long Ðao và Lục Mạch Thần Kiếm...

20/08/02 


nguồn: - đã đăng trên Hợp Lưu số 67, tháng 10 & 11 - 2002















Điện Biên Phủ








Quân Đội Việt Nam- 1979, cơ hội đánh mất








Quân Đội Việt Nam - Con Đường Canh Tân









Định Mệnh Của Kẻ Thù









Sát Thát









Suy Nghĩ Mãn Thanh
























phỏng vấn








Lê Quỳnh Mai phỏng vấn Trần Vũ







LÊ QUỐC MINH:   Một thập niên trước, khi truyện ngắn Mùa Mưa Gai Sắc(1) xuất hiện trên tạp chí Hợp Lưu đã gây ra cuộc bàn cãi sôi nổi trong văn giới. Rồi sau đó, các tác giả Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Mạnh Trinh, Phan Huy Ðường, Thụy Khuê, Nguyễn Xuân Hoàng, Trương Vũ, Nguyễn Văn Trung, v.v.. đã bàn luận về tập truyện Cái Chết Sau Quá Khứ giống như Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Ngọc Bích, Hoàng Khởi Phong, Bùi Bảo Trúc trước đây đã viết về Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu. Nhìn chung, có nhiều so sánh giữa Mùa Mưa Gai Sắc với trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác. Suy nghĩ cá nhân của ông về vấn đề này?

TRẤN VŨ: Trước nhất, tôi nghĩ không thể so sánh một truyện ngắn giới hạn trong một hình ảnh âm bản, một khúc đời thái lát, đôi ba nhân vật phẩu thuật, như trường hợp Mùa Mưa Gai Sắc với một trường thiên tiểu thuyết công phu, trên ngàn trang giấy, trải dài từ chiếc nôi của biến động Bình Ðịnh ra Bắc Hà, trở ngược xuống Bến Ván, rồi vào Gia Ðịnh với cả trăm nhân vật, với tham vọng ghi lại toàn bộ thăng trầm đất nước ở vào thời kỳ lên sởi “da beo”, với những vùng “tạm chiếm” hoặc đã “giải phóng” như trong Sông Côn Mùa Lũ. Truyện ngắn Mùa Mưa Gai Sắc không có tham vọng đó và thể loại truyện ngắn không cho phép tham vọng ấy.
Với Sông Côn Mùa Lũ, Nguyễn Mộng Giác đi tìm bình dị con người trong vĩ nhân. Với Mùa Mưa Gai Sắc tôi đi tìm dã thú trong con người. Hai mục đích khác nhau. Mặt khác, tôi không viết truyện lịch sử.


LÊ QUỐC MINH: Ông chưa trả lời toàn vẹn câu hỏi. Vì sao có sự so sánh giữa hai nhân vật Ngọc Hân-Nguyễn Huệ của Mùa Mưa Gai Sắc và trong Sông Côn Mùa Lũ? Tiện đây xin hỏi thêm mối tương quan giữa Trần Vũ và Nguyễn Mộng Giác, mà dường như đã khơi nguồn cho truyện ngắn gây nhiều bất mãn này?

TRẦN VŨ: Chuyện rất dài... So sánh của giới phê bình và điểm sách mà tôi được đọc trên các nhật trình và tạp chí Việt ngữ, chủ yếu tập trung quanh hình ảnh dã man của Nguyễn Huệ, cũng như mối thâm thù toan tính ám sát Huệ của Lê Ngọc Hân trong Mùa Mưa Gai Sắc. Ðây là trái biệt chính. Huệ trong Sông Côn Mùa Lũ rất hiền hoà, trong sáng, Hân thắm thiết, đằm thắm, ngoan ngoãn... nhưng có lẽ, nên bắt đầu từ mối tương quan vô hình giữa tôi và nhà văn Nguyễn Mộng Giác.
Tất cả đã bắt đầu rất sớm, cách đây hai thập niên. Lúc đó và cho đến bây giờ, nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã luôn là một nhà văn đàn anh, người đã đem đến cho tôi vô vàn say mê với tập truyện Ngựa Nản Chân Bon. Chính năm 84, khi tôi chưa viết truyện, Nguyễn Mộng Giác với tập 1 Những Ðợt Sóng Ngầm của trường thiên Mùa Biển Ðộng đã lôi tôi vào thế giới văn chương mà tôi vừa biết đến ở Sàigòn trước 75, rồi đứt khúc.
Có thể xem, một trong những yếu tố khiến tôi bước chân vào văn xuôi là do hấp lực của Mùa Biển Ðộng. Tôi đã “mê” nhân vật Diễm rất nhiều, mê những giọt mồ hôi ẩm trên ngấn cổ cô Diễm những trưa nắng mang thau nước rửa mặt cho Ngữ bên xưởng vẽ của Ngô. Mê cách trao thân hết mình của Diễm dưới chân cầu Gia Hội cho Ngữ. Mê cách sống không hối tiếc và quyết tâm làm giàu sau khi gạch bỏ tình yêu của Diễm. Nguyễn Mộng Giác rất thành công trong mô tả phụ nữ miền Nam trước 75. Như Nam, thiếu nữ dấn thân và thần thánh Tường, giáo sư triết của trường Quốc Học, thần thánh trong đời sống, trong tình yêu, trong cả nhẫn nhục chịu đựng. Nguyễn Mộng Giác phân tích tài tình đời sống, từng trạng huống tâm lý, đi từ lãng mạn tột độ, băn khoăn cùng cực, vui sướng hết mức đến hốt hoảng, đăm chiêu, tuyệt vọng rồi liều lĩnh. Nhân vật Tường, cũng đầy sôi động. Trước khi nhảy núi, Tường trở về nhà mắng cha, ông Thanh Tuyến, đã lái xe Toyota bằng máu của nhân dân lao động...
Ðã hai thập niên trôi qua mà tôi vẫn còn nhớ như in không khí của gia đình ông Thanh Tuyến, rõ ràng là không khí của gia đình tôi, từ nếp sống, cách sinh hoạt, nếp suy nghĩ, phản xạ trước chánh quyền, trước đám đông, thói quen xã hội... Gia đình tôi, một gia đình Bắc di cư, mà không hề khác gia đình ông Thanh Tuyến bố của Tường, một gia đình Huế. Ðiều đó cho thấy Nguyễn Mộng Giác đã tái tạo được đơn vị gia đình Việt Nam trong tiểu thuyết của ông.
Ðã hai thập niên mà ở hải ngoại chưa có cuốn tiểu thuyết nào làm tôi say mê nhiều hơn vậy. Ði làm ôm theo, ngồi trong xe lửa đọc miên man, vào công ty gấp sách lại chỉ mong chóng mau đến giờ hết việc, xuống xe điện, mở tập 2 Bảo Nổi, các nhân vật lại sống trở lại, cười nói, yêu khóc giận hờn, từng màu áo, sắc son môi, khoé mắt, tưng bừng trên trang giấy, làm như mình chưa hề rời xa họ một giây phút nào, đã thân thiết với họ tột bực, đã sống chung, chia sẻ tận cùng đời sống thầm kín của từng người. Tuyệt diệu là tất cả đã xảy ra, diễn ra, sinh sống trên cái nền lịch sử tan vỡ của miền Nam trước 75, khởi đi từ thao thức sinh viên, tranh đấu miền Trung, Phật giáo xuống đường... Nguyễn Mộng Giác ghi lại được hết tất cả những chuyện ấy, nhỏ nhặt từ trong nhà ra đến ngoài chợ, từ trong trường học ra tới đồn Mang Cá. Các đoạn đánh nhau ngoài Huế, Việt Cộng núp dưới chân Chúa khiến Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ càu nhàu vừa bi hài vừa chết chóc như trong Full Metal Jacket của Stanley Kubrich (quay sau mấy năm). Sau Tình Ca Trong Lửa Ðỏ, Giải Khăn Sô Cho Huế Ðổ Nát của Nhã Ca, bút ký chiến trường của Phan Nhật Nam và ký Quảng Trị của Dương Nghiễm Mậu, tôi thật sự khám phá chiến tranh, biến động xã hội và miền Trung qua Nguyễn Mộng Giác. Tiểu thuyết ngoài nước bây giờ chai sạn vì không còn những Mùa Biển Ðộng nữa. Và cũng không chỉ ngoài nước, cả trong nước, chưa có cuốn tiểu thuyết nào mang kích thước, chiều kích sánh bằng. Cùng thể loại, Vỡ Bờ của Nguyễn Ðình Thi, Ðống Rác Cũ của Nguyễn Công Hoan là những trường thiên đọc chán vô cùng.
Trả lời dài ...trường thiên như vậy, để cô hiểu nỗi say mê tiểu thuyết Nguyễn Mộng Giác của tôi, đã bắt đầu từ buổi sáng xám trắng, ảm đạm, một nhóm thuyền nhân vô tình phát giác có kẻ thắt cổ chết trong căn lều bên cạnh, rồi im lặng thao thức cho số phận con người trên cái nền trầm trầm của kinh thánh. Những trang Ngựa Nản Chân Bon đó, Nguyễn Mộng Giác đã viết ngày ông vừa đặt chân lên trại tỵ nạn Galand-Nam Dương. Ðó là năm 82. Tôi cũng vừa rời Phi Luật Tân, vừa chứng kiến cảnh thuyền nhân tự tử trong trại đảo Puerto Princesa City vì bị ...từ chối đi Mỹ, vừa đặt chân đến Âu châu. Tôi đã gặp Nguyễn Mộng Giác khi ấy.
Khi ấy, giai đoạn 82-84, văn học hải ngoại đang thành hình và Nguyễn Mộng Giác là một trong những tác giả chính. Khi ấy, Nguyễn Mộng Giác đáp ứng tâm tình của độc giả vì ông đã thể hiện tâm tình thật của chính ông, một cá nhân chìm trong loạn lạc nội chiến của đất nước.
Nhưng 7 năm sau, đến Sông Côn Mùa Lũ thì tôi thất vọng. Cuốn trường thiên này thiếu sôi nổi, thiếu “sức mạnh” túm bắt, xô, đẩy, đạp người đọc vào trong tiểu thuyết rồi giặt dũ cho đến tả tơi, rã rời mê đắm. Sông Côn Mùa Lũ không có chất mê hoặc của những tác phẩm quỷ quái như Anh Em Nhà Karamazov. Ðộc giả không bắt được nhân vật, quá trơn tru, thiếu sần sùi, ít góc cạnh. Nói cách thô lậu là người đọc không ăn nằm được với nhân vật. Lý do, theo tôi nghĩ, vì nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã viết trường thiên này thời gian ở Việt Nam sau 75. Thiếu tự do sáng tác, lo lắng trước các chính sách văn hóa của nhà nước, khiến ông đã không thể đẩy nhân vật đến cùng, mà phải chọn vị thế trung dung, an toàn, do đó tất cả nhân vật đều chung chung ...“ít vấn đề”. 
Lúc đó, khoảng 1991, mua mấy tập Sông Côn Mùa Lũ khá mắc, tôi bực mình với Nguyễn Huệ của Nguyễn Mộng Giác ở An Thái vô cùng. Có mỗi bàn tay nhỏ nhắn xinh xắn của An mà cũng không dám nắm. Ðọc mấy trăm trang sách không biết đến chừng nào An-Huệ mới cầm tay, hôn môi. Nhát cáy như vậy làm sao Huệ đánh Ðông dẹp Bắc, 4 lần vào Gia Ðịnh, 3 lần ra Bắc Hà, thảm sát Minh Hương, diệt quân Xiêm ở Rạch Gầm, giết thuộc hạ Nguyễn Hữu Chỉnh-Vũ Văn Nhậm, chưởi mắng dứt bỏ tình huyết thống đạo lý luân thường để đảo chánh anh ruột Nguyễn Nhạc, về sau còn đục thuyền cho thân nhân gia đình Ngọc Hân chết chìm...
Quang Trung hoàng đế, con người đó, lạ thay, dưới ngòi bút Nguyễn Mộng Giác vô cùng lành với chư tướng, do dự và nhút nhát trước phái yếu.
Với tôi, ấn tượng đầu tiên sau khi đọc Sông Côn Mùa Lũ là Nguyễn Mộng Giác khắc hoạ nhân vật Huệ không thành công. Người đọc không bắt được thần thái uy lực của Huệ, một trong những yếu tố chính, vì thiếu uy lực đó sẽ không có Huệ. Nguyễn Huệ trong Sông Côn Mùa Lũ là bản sao của Ngữ, một... trung sĩ địa phương quân trước khi đi học khoá sĩ quan trừ bị Thủ Ðức trong Mùa Biển Ðộng. Các nhân vật khác trong Sông Côn Mùa Lũ cũng đều là bản sao của Mùa Biển Ðộng, mặc dù họ “sinh” ra trước Mùa Biển Ðộng.
Ngay khi gấp sách, tôi quyết định viết một truyện ngắn phác hoạ lại Nguyễn Huệ, đúng theo suy nghĩ của mình. Hoàng đế Quang Trung trong tâm trí tôi phải mang hình ảnh Thành Cát Tư Hãn, vó ngựa trường chinh, bách chiến bách thắng và có chất ...thổ phỉ!
Phần khác, tôi không tin Lê Ngọc Hân có thể yêu Nguyễn Huệ ngay phút đầu tiên, dễ dàng và say đắm. Khác biệt giai cấp, văn hoá, tâm lý quá lớn. Chưa nói đến thù cha, thù nhà, nợ nước, khiến Ngọc Hân khó mà... vô tư. Sau 75, các tiểu thư Sàigòn trong một thời gian dài đã không vô tư, trừ phi làm Vương Thúy Kiều liều mình chuộc cha đi học tập, đa số đã từ chối các “anh hùng quân đội nhân dân”. Tôi muốn thể hiện lại điều đó, sự chối từ áo vải cờ đào của những thiếu nữ kinh kỳ sinh sống nơi kinh đô bị chiếm đóng.
Mùa Mưa Gai Sắc ra đời trong suy nghĩ đó, với ước muốn tân tạo hình ảnh Nguyễn Huệ trong đầu mình, như mình muốn, trong tự do tuyệt đối.
Tất nhiên không phải hình ảnh truyền thống của môn lịch sử học đường, và sự khác biệt này không hề tàn phá lòng quý trọng của tôi đối với nhà văn Nguyễn Mộng Giác, là một nhà văn đàn anh, người đã giữ lửa, đã làm đầu tàu thúc đẩy văn học hải ngoại trong hai thập niên vừa rồi.


LQM: Theo Trần Vũ, nền tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu? trong thời điểm hôm nay, cuối năm 2003 này? Ông đã tổng kết 12 năm sinh hoạt trên tạp chí Hợp Lưu, chắc cũng có thể “tổng kết” tiểu thuyết?

TRẦN VŨ: Nền tiểu thuyết Việt Nam đang ở đâu? hôm nay? Ðây là một câu hỏi mênh mông. Tổng kết một ...nền tiểu thuyết chưa thành hình, đòi hỏi cả một bài nghiên cứu, tra cứu tỉ mỉ, trích dẫn tùm lùm, không thể “tổng kết” trong phạm vi một bài phỏng vấn, nhưng tôi sẽ cố gắng phân tích một vài điểm trên khía cạnh nổi của bề mặt tiểu thuyết. 
Về thống kê, trong suốt năm vừa qua, theo Phạm Thị Hoài mà tạp chí Talawas đặt mua, ngành xuất bản VN quốc nội in ấn 100 đầu tiểu thuyết. Ngành in ấn tại Pháp, chỉ cho riêng đầu tháng 9/2003, xuất bản 691 tiểu thuyết. Nếu không tính 236 tiểu thuyết ngoại quốc phiên dịch sang Pháp ngữ, con số còn lại là một mức chênh lệch quá lớn, giữa một dân tộc có 2000 năm văn hiến với 60 triệu dân và một dân tộc có 4000 năm văn hiến với 80 triệu dân. Nền tiểu thuyết Việt Nam ở đâu? hôm nay? cuối năm 2003? Thống kê trên trả lời cho câu hỏi của cô.


LQM: Bước ra ngoài thống kê?

TRẦN VŨ: Bước ra ngoài thống kê chỉ có thể đi tìm những lời bào chữa. Không thể so sánh Việt Nam với Pháp, một đế quốc đã có nhiều mươi thế kỷ truyền thống văn xuôi, một đế quốc đã từng có nhiều thời kỳ hoàng kim? Khó là một giải thích duy nhất.
Vì sao hôm nay thể loại truyện ngắn thịnh hành trong lúc thể loại tiểu thuyết được độc giả ưa chuộng lại vắng bóng? Nhà văn Việt không còn muốn viết dài?
Các sáng tác hai, ba trang và từng câu mỗi ngày một nhiều. Văn xuôi Việt Nam đang ...teo lại. Trong chiều hướng này, với thể loại truyện Câu đang bành trướng, sẽ phát sinh ...truờng thiên tiểu thuyết cực ngắn gồm nhiều chương, mỗi chương với một câu duy nhất. Tôi không tin lắm vào khả năng của truyện thật ngắn hay cực ngắn, cho dù là thể loại thích hợp với các diễn đàn internet, cho dù truyện thật ngắn nổi tiếng Ðường Tăng trong nước và100 truyện cực ngắn của Trần Tất Ðạt trên Tiền Vệ gần đây rất hay, đây là hai tác giả thành công trong hai thể loại ngắn này.
Phần thiếu trầm trọng của văn chương Việt hôm nay nằm ở tiểu thuyết, loại tiểu thuyết có nhân vật, ghi lại băn khoăn con người, đột biến xã hội, xáo trộn thời đại, vấn nạn đất nước, diễn tả một cách bình thường hay khác thường… Ðây mới là thể loại thật sự có khả năng chinh phục độc giả Việt, cũng như thế giới.
Thành công của Bảo Ninh hay Dương Thu Hương khi dịch ra tiếng nước ngoài, trước nhất là thành công của thể loại tiểu thuyết. Ðiều đó không có nghĩa truyện ngắn không bằng tiểu thuyết, không thể so sánh thịt bò với cá lóc. Nhưng độc giả VN và thế giới đã chọn lựa, steak và.. bò nhúng dấm! Thời tiền chiến, chính tiểu thuyết Tự Lực Văn Ðoàn và sau 54, tiểu thuyết dịch và tiểu thuyết trong Nam đã lôi cuốn người đọc tạo ra nhiều tầng lớp độc giả và các thế hệ nhà văn đi sau. Ngày nay, cái gì lôi kéo giới trẻ đi vào văn chương? Phê bình? Thi ca? Truyện Ngắn? Thể loại đầu dành cho giới chuyên môn. Thể loại giữa khép kín trong vòng tròn thi sĩ, và thể loại sau đã chứng minh sản phẩm lạm phát, ít khách tiêu thụ.
Kỳ quặc, khi chúng ta biết, truyện ngắn là một trong những thể loại khó nhất của văn xuôi, nhưng nhà văn Việt nào cũng có nhiều mươi đầu truyện... Nina Mc Pherson, dịch giả chánh thức của Dương Thu Hương, trong những buổi tối rủ nhau đi uống rượu khuya, thường kể: Các nhà xuất bản Hoa Kỳ đã luôn ngao ngán, ngán ngẩm lắc đầu mỗi khi cô ôm bản dịch truyện ngắn VN đến chào mời. Lần nào cô cũng nhận một câu trả lời: “Nhà văn Việt Nam có tiểu thuyết không?”
Tại sao trên thế giới truyện ngắn hiếm đi nhưng đến Việt Nam sinh sôi nảy nở kinh dị? Tại sao những bậc thầy truyện ngắn trên thế giới như Borges, Tchékov, Guy de Maupassant... không nhiều và một đời viết văn được dăm truyện ngắn hay đã là nhiều, nhưng ở Việt Nam mỗi nhà văn là một... cỗ máy sản xuất truyện ngắn? và đang gia công sản xuất truyện cực ngắn? Vì đặc thù kinh tế đất nước là một nền sản xuất nhỏ? Tôi chưa rõ lắm. Tôi tự đặt cho mình những câu hỏi. Các câu hỏi mỗi lúc một nhiều thêm lên sau mỗi lần bước chân vào các hiệu sách Việt, tìm mua một cuốn tiểu thuyết, chưa nói xuất sắc, chỉ cần đủ lôi cuốn một tuần lễ, nhưng tìm không ra. Bước chân vào hiệu sách Việt, từ Cali về đến trong nước, từ nhà sách Tú Quỳnh ở Bolsa đến nhà sách Nguyễn Huệ trên đại lộ Nguyễn Huệ Sàigòn là cả một nỗi chán chường. 
Ít tiểu thuyết, càng ít tiểu thuyết hay, trở thành một ác mộng.
Hôm nay, cuối 2003, dường như giới phê bình trong-ngoài nước và giới sáng tác trong-ngoài nước đều đã công nhận khủng hoảng tiểu thuyết này. Nhưng nguyên nhân của ác mộng ở đâu?
Tôi không rõ lắm nguồn cơn ác mộng của hội nhà văn Hà Nội hay TP HCM. Với bên này, tôi lờ mờ trông thấy. Tôi không nghĩ nhà văn Việt không còn muốn viết truyện dài, nhưng tiểu thuyết là một thể loại khó, dài mà không lê thê, vẫn chặt chẽ, xuyên suốt, liền lạc, không dễ viết chút nào. Không thể viết tiểu thuyết nếu không đam mê hết mình, trong một thời gian dài liên tục, không thể viết tiểu thuyết chỉ bằng chộp bắt những góc độ, những mảnh đời, bằng khả năng quan sát ...cuối tuần. Cần cái nhìn rộng, xuyên suốt sự vật, con người, xã hội, cần kinh nghiệm, vốn sống, va chạm, chung đụng, ngôn ngữ, và khả năng tổng hợp, phân tích, quản trị nhân vật… chưa kể đến cấu trúc, giọng văn và khí hậu truyện từ trang đầu đến trang cuối phải nhất quán. Ngần ấy thứ, trong đời sống quá tất bật và đơn điệu ở ngoài nước, khiến tiểu thuyết trở thành một cuộc đầu tư, đầy thách đố.
Tôi không biết có quá hàm hồ hay không khi đặt câu hỏi: Có phải chính vì thiếu tiểu thuyết mà văn học hải ngoại ít độc giả, khiến ngành xuất bản khủng hoảng, do dự mỗi khi in ấn? Nhưng tôi thấy rõ: ngoài nước thiếu một đội ngũ ký giả văn học chuyên nghiệp làm công việc giới thiệu tác phẩm, khiến nhà văn Việt đã luôn phải xuất hiện dưới dạng truyện ngắn trên các tập san văn nghệ để đến với độc giả của họ. Trái lại, ngược hẳn, tiểu thuyết gia ngoại quốc không cần đăng báo, các nhà xuất bản và nhật báo, tạp chí làm công việc giới thiệu, quảng cáo tác phẩm, tiếp cận khách hàng. Ðây là lý do, vì sao, truyện ngắn lấn át tiểu thuyết và tràn lan suốt hai thập niên vừa qua.
Sự trống vắng tiểu thuyết này đưa đến một hậu quả: Văn học hải ngoại là một chuỗi vụn những thành tựu nhỏ. Những hột soàn tấm, cho dù có thật nhiều, hằng hà sa số (trong thực tế ít hơn vậy), cũng không thể thay thế những viên kim cương không cợn than trên 10 ly. Hiếm có tác giả nào ngoài nước, có 10 truyện ngắn thật xuất sắc trong cùng một tập truyện, để tập truyện đó trở thành một hiện tượng.

LQM: Với ông, có cách nào thay đổi tình trạng này?

TRẦN VŨ: Tôi nghĩ đã đến lúc nhà văn Việt ngoài nước cần đi tìm tác phẩm công phu. Từ chối xuất hiện trên mặt báo thường xuyên. Chấm dứt bao sân cho các tập san. Ðộc giả Việt sẽ bằng lòng với tiểu luận như độc giả Pháp đã hài lòng với tiểu luận trên các báo Lire, Magazine Littéraire, Esprit,... rất ít đăng trích đoạn tiểu thuyết và gần như không có truyện ngắn.
Ở thời điểm hôm nay, thêm 5 truyện ngắn hay nữa, không thay đổi văn học VN. Thêm 5 truyện... hay cực ngắn, lại càng không đem đến gì thêm. Ngược lại, với 5 tiểu thuyết xuất sắc, sẽ ghi một dấu mốc, đánh dấu một giai đoạn. Giới sáng tác, một số đã ý thức không thể tiếp tục với truyện ngắn, một thể loại thiếu sức chứa của xe hàng 18 bánh. Tôi chờ đợi rất nhiều ở tiểu thuyết của Thơ Thơ, Mai Ninh, Nam Dao, Lê Thị Thấm Vân, Phan Huy Ðường, Quỳnh Dao, Nguyễn Thị Thanh Bình và truyện vừa Nguyễn Thị Hoàng Bắc đang thành hình. Hy vọng năm 2004 sẽ mở ra một giai đoạn mới: giai đoạn tiểu thuyết ngoài nước. Ðã đến lúc, các chủ biên Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Khánh Trường, Nguyễn Hưng Quốc nên tiếp tay đẩy mạnh tiểu thuyết bằng cách ưu tiên giới thiệu các trích đoạn, hoặc như tổng biên tập Nguyễn Ðình Thi đã đăng nguyên cuốn tiểu thuyết Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài trên tạp chí Tác Phẩm Mới, không hề tiếc trang, khi Thiên Sứ vừa chào đời chưa xuất bản và Phạm Thị Hoài hãy còn là một người viết mới. Ðây là hình thức mà nhà văn Dương Nghiễm Mậu gọi là tiểu thuyết phổ thông và ông đã thực hiện khi làm chủ bút tạp chí Văn Nghệ Sàigòn.


LQM: Dưới mắt nhìn của một nhà văn thuộc thế hệ trẻ cầm bút lưu vong, theo Trần Vũ, văn học hải ngoại sẽ đi về đâu? Vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» có còn là một vấn đề lớn để tranh luận như cả một thập niên trước đây không?

TRẦN VŨ: Cho phép tôi đính chính. Tôi không phải là một nhà văn. Tôi chỉ là người viết truyện lâu lâu gởi đăng báo. Và tôi cũng không còn trẻ nữa, nếu các chủ bút, giới biên khảo vẫn ưu ái xếp vào giai cấp không có quá khứ, điều đó chẳng qua vì không có thế hệ người viết sinh trong thập niên 70 ngoài nước. Thế hệ sinh trong thập niên 60 đang là thế hệ cuối cùng.


LQM: Vậy theo ông, thế nào mới là một nhà văn? Và xin ông cho tên một nhà văn Việt Nam điển hình?
TV: Với tôi, một nhà văn, ngoài tác phẩm, trước nhất là một người trí thức có tư cách và cất tiếng nói trước bất công của xã hội, trước chính quyền không sợ hãi, với tất cả trách nhiệm. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là một nhà văn. Ông xứng đáng là văn hào của nước Việt Nam.


LQM: Quay lại câu hỏi văn học hải ngoại sẽ đi về đâu... Tham dự giòng văn chương này rất sớm, ông có thể dự báo?

TRẦN VŨ: Những ngày đầu di tản, thời Thư Gởi Bạn, rồi Lại Thư Gởi Bạn, cho đến những năm 78, 79 trên tạp chí Văn Học Nghệ Thuật, Võ Phiến thường đặt câu hỏi 15 năm sau biết có còn ai đọc chữ Việt nữa hay không? 20 năm sau, câu trả lời đã có: Vẫn còn người đọc, nhưng ...ít người mua. Văn học hải ngoại rồi sẽ nhập với văn học quốc nội để thành một dòng chảy duy nhất: Văn Học Việt Nam. Chậm hay mau, tùy thuộc thủ tục hành chánh hải quan. Nhưng đây là định mệnh của dòng văn chương khát khao tổ quốc va sinh ra từ thảm kịch nội chiến này.
Tương lai trước mắt, thập niên 2000 là thập niên quyết định của văn học hải ngoại. Ða số các tác giả Trịnh Y Thư, Cao Xuân Huy, Phan Thị Trọng Tuyến, Kiệt Tấn, Diệu Tần, Miêng, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Ngu Yên, Tưởng Năng Tiến, Nguyễn ý Thuần, Nguyễn Bá Trạc, Trần Long Hồ, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Thị Kim Lan, Hoàng Xuân Sơn, Nam Dao, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Mai Ninh, Ngô Thế Vinh, Nguyễn Xuân Quang, Lê Bi, Lê Thị Huệ, Vũ Huy Quang, Ðỗ Quỳnh Dao, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Luân Hoán, Ngự Thuyết, Tam Thanh, Trần Mộng Tú, Bùi Bích Hà, Thái Tú Hạp, Lâm Chương, Song Thao, Phạm Việt Cường, Mai Kim Ngọc, Ngô Nguyên Dũng, Phan Tấn Hải, Trùng Dương, Túy Hồng, Trần Thị Lai Hồng, Thế Giang, Võ Ðình, Trương Vũ, v.v.. đều đã bước qua khúc quanh dẫn vào xa lộ The Last Pacific Highway... Còn bao nhiêu hoài bão nếu không trút hết ra giấy sẽ đem theo xuống mồ. Ðây là một mất mát lớn, vì thệ hệ nhà văn này đã trải qua nhiều xã hội VN, Pháp thuộc, đệ nhất-đệ nhị Cộng Hoà, xã hội XHCN, tù đày, vượt biển, trại tỵ nạn, xã hội tư bản,... ít có thế hệ nhà văn Việt nào giàu kinh nghiệm, nhiều khổ đau, mất mát, cũng như đã phải trả giá nhiều và tiếp xúc trực tiếp với phương Tây như những nhà văn Việt kể trên. Không còn nhiều thời gian nữa. Những chuyến tàu cuối cùng đã cặp bến. Không lên chuyến này, sẽ không còn chuyến nào nữa.
Thế hệ tôi cũng không còn nhiều thời gian, đồng hồ tay anh Trịnh Y Thư và tay anh Ngô Thế Vinh chỉ 12g đêm kém 5, đồng hồ tay tôi và các bạn bè của mình, Thận Nhiên, Phan Nhiên Hạo, Thơ Thơ, Phạm thị Ngọc, Trân Sa, Nguyễn Hoàng Nam, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Hương, Ðinh Linh, Hồ Ðình Nghiêm, Hoàng Mai Ðạt, Hồ Như, Nguyễn Thanh Hùng, Lê Thị Thấm Vân, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh, Thường Quán... chỉ 12 g đêm kém 10. Tất cả còn 5, 10 phút phù du đó, để rong chơi phung phá một lần nữa, sau đó hoá ...bí rợ.


LQM: Còn vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» thì sao?

TRẦN VŨ: Vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài»? Cô muốn hỏi vấn đề Nam-Bắc? Vấn đề này... đập vào mắt! Tôi không nghiên cứu xã hội học, cũng không quan tâm đến chính trị, lãnh vực của lựu đạn, hầm chông và mã tấu. Tôi chỉ có thể trả lời cô những gì tôi trông thấy sau những lần về thăm nhà. Miền Nam hoàn toàn Bắc hoá. Toàn bộ guồng máy nhân viên hành chánh, thuế khoá, an ninh trong Nam đều do người Bắc nắm giữ, ngay những chức vụ thấp nhất. Số lượng người Bắc sinh sống trong Nam đông vô cùng, ở Sàigòn, tỷ lệ 4/10 là ít. Người Nam ra Bắc sinh sống ngược lại rất hiếm. Tôi hoàn toàn không phiền hà chi việc người Bắc “di cư” vào Nam sau 75, nhưng tôi thấy rõ miền Nam chịu chính sách cai quản của người Bắc, một cuộc Nam tiến.
Tại sao gần tuyệt đại bộ phận sinh viên du học là người Bắc? tại sao những nhà văn công du quảng cáo văn chương Việt Nam là những nhà văn Bắc? Và tại sao trên mặt văn chương, chỉ một giọng văn Bắc? thuần Bắc? Giọng văn Bắc thường sắc, mạnh, nhưng nhìn toàn cảnh văn học trong nước hôm nay bị đơn điệu. Tại sao có hiện tượng Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng và những nhà văn cũ Dương Nghiễm Mậu, Cung Tích Biền, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thuỵ Long, Trần Thị Ngh, v.v... chỉ xuất hiện trên các tạp chí hải ngoại? Nếu Nam-Bắc cùng tẩy chay nhau, thì nhà văn trong Nam đã tẩy chay hội nhà văn của chính quyền vì họ không có tiếng nói. Không biết bao nhiêu nhà văn trong Nam, những khi gặp, đã nói với tôi họ không xem những hiện tượng văn học ngoài Bắc ra ký lô nào, và những trao giải-không nhận giải đều sắp đặt, cũng như xuất bản, thu hồi, rồi ...tái bản. Và tại sao hội nhà văn, viện văn học, trường viết văn Nguyễn Du, các đại học ngữ văn, đã cử bao nhiêu nhà văn, viện sĩ, nhà phê bình ra nước ngoài tìm hiểu văn học hải ngoại “cánh tay nối dài của Ðàng Trong”, nhưng khi về nước hội thảo, trên văn bản chánh thức đều tránh đề cập? Tại sao Hoàng Ngọc Hiến, Ðỗ Minh Tuấn, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Trần Văn Thủy,... nghiên cứu cộng đồng hải ngoại, văn học hải ngoại cho trung tâm William Joiner Center của Hoa Kỳ nhưng về trong nước họ không thể phúc trình hay công bố nghiên cứu của mình cho dân Việt Nam hay biết một phần máu của dân tộc này đang chảy ngoài nước? Nếu đây là vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» như cô hỏi, thì tôi chứng kiến tận mắt như vậy.


LQM: Như vậy vấn đề «Ðàng Trong», «Ðàng Ngoài» sẽù còn là một vấn đề lớn để tranh luận. Nhưng tại sao thuộc thế hệ trưởng thành sau khi chiến tranh chấm dứt, ông không nghĩ phải vượt lên trên vấn đề Nam-Bắc, Quốc-Cộng và phải quên đi quá khứ nội chiến đẫm máu của dân tộc để hướng đến tương lai?

TRẦN VŨ: Tất nhiên là tôi nghĩ đến, nếu không tôi đã không tham dự tạp chí Hợp Lưu do họạ sĩ Khánh Trường khởi xướng từ năm 91. Tôi hiểu phải biết vượt lên trên vấn đề Nam-Bắc, Quốc-Cộng, không nên để quá khứ hãm hiếp hiện tại. Nhưng tôi cũng biết một khi hiện tại không trung thực thì chiếc bóng của hiện tại sẽ không hoàn chỉnh và bóng tối của quá khứ sẽ trỗi dậy. Tôi sống trong trông chờ một hiện tại trung thực ở quê nhà. Và chỉ trên cái nền sạch sẽ này, tất cả người Việt mới có thể cùng đi vào tương lai.


LQM: Trần Vũ có cái nhìn thế nào giữa hai thế hệ sáng tác tại hải ngoại: Thế hệ đàn anh sống trong chiến tranh và Thế hệ trẻ sau chiến tranh?
TV: Các thế hệ nối tiếp Tạ Tỵ, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Sỹ Tế, Cung Tích Biền, Thế Uyên, Tường Hùng, Nguyễn Ðạt, Cao Xuân Huy, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Mộng Giác, Trịnh Y Thư, Ngu Yên, Nguyễn ý Thuần, Hồ Minh Dũng, Trần Doãn Nho, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trần Thị Ngh, Lê Thị Huệ, Trùng Dương, Trang Châu, Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Huỳnh Hữu Uỷ, Vũ Huy Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Hoàng Xuân Giang, Hoàng Xuân Sơn, Trần Thị Lai Hồng, Trương Vũ, v.v.. đều đã thành hình rồi mới tan vỡ sau cuộc nội chiến thảm khốc. Thế hệ tôi, thế hệ theo sau tức khắc, Phạm Thị Ngọc, Vũ Quỳnh Hương, Vũ Quỳnh Nh, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Thị Thanh Bình, Nguyễn Thị Ngọc Lan, Nguyễn Thị Ngọc Nhung, Phạm Chi Lan, Y Chi, Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Thanh Hùng, Nguyễn Phước Nguyên, Trầm Phục khắc, Nguyễn Ðức Quý, Thơ Thơ, Ðinh Linh, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Quốc Chánh, Thận Nhiên, Phan Nhiên Hạo, Ðinh Trường Chinh, Nguyễn Danh Bằng, Nguyễn Trung Tây, Ðỗ Lê Anh Ðào, Vương Thúy Lệ, Nguyễn Hương, Thu Hiền Ngô, Bảo Phi, v.v.. tan vỡ trước khi kịp thành hình. Tôi chưa gặp tất cả, nhưng qua sáng tác của họ, tôi thấy rất rõ, chúng tôi cùng thất lạc, cùng trải qua cùng những mất mát, đoạn trường của thế hệ đi trước. Hoàng Khởi Phong đi làm thợ tiện cực thế nào, thế hệ tôi bước đầu cũng cực thế ấy. Cũng cà lăm, không thốt nổi một chữ tiếng Anh, tiếng Pháp, cũng chầu chực xin giấy tờ tỵ nạn, cùng lủi thủi đi bộ đợi xe bus hứng bão tuyết, cũng làm đủ nghề nghiệp, bồi nhà hàng, rửa chén, rửa xe, xin trợ cấp, bị kỳ thị, bất ngờ trước khác biệt văn hoá của quốc gia đến định cư. Lam lũ, nhọc nhằn, nhục nhã, nhớ nhà, nhớ gia đình, cô đơn, đơn độc, một thân một mình, căm phẫn cho mối nhục mất nước, uất ức khi Sàigòn mang tên Hồ Chí Minh, tuyệt vọng... thế hệ tôi nếm đủ, không thua chi các bậc đàn anh. 
Chúng tôi nhìn bên ngoài thấy có vẻ hội nhập, đa số giỏi ngoại ngữ, đa số thành đạt, nhưng có đọc tác phẩm mới thấu nỗi đau câm lặng trong từng cá nhân. Nỗi đau đó, không nghẹn ngào, buồn chín xương như thơ Mai Thảo “nửa đường hương gẫy trên nghìn biển, rụng xuống mười xuân đã đứt lià”, không tiếc nuối quá vãng như Cao Tiêu “hiền sĩ thuở xưa có trăng treo đầu ngõ, tôi có gì đâu ngoài nón trận”, cũng không hương vị Bắc của những cơn mưa phùn Ðất Khác trong thơ Thanh Nam, không băn khoăn “mai mốt anh về có thằng túm hỏi, mày sang bến ấy làm củ gì?” như Cao Tần, cũng không ngạo nghễ như Bắc Phong, Lâm Hảo Dũng, Nguyễn Ðức Bạt Ngàn, không ngông một cách “zen” tỉnh bơ như Ngu Yên khi nghe két chưởi “tổ cha mày, ngoài trời mây vẫn bay...”, và ít bềnh bồng lãng đãng như Nguyễn Bá Trạc. Nỗi đau của thế hệ tôi câm lặng, chưa rõ hình, không rõ lời, không rõ tiếng, chưa rõ thần, chỉ vì giản dị, đã tan vỡ trước khi kịp định hình.
Trong Florence, cách đây đã hơn một thập niên Phạm Thị Ngọc đặt câu hỏi: “Nước Mỹ có còn gì cho chúng tôi không?” Lúc đó Phạm Thị Ngọc chỉ mới ngoài đôi mươi, đã hoang mang trước lục địa mới. Câu hỏi lập đi lập lại suốt toàn truyện giữa những trận gió lạnh buốt quất qua thềm cửa trông sang ngôi nhà có bà lão tóc bạc. Câu trả lời duy nhất: To Die in Dignity!
Trong Miền Vĩnh Phúc, sau Vận Tốc Trung Bình, sau Nẻo Quyên Ca, Vũ Quỳnh Hương năm 86 lúc đó vừa hơn 30 tuổi, mô tả trong hốt hoảng, thảng thốt tương lai của chính cô đang diễn ra trong một viện dưởng lão Hoa Kỳ với tất cả bản năng basic instinct của con người trước khi lìa đời, với tất cả bần tiện của con người khi còn cách xa địa ngục hoặc thiên đàng. Trân Sa, những ngày vừa đến Gia Nã Ðại miêu tả tâm trạng một thiếu nữ dưới trận bão tuyết tầm tã lầm lũi ra đường đi bộ nhiều cây số tìm mua cho được một điếu thuốc, để trốn cô đơn, rồi đi giữa hai hàng ghế trống với những bóng ma mộng mị ác mộng đeo đuổi. Cao Huy ở Úc mô tả một bà lão bản xứ cầm đồng hồ có mặt kim xoay tít không thời gian, đi từ tầng lầu này sang tầng lầu khác, từ building này sang building khác đuổi theo Cao Huy bén gót. Nguyễn Thanh Hùng, một hoạ sĩ trẻ lâu lâu viết tùy bút, những giòng chữ gần như khóc trên trang giấy, trên tháp chuông chót vót của một mái nhà thờ câm lặng gióng tiếng chuông vô hình bay ngân nga ngang những cánh đồng hoa hướng dương tím tái. Nhược Thủy, trong Phiến Diện, tả một người đàn bà da trắng đã chết có khuôn mặt đẹp tuyệt vời trong một ngôi nhà gỗ thơm củi thông cheo leo giữa lưng chừng núi tuyết, toàn truyện gần không có một tiếng động. Vũ Quỳnh Nh tự buông thả rơi vào những sắc màu nhập nhoè trong những khu phố Geisha sằng sặc tiếng cười phung phá. Lê Thị Thấm Vân trông thấy rõ mồn một bộ phận sinh dục trên thân thể phụ nữ Việt Nam, suốt bốn ngàn năm che dấu. Ðinh Linh cho cô gái điếm trẻ VN chia động từ Être, je suis, tu es, il est, nous sommes... với một khách làng chơi VN còn chập chờn nuối tiếc quá khứ. Phan Nhiên Hạo bị ám ảnh bởi cơn đói trước khuôn viên trường đại học Sư Vạn Hạnh trên đường Trương Minh Giảng cũ. Thận Nhiên những đêm mất ngủ ngồi trước bàn phiếm mơ liên tục những giấc mơ trẻ thơ. Nguyễn Hương tìm kiếm không ngừng nguồn gốc đứt đoạn của thời gian VN. Nguyễn Hoàng Nam, Trần Minh Quân trần truồng không chút ngượng ngùng, quăng bộ phận sinh dục vào mặt tất cả, quăng vào mặt đạo đức xã hội, dân tộc, Khổng Tử, Lão Tử, Trang Tử, Trịnh Công Sơn, gia tài của Mẹ... không chút do dự. Còn nhiều nữa, tôi có thể kể tiếp tục như vậy suốt đêm. Tôi đọc gần như tất cả truyện ngắn ngoài nước. Theo dõi kỹ càng sáng tác của các bạn mình. Tôi không bỏ sót dòng chữ nào của họ. So với trong nước, tuổi trẻ ngoài nước cá tánh và bạo dạn, phóng túng hơn rất nhiều. Họ chỉ chưa rõ rệt, vì đã tan vỡ quá sớm. Ngày nào họ ráp lại tất cả những mảnh vỡ họ nhặt lên từ mặt đất này, nơi cho phép tự do nhặt nhạnh ngay cả những miểng chai quốc cấm, lúc đó, Việt Nam sẽ thật sự có một nền văn học mới, có đủ tri thức, kinh nghiệm nhân loại, hiểu rõ tây phương và biết rõ giá trị con người sau khi đóng thuế. Hãy đợi thế hệ sau chiến tranh thêm 5, 10 phút nữa. Ðã thực sự trưởng thành, đã bắt đầu lên đường, và đang nhận trách nhiệm. Có hơi muộn, nhưng không thể khác hơn, chúng tôi cũng tự túc lo cơm áo, nhà, xe, trợ cấp, học hành, ly dị, du lịch VN, nuôi con y như thế hệ đàn anh. Chỉ sau 5,10 phút. Trưởng thành sau 5,10 phút và sẽ chết sau 5,10 phút ở Tokyo, London, NewYork, Victoria, Melbourne, Los Angeles, Paris, Berlin, Québec, Montréal, Toronto... Nhưng 5,10 phút này quyết định tất cả sự khác biệt.


LQM: Bây giờ thì hiểu vì sao ông viết tổng kết Hợp Lưu 12 năm, dường như ông thích liệt kê?

TRẦN VŨ: Ðúng vậy, tôi mắc cùng bệnh liệt kê của ...nhà nghiên cứu Nguyễn Vy Khanh. Do làm việc trong ngành điện toán, tôi quen với điều nghiêng khái quát, điều nghiên chi tiết, điều nghiên kỹ thuật, mô hình dữ kiêïn, mô hình tổ chức, quan hệ chức năng, lập trình, kết quả thống kê, phân tích, danh mục, chỉ số, kiểm toán, phúc trình mỗi quý ...dù sau đó, các số liệu hoàn toàn nhân tạo sai lệch 70% so với thực tế đưa đến bảo trì, hiệu đính và... công ty vứt bỏ toàn bộ hệ thống mua máy mới!


LQM: Là người đề xướng chủ đề Yêu của Hợp Lưu(7), xin ông cho biết ý kiến về từ Yêu ở nghĩa rộng và nghĩa hẹp? Và dường như ông luôn là người thực hiện các chủ đề sáng tác cho các tập san hải ngoại? Tại sao những chủ đề?
TV: Tôi thường hay lôi kéo bạn bè cùng viết truyện chung vì sáng tác phải có bạn mới vui. «Chủ đề» đầu tiên tôi thực hiện là tập hợp Những Cây Bút Trẻ tại Pháp, theo yêu cầu của chủ bút Hoàng Khởi Phong và tổng thư ký Cao Xuân Huy với ...trình bày Khánh Trường cho tạp chí Văn Học số 45 tháng 11.1989. Lúc đó, quy tụ được Nhược Thủy (Y Chi) với truyện ngắn tâm lý gia đình rất xúc động Dòng Sông Sa Mạc, Ngọc Khôi (đã mất), Văn Cũng Thường (đã đi chui qua Mỹ), và Sĩ Liêm (đã ngưng viết). Thời kỳ đó, anh Hoàng Khởi Phong thực hiện liên tiếp những số báo giới thiệu người viết trẻ, với Cao Huy, Cheo Reo, Uyên Nguyên, Thường Quán, Hoàng Ngọc-Tuấn, Hoàng Từ Dương ở Úc trên VH-41 tháng 6/89. Trước đó anh Nguyễn Mộng Giác «chuyên gia chủ đề» cũng đã làm vô vàn những chuyên đề, ‘‘9 Người Viết Trẻ’’ với Chân Phương, Hoàng Mai Ðạt, Nguyễn Hoàng Nam, Trần Trúc Giang, Nguyễn ý Thuần, Tạ Thái, Nguyễn Hiền Thảo, Nguyễn Phước Nguyên ở Mỹ và Nguyễn Thanh Hùng ở Hoà Lan trên VH-22 tháng 11/87, rồi ‘‘Các Cây Bút Nữ’’ với Nguyễn Thị Hoàng Bắc, Trân Sa, Phạm Thị Ngọc, Vũ Thùy Hạnh, Trần Thị Kim Lan, Như Chi, Nguyễn Thị Thanh Bình, Thuỵ Khuê’’ trên VH-33 tháng 10/88... Sang đến giai đoạn Hợp Lưu, họa sĩ Khánh Trường cũng liên tục chủ đề Những Nhà Văn Nữ, Văn Cao, Mai Thảo, Bùi Giáng, Hoàng Xuân Hãn, Thanh Tục,v.v.. Tôi trưởng thành trong môi trường sáng tác và sinh hoạt của những tập san này, nên lây bệnh của mấy ông anh là đương nhiên.
Thật sự là vào năm 89, khi thực hiện chủ đề đầu tay Những Cây Bút Trẻ tại Pháp, tôi hoàn toàn không ngờ là định mệnh sẽ đưa đẩy một thập niên sau, vô cùng bất ngờ khi Nam Dao từ Québec, Trân Sa từ Toronto, Thường Quán từ Melbourne, rồi Nguyễn Thị Ngọc Nhung từ Los Angeles sang Pháp, giữa khói cần sa mù mịt Trân Sa mua ở Hoà Lan và vấn cho tôi hút thử, với rượu vang của các chị Phan Thị Trọng Tuyến, Miêng, Mai Ninh, hoạ sĩ Phan Nguyên, cả nhóm bỗng dưng «hưng phấn» rủ nhau đi thuê nhà chung trong truyện, chung câu văn nhập, với ‘‘kẻ lạ’’, không cho thấy mặt, không cho... giao tiếp thân xác, cấm kết có hậu! Ðã có những truyện ngắn rất bất ngờ: Nam Dao thuê nhà chung với Jésus đi ra đường gặp ...Karl Marx, Eric Nguyễn Việt thuê nhà chung với một người đàn bà là thần chiến tranh, Phan Nguyên thuê nhà với ma... Rồi chia tay, bạn bè lại xa nhau. Hai năm sau, bỗng nhiên Miêng nhắc đến đề tài Truyện Tình Mùa Hè của Trân Sa bỏ bê bao năm, lại ầm ào, lôi kéo, rủ nhau một lần nữa. Lần này Trân Sa và Nam Dao muốn mở rộng phạm vi «toàn quốc», thư mời gởi đi lung tung, dưới sự bảo trợ của chủ biên Hợp Lưu là Phùng Nguyễn khi ấy. Phạm Thị Hoài đặt tựa Yêu nhưng rồi bận không tham dự, chị Phan Thị Trọng Tuyến nói tựa Yêu của Chu Tử... Nhưng rồi Yêu cũng ra đời với 36 tác giả trong ngoài nước. Sau đó hoạ sĩ Khánh Trường sau khi rời nhà thương, trở lại trông coi tạp chí, anh quyết định lên đường một lần nữa. Các chủ đề Thế Hệ Sau Chiến Tranh với 30 tác giả nội-ngoại và Tiểu Thuyết tiếp nối... Mục đích duy nhất của tất cả những tác giả cùng tham dự là cùng muốn gây lại sinh hoạt sáng tác, hâm nóng lại bầu không khí đã chùng xuống mấy năm vừa qua, tạo sinh khí, sinh động, ầm ĩ và biết đâu... bắt đầu một giai đoạn mới. Ngoài ra không còn mục đích nào khác.
Về ý nghĩa chữ Yêu, tôi không thể trả lời cô, vì giản dị, không thể định nghĩa tình yêu.


LQM: Ông nghĩ sao về ý kiến của một số độc giả và văn hữu cho rằng những tay viết nữ luôn luôn là những người đi tiên phong trên phưong diện Tình Dục?
TV: Tôi nghĩ ngược lại, các nhà văn nữ VN rất gìn giữ, không bao giờ viết hết suy nghĩ của họ. Gia đình, xã hội và truyền thống giáo dục Khổng giáo vây quanh, khiến nhà văn nữ VN mất tự do, tự kiểm duyệt, không muốn nghĩ đến hoặc nghĩ đến nhưng không thấy đẹp đẽ rồi lẩn tránh. Trước đây, ở miền Nam, Lệ Hằng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị Ngh là những hiện tượng cá biệt. Hôm nay, số lượng nữ tác giả viết về tình dục một cách bạo dạn, không trốn tránh, vẫn còn rất ít. «Miền dục lạc» như Trân Sa gọi, gồm Lê Thị Thấm Vân, Mai Ninh, Nguyễn Hương, Thơ Thơ cùng với Lê Quỳnh Mai mới đây trong văn xuôi, Ðỗ Lê Anh Ðào, Trần Minh Quân, Vy Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư trong thơ, cũng mới đây.
Một trong những nguyên nhân tuy không chính yếu, nhưng có ảnh hưởng, nằm trong tiêu chỉ đạo đức-mỹ tục vô cùng cổ điển của các toà báo. Mỗi lần đăng được một bài thơ bị người Việt xem là «bạo» ïlà mỗi một lần tác giả và ban biên tập phải tranh đấu cho dòng thơ này cất tiếng. Ngay Hợp Lưu, một tạp chí vung khẩu hiệu khai phá cấp tiến, bước vào thế kỷ 21 vẫn vô cùng ngần ngại với sinh dục. Chủ đề Yêu, Hợp Lưu không đăng trích đoạn Âm Vọng Tình Ta của Lê Thị Thấm Vân, thơ ca Sex của Trần Minh Quân và Lê Thị Thấm Vân luôn gây dị ứng. Tức quá, có lần tôi đem Âm Vọng Tình Ta của Lê Thị Thấm Vân gởi cho tạp chí Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng, được xem một tạp chí trẻ, của tuổi trẻ trưởng thành ngoài nước, của tuổi trẻ «thấm đẫm» văn hoá phương Tây, nhưng... chủ biên Phạm Chi Lan không đăng!
Tôi luôn luôn ngạc nhiên trước những hàng rào này. Không có hoạ sĩ Khánh Trường, chắc chắn phong trào sinh dục hoá thi ca không bao giờ có thể ra đời trong văn chương VN hải ngoại. Hiện tại, tạp chí điện tử Tiền Vệ của nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, là tạp chí duy nhất không sợ hãi tình dục lẫn các bộ phận sinh dục. 


LQM: Thập niên ba mươi, Thơ mới đã là một bước đột khởi trong dòng văn chương Việt Nam. Theo ông, Thơ Tân Hình Thức hiện nay có thể nối tiếp nhiệm vụ gây hưng phấn cho nền thi ca Việt Nam hay không? Ðộc giả chưa bao giờ thưởng thức một bài thơ nào của ông. Có phải nhà văn Trần Vũ bị« dị ứng» với Nàng Thơ?
TV: Tôi không quan tâm đến thi ca. Tôi chỉ đọc có hai loại sách duy nhất, tiểu thuyết và các tài liệu chiến tranh Ðông Dương, Algérie, đệ nhất & đệ nhị thế chiến, thủy chiến Thái Bình Dương... Chuyên môn chính của tôi là các binh chủng Lê Dương, Nhảy Dù, Panzer, Waffen SS, Luftwaffe,... Thuở niên thiếu khi bước chân lên trung học đệ nhất cấp, lúc còn ở Sàigòn, tôi đã sớm say mê tủ sách Hitler của nhà Sông Kiên, Samourai Những Trận Không Chiến Dữ Dội Nhất Lịch Sử Thái Bình Dương của trung úy Saburo Sakai, Erwin Rommel Con Cáo Già Sa Mạc của Desmond Young, Hitler và Mặt Trận Miền Ðông của Paul Carell là những sách gối đầu giường của tôi khi ấy. Lớn hơn một chút, khi bạn bè mê thơ Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, mê truyện Nguyễn Thanh Trịnh, Từ Kế Tường, Ðinh Tiến Luyện, Nhã Ca,v.v.. thì tôi mê Bố Già (do Ngọc Thứ Lang dịch), Ông Mãnh Súng Vàng (do Hoàng Hải Thủy dịch), Z-28 Hận Vàng Aán Ðộ (Người thứ Tám), Về Miền Ðất Hứa (do Thế Uyên dịch), Chiến Hữu (Vũ Kim Thư dịch) và dĩ nhiên Tử Thủ Căn Cứ Hoả Lực 30 Hạ Lào của đại úy Trương Duy Hy giải nhất văn chương... phủ tổng thống VNCH. Sang đến Pháp, tôi rơi ngay vào kho sách chiến tranh của các sĩ quan Pháp tham chiến tại VN, từ trung tướng Navarre đến trung tá Grauwin y sĩ trưởng Ðiện Biên Phủ, từ ký của Francis Garnier đang viêùt dở dang cho báo Figaro, đến tiểu thuyết Sensualité của Henry Rivière mới viết 2 chương ở Hà Nội khi bị Lưu Vĩnh Phúc chém chết ở Ô Cầu Giấy... Tôi bị văn xuôi cùng chiến tranh cám dỗ và không còn thời gian cho những thứ khác. Nếu cô gọi đó là dị ứng thi ca, thì đó là dị ứng thi ca.


LQM: Trần Vũ có hoài bão riêng nào cho bản thân và cho Hợp Lưu?

TRẦN VŨ: “Hoài bão” cho Hợp Lưu? Câu hỏi này dành cho hoạ sĩ Khánh Trường chủ biên tạp chí đúng hơn. Tôi chỉ mong muốn, các tập san văn chương VN trên giấy cũng như trên mạng, cùng nhà xuất bản ngoài nước trả tác quyền và nhuận bút cho các tác giả, ký kết văn kiện hợp đồng đàng hoàng y như Tây phương. Ðến lúc đó hẳn ghi copyright Tiền Vệ, Talawas, Hợp Lưu, Văn, Văn Học... Ðây là điều kiện chuyên nghiệp đầu tiên trước khi đòi hỏi các tác giả chuyên nghiệp trong sáng tác. Dương Thu Hương có lần tuyên bố: Cái nhục lạc hậu nghèo đói, cũng nhục như cái nhục mất nước. Tôi muốn thêm: Cái nhục không trả tiền nhuận bút, cũng nhục như cái nhục mất nước.
Muốn vậy, nhưng tôi biết rõ các tạp chí không có lợi tức. Không nhuận bút ở ngoài nước đã thành một thông lệ. Một truyền thống. Và hơn một truyền thống, một định mệnh.
“Hoài bão” riêng cho bản thân? Có thể về hưu tức khắc, ngay bây giờ, có một biệt thự sát biển ở Phù Két-Thái Lan và nhiều biệt thự khác ở Nha Trang, Ðà Lạt, Sàigòn, có thời gian viết tiểu thuyết, dịch sách chiến tranh Ðông Dương, có hầm rượu vang nhiều ngàn chai và tôm hùm, bào ngư, hào sống, cá sống, và bạn bè đến uống rượu mỗi chiều cùng ngắm mặt trời trước biển trong tiếng cười vang suốt đại dương...


LQM: Là người được mô tả thân thiết với họa sĩ Khánh Trường. Trần Vũ có cảm tưởng ra sao khi nghe tin hoạ sĩ Khánh Trường, sau tai biến mạch máu não, lại rơi vào bệnh nan y khác: ung thư thanh quản.

TRẦN VŨ: Tôi không biết phải trả lời cô như thế nào, vì tôi vẫn chưa hình dung rõ ràng chuyện gì đang xảy đến. Tôi biết là hoạ sĩ Khánh Trường đang gặp nguy hiểm, và tôi nghĩ đang có cùng cảm giác của anh, ngày anh đến thăm Mai Thảo trong căn gác phía sau nhà hàng Song Long, thấy Mai Thảo không đi được nữa. Mai Thảo đã luôn là một người anh của hoạ sĩ Khánh Trường. Tình cảm của anh dành cho Mai Thảo thế nào, thì tình cảm của tôi dành cho anh y vậy. Tôi tin vậy. Lúc này tôi không biết làm gì khác hơn là phụ lặt vặt với anh chuyện toà báo, giống như mình có ông anh mở một cửa hiệu buôn bán gì đó, không có lời, nhưng ông anh vẫn bán, vẫn đứng trông hàng mỗi ngày từ sáng đến chiều để gặp bạn bè, rồi đột nhiên anh ngã bệnh, tôi chạy ra trông hàng thay, cũng chẳng để buôn bán hay kiếm lời chi hết, chỉ để gặp bạn bè, thông báo cho họ hay chưa đóng cửa hiệu, còn mở. Ðến khi nào, bao giờ, thì tôi không biết. Tôi chỉ biết hoạ sĩ Khánh Trường đang ốm đau và anh cần có người phụ giúp. Tôi phụ anh tất cả những gì tôi có thể phụ được, và nghĩ ngày mai anh sẽ ra cửa hiệu trở lại, lại cười khà, và tôi sẽ lại bỏ đi chơi với Thận Nhiên, Trân Sa, Nguyễn Hương, Thấm Vân, Nguyễn Hà ý Nhi, Nam Dao, Thế Giang cho đến khi lại nghe anh kêu làm cho anh cái này, cái kia. Tôi đã quen với bao nhiêu năm hoạ sĩ Khánh Trường hứng mũi chịu sào cho tôi phá phách, tôi không thể hình dung ra sự thay đổi nào khác. Hoạ sĩ Khánh Trường, hoạ sĩ Võ Ðình, anh Trương Vũ, là các ông anh lớn của tôi. Họ luôn ở bên cạnh, che chở, la rầy, và chỉnh đốn những khi cần thiết. Chị Nguyễn Thị Hoàng Bắc, chị Thụy Khuê, chị Trần Thị Lai Hồng, chị Phan Thị Trọng Tuyến là những bà chị lớn... Họ là gia đình tôi. Thường khi tôi hay phá phách chọc tức họ, nhưng mỗi khi họ gặp hung hiểm, tôi khổ vô cùng. Mỗi lần như vậy, tôi đều nghĩ đến cuộc vượt biển của mình, nghĩ đến lúc đóng bè trôi giạt giữa biển Ðông, nghĩ đến các trại cô nhi viện tôi đã sống suốt năm năm, và nghĩ tôi đã may mắn lắm có một gia đình ấm cúng như vậy, tựa máu mủ, ở bên này biển.


Lê Quỳnh Mai
 thực hiện









































Truyện ngắn







Làn Da Kim Khánh.










Khi Về Đã Lạnh Vườn Xưa.

























Dịch thuật





Robbe-Grillet hay sự khủng bố văn chương







Văn chương cần trình diễn hay trí thức?







Chuyến bay của người đẹp ngủ say







Richard Millet: Chúng ta đã giết chết Pháp văn (phỏng vấn)


(...)

---------------------------
blog PHAN NGUYÊN
=================








0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ