Thứ Tư, 9 tháng 8, 2017

về nhà văn nữ linh bảo [ i.e. võ thị diệu viên 1926- ] -- blog phan nguyên




(...)

ĐẾN VỚI LINH BẢO
TỪ GIÓ BẤC TỚI MÂY TẦN

Hồn quê theo ngọn MÂY TẦN xa xa
NGUYỄN DU




Linh Bảo [ i.e. Võ thị Diệu Viên 1926- ]
(epaint by PHAN NGUYÊN)


Linh Bảo thời xuân sắc
(courtesy photo of Đinh Thạch Bích)
                                                     vẫn là chân dung ảnh của một thời xuân sắc
                                                                    (ảnh LB gửi cho TP từ Hong Kong ( 1957),
                                                               sau  đăng  tải trên tạp chí-giai phẩm VĂN MỚI (Thế Nguyên)

 
hình 1: nhà văn Linh Bảo, thời gian ở Hương Cảng [nguồn: tư liệu Linh Bảo]



[ chân dung ảnh Linh Bảo qua thời gian
(tư liệu ảnh của Lê Ngộ Châu tặng TP) ]


                                                       [  linh bảo (chân dung ảnh in trên đĩa  của chính tác giả thục hiện)  ]

(**- 
                                                
   
Sau các nhà văn nữ tiền chiến như Thuỵ An, Mộng Sơn của thập niên 1940s, Linh Bảo và Nguyễn Thị Vinh là hai nhà văn đi trước thế hệ đông đảo các nhà văn nữ của thập niên 1960s về sau này như Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng Dương, Trần Thị NgH.   
    
Linh Bảo là một tên tuổi văn học của Miền Nam từ những năm 1950s. Các tác phẩm của Linh Bảo được lần lượt xuất bản tại Miền Nam từ 1953 tới 1975. Chỉ có Mây Tần là tuyển tập đoản văn duy nhất được xuất bản ở hải ngoại (1981). Sau 1975, không có một tác phẩm nào của Linh Bảo được in ở trong nước.  

TIỂU SỬ
    
Nhà văn Linh Bảo, tên Võ thị Diệu Viên, sinh 14 tháng 4, 1926 trong một gia đình quan lại triều đình Huế: cha Võ Chuẩn nguyên tổng đốc Quảng Nam, mẹ gốc hoàng tộc Tôn Nữ Thị Lịch. Từ thời rất trẻ, Linh Bảo đã nuôi tham vọng được đi du học, rời xa gia đình sớm, sống lưu lạc qua nhiều quốc gia ngoài Việt Nam: Trung Hoa (Nam Kinh, Quảng Châu), Hương Cảng, Anh, Pháp, và Mỹ. Linh Bảo còn có hai tên khác: Lại Cẩm Hoa là tên trên chiếc vé xuống tàu vượt biển sang Hương Cảng, Vũ Trung Thư / Mo Chung Shu là tên ghi danh đi học ở Nam Kinh và Quảng Châu. Các bức thư nhà văn Nhất Linh gửi Linh Bảo khi còn ở Hương Cảng đều gửi với tên Lại Cẩm Hoa. [Hình 3]
    
Mới xong năm thứ hai (1947-1949) Đại học Tôn Trung Sơn [do tôn kính người Hoa không gọi tên Tôn Dật Tiên / Sun Yat Sen University], thì Hồng quân của Mao Trạch Đông chiếm toàn Hoa Lục 1950, Linh Bảo một lần nữa từ Quảng Châu chạy tỵ nạn sang Hương Cảng. Tại đây, cô đã làm mọi việc để kiếm sống: từ phụ tá nha sĩ / dental tech tới lồng âm tiếng Việt cho các bộ phim Tàu đang thịnh hành thời bấy giờ.
   
Năm 1951, Linh Bảo lập gia đình với một người Hoa mang quốc tịch Anh, và trở thành công dân Anh do cuộc hôn nhân này. Bút hiệu Linh Bảo, có nguồn gốc rất đơn giản, đó chỉ là tên người chồng Trần Linh Bảo / Ling Po Chan và bút hiệu ấy gắn mãi với văn nghiệp của chị trong văn học sử Việt Nam.        
     
Đến 1954, khi Lãnh Sự Quán Việt Nam Cộng Hoà mới được thành lập, Linh Bảo là người Việt Nam hiếm hoi lúc đó biết tiếng Quảng Đông, tiếng Quan Thoại, tiếng Anh và dĩ nhiên cả tiếng Việt, cô được tuyển làm nhân viên của toà Lãnh Sự Việt Nam tại Hương Cảng. Làm việc tới 1957, trở về nước và chỉ sau 2 năm, 1959 Linh Bảo lại chọn một cuộc sống xa quê nhà.




hình 2: nữ sinh viên Vũ Trung Thư (Linh Bảo) tại Đại Học Tôn Trung Sơn, Quảng Châu, Trung Quốc  [nguồn: tư liệu Linh Bảo]
         
Từ Hương Cảng, qua Pháp rồi qua Anh một thời gian, cuối cùng Linh Bảo chọn định cư ở Mỹ sau khi được tuyển dụng vào giảng dạy môn Việt ngữ 14 năm [1962-1976] tại trường Sinh ngữ Quân đội Mỹ / Defense Language Institute, Monterey, California cho đến khi ngôi trường bị giải thể sau Chiến tranh Việt Nam.      
Linh Bảo hiện sống tại Nam California.
      
Tác phẩm:
- Gió Bấc, truyện dài, Nxb Phượng Giang 1953
- Tầu Ngựa Cũ, tập truyện ngắn, Nxb Đời Nay 1961
- Những Đêm Mưa, truyện dài, Nxb Đời Nay 1961
- Những Cánh Diều, tập truyện ngắn, Nxb Trí Đăng 1971
- Mây Tần, tuyển tập đoản văn, Nxb Việt Nam Hải Ngoại 1981
    
Sách nhi đồng:
- Chiếc áo nhung lam, Sách Hồng, Nxb Đời Nay 1953
- Con Chồn Tinh Quái, truyện Nhi đồng, Nxb Ngày Mới 1967
    
Tác phẩm Tàu Ngựa Cũ được trao Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1961. [Hình 5] Trừ truyện dài Gió Bấc và truyện nhi đồng Chiếc áo nhung lam được in từ 1953, các tác phẩm chính của Linh Bảo đều được xuất bản trong thời kỳ 1954-1975.



TỪ GIÓ BẮC TỚI GIÓ BẤC

    Tại Hương Cảng, Linh Bảo được dịp làm quen với hai nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Trương Bảo Sơn. Bản thảo Gió Bắc [chưa phải là Gió Bấc] như một tự truyện viết theo ngôi thứ nhất kể lại cuộc sống lưu lạc của cô sinh viên Linh Bảo, được trao cho chị Nguyễn Thị Vinh và sau đó tới tay nhà văn Nhất Linh.
    Sau khi đọc bản thảo Gió Bắc, thấy được "cốt cách nhà văn - chữ của Nhất Linh" của tác giả, Nhất Linh đã viết thư khuyến khích Linh Bảo với hai gợi ý: viết lại cuốn tự truyện theo ngôi thứ ba và sửa nhan đề cuốn sách là Gió Bấc thay vì Gió Bắc. Linh Bảo đã làm theo lời khuyên của nhà văn Nhất Linh. [Hình 3]




hình 3: phải, thư nhà văn Nhất Linh gửi Linh Bảo, trái, bìa Gió Bấc do Phượng Giang xuất bản 1953 [nguồn: tư liệu Linh Bảo]


    Từ Sài Gòn, ngày 29 tháng 5 năm 1953 nhà văn Nhất Linh đã viết thư cho Linh Bảo lúc đó vẫn đang còn ở Hương Cảng, với tên Lại Cẩm Hoa:
    
Kính gửi chị Hoa,     
Tôi đã nhận được cuốn Gió Bấc và đã đọc hết. Khá lắm và hay hơn lần viết đầu. Xin gửi lời khen chị. Các nhân vật quốc nội và hải ngoại cũng rõ ràng linh hoạt hơn, đoạn kết cũng rất khéo và vừa vặn. Sách chị ra chắc sẽ được hoan nghênh, có lẽ ra đồng thời với Thương Yêu và Gió Mát [của Nguyễn Thị Vinh và Tường Hùng, ghi chú của người viết]. Ba cuốn, ba tâm sự và mỗi cuốn một vẻ.      
Tôi sẽ chữa lại văn, xoá bỏ ít đoạn (việc này cũng mất độ mươi hôm) rồi đánh máy đưa kiểm duyệt. Cái chính là hay, còn văn là phụ; song hoàn toàn thì vẫn hơn.     
Trong 3 cuốn Thương Yêu, Gió Mát, Gió Bấc cuốn của chị ít sắp đặt, ít tiểu thuyết hoá nhất; những cuốn sau cần phải bố cục... nhưng thôi để khi chị viết cuốn thứ hai. Chị đã có cốt cách nhà văn, cứ thế mà tiến, yên tâm mà tiến, còn nhiều rực rỡ về sau đợi chị.        
Chúc chị mạnh và nếu tiếng đàn vẫn còn văng vẳng (chỉ cơn hen suyễn của Linh Bảo, trong một thư khác Nhất Linh còn gọi đó là tiếng đàn violon, ghi chú của người viết) cũng không sao vì cái đó có ngăn cản gì đâu việc chị viết Gió Bấc.
Nhất Linh
    
Chẳng thể ngờ rằng chỉ 10 năm sau khi viết bức thư này, nhà văn Nhất  Linh đã tuẫn tiết ở tuổi 57 [1906-1963].  
    
Gió Bấc là tác phẩm đầu tay của Linh Bảo được Phượng Giang xuất bản năm 1953. [Hình 3] Có thể coi đây như bước khởi đầu vững vàng trên con đường văn nghiệp của Linh Bảo. Vừa mới thành danh với Gió Bấc, vì một lý do tâm cảnh, Linh Bảo muốn đổi bút hiệu, nhưng được nhà văn Nhất Linh khuyên can và cô đã nghe theo.



TỪ GIÓ BẤC TỚI NHỮNG ĐÊM MƯA
   
Gió Bấc là truyện một cô gái tên Trang sinh ra và lớn lên ở Huế, thể chất yếu đuối do từ nhỏ đã mắc phải căn bệnh suyễn kinh niên, và trở nặng theo mùa và mỗi lần gió bấc thổi về thì cơn hen suyễn lại nổi lên thê thảm; tuy vậy tinh thần cô gái thì mạnh mẽ. Do quan niệm xưa cũ, mẹ Trang không khuyến khích sự học của con gái nhưng Trang thì vẫn nuôi mơ ước được đi du học. Chiến tranh ly tán, Trang xa gia đình rất sớm, lưu lạc vào Sài Gòn, bị bắt và cả tù đầy và rồi cơ hội tới, cô kiếm được một vé xuống tàu với một tên Trung Hoa và qua được Hương Cảng, rồi Nam Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu. Cô gái mảnh mai ấy đã sống sót qua những biến cố lịch sử: cách mạng ở Việt Nam, cách mạng ở Trung Hoa, trải qua những ngày tháng đầy chiến tranh loạn lạc. Ở đâu thì cô cũng phải làm việc cật lực để mưu sinh. Rồi cô cũng vào được Đại học Tôn Trung Sơn Quảng Châu, chưa được bao lâu thì Hồng quân của Mao Trạch Đông toàn chiếm Hoa lục, một lần nữa lại phải tỵ nạn sang Hương Cảng. Tại đây cô đã phải làm đủ nghề để kiếm sống cho đến khi gặp được một người đàn ông Hương Cảng gốc Hoa không tham vọng hiền lành tên Bình, tìm tới muốn chia sẻ cuộc sống với Trang.      
Trang cuối của Gió Bấc: "Và Bình bỗng nắm chặt tay Trang: Trang, Trang cho phép tôi... được săn sóc Trang ... suốt đời nhé?" Nàng đã không chống cự và xiêu lòng. Gió Bấc viết xong tại Hương Cảng 1952 khi ấy Linh Bảo vừa mới 26 tuổi.
    
Những Đêm Mưa có thể coi như tiếp nối “Gió Bấc”, vẫn cô gái tên Trang. Trang và Bình hai người cưới nhau, cuộc sống lứa đôi ngay sau đó đã chẳng thơ mộng hay hạnh phúc như người con gái từng hy vọng; nhiều xung khắc trái nghịch xảy ra nhất là khi nàng sinh đứa con gái đầu tiên trong cảnh gia đình thiếu hụt đưa tới sự bế tắc. Không thể tiếp tục sống với một người đàn ông mà nàng cho là tầm thường, Trang lại thu xếp hành trang đem theo đứa con gái nhỏ và cái bụng đang mang thai trở về Huế sống với cha mẹ trong một thời gian không hạn định.          
Đã thất vọng với cuộc hôn nhân nhưng khi về tới quê nhà, Trang lại phải chứng kiến những tấn bi kịch khác của gia đình: người cha đã bỏ mẹ nàng trong nỗi đau buồn tủi vì mê say sống với mấy người vợ bé trẻ trung hơn mẹ. Chính Trang cũng bị người cha ruột ruồng rẫy. Rồi người cha ngã bệnh chết, bà mẹ quá chán chường tìm chốn nương thân nơi cửa Phật. Người phụ nữ tên Trang ấy, ở đâu cũng thấy cô đơn, chẳng còn trông cậy vào một ai khác, và Trang lần này lại ra đi, chưa biết đi đâu nhưng không có dự tính trở lại với người chồng cũ ở bên Hương Cảng.
    
Trang cuối của Những Đêm Mưa: "Trang không cần đọc cũng biết nội dung trong thư có những gì [những bức thư của Bình, người chồng cũ]. Trong những năm tháng xa nhau, Bình đã viết đều đều cho Trang mỗi tuần lễ hai bức thư như thế... văn tài của anh dù "yên sĩ" có lên độ cuối cùng cũng không bao giờ đủ hứng để viết thành một cái chuyện ngắn chuyện dài nào... Trang nhìn theo con như cố tìm can đảm để phấn đấu, để chịu đựng những thử thách của một cuộc phiêu lưu sắp tới ngày mai..."
    
Những Đêm Mưa cũng viết xong tại Hương Cảng 1957, năm năm sau Gió Bấc khi ấy Linh Bảo 31 tuổi.
    
Cả hai cuốn tiểu thuyết đều bao gồm rất nhiều kinh nghiệm sống của Linh Bảo. Không phải là do câu chuyện mà nghệ thuật viết đã làm nên giá trị độc đáo của tác phẩm Linh Bảo. Ngòi bút của Linh Bảo thông minh sắc sảo, giễu cợt lật ra những mặt trái của cuộc sống, một cách tàn nhẫn với giọng nghịch ngợm tinh quái bất cần đời nhưng cũng thật là chua chát. Người phụ nữ trong tác phẩm Linh Bảo tuy cứng cỏi, chịu đựng nhưng vẫn luôn luôn là nạn nhân đáng thương của những hoàn cảnh.  
  
Nhìn xa hơn nữa, có thể nói qua các tác phẩm Linh Bảo rất sớm là ngòi bút đấu tranh cho nữ quyền.




LINH BẢO NHỮNG NGÀY SÀI GÒN   
   
Dù ở trong nước hay ở hải ngoại, Linh Bảo viết khá đều tay trong khoảng hai thập niên 1950s và 1970s. Cùng với Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo là một trong hai cây viết nữ chủ lực của tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, báo Tân Phong của Nguyễn Thị Vinh Trương Bảo Sơn, và tạp chí Bách Khoa của Lê Ngộ Châu và một số báo khác.

   

-tòa soạn Văn Hóa Ngày Nay 1958
(Từ trái qua)
-hàng ngồi: Linh Bảo, Quỳ Hương, Nguyễn Thị Vinh
-hàng sau: Bình-Nguyên Lộc, Duy Lam, Đỗ Đức Thu, Nhất Linh, Tường Hùng, Nguyễn Thành Vinh, Trương Bảo Sơn

-hình 4: [nguồn: tư liệu Nhật Tiến]

    
Sau Gió Bấc, tên tuổi Linh Bảo một thời sáng chói với các truyện ngắn truyện dài xuất hiện sau đó. Những Đêm MưaTầu Ngựa Cũ là hai tác phẩm văn học giá trị của nhà văn Linh Bảo.  
    
Tưởng cũng nên ghi lại đây nhận xét của nhà văn Bình Nguyên Lộc, một cây viết thuần Nam Bộ viết về Linh Bảo qua một thư riêng. [Hình 5]

    Sài Gòn 21/9/1958
   Chị Linh Bảo,
    Hôm nọ tôi có đến thăm chị nhưng chị đi vắng...
    Một điều sau đây tôi được biết, nói ra sợ chị không tin nhưng không thể không nói được: là rất nhiều bạn văn, bên phe không cọng, nói với tôi rằng các tiểu thuyết đăng ở Văn Hoá Ngày Nay chỉ có tiểu thuyết của Linh Bảo là hay. Họ không nói là hay hơn hết mà chỉ nói là hay thôi. Thế nghĩa là còn hơn là hay hơn hết nữa kia.
    Riêng tôi, tôi thấy chị hay hơn Gió Bấc nhiều lắm [Bình Nguyên Lộc muốn nói tới tiểu thuyết Những Đêm Mưa, đang đăng định kỳ trên Văn Hoá Ngày Nay, ghi chú của người viết] và giọng văn của chị đã rõ nét ra, một giọng văn mà ba mươi năm nữa chưa chắc đã có người làm theo được...
    Tôi ngạc nhiên lắm. Bề ngoài chị rất là đờn bà, nhưng sao văn chị như văn đờn ông thế. Đọc xong bốn kỳ Những Đêm Mưa, tôi ngán sợ chị ghê lắm, sợ cái tài quan sát nội tâm và ngoại cuộc của chị rất là bất ngờ, mà nhất là sợ cái cười bình thản của chị vô cùng. Sợ đây không phải là phục. Đành là phục rồi, khỏi phải nói, mà sợ bị chị quan sát và cười, mặc dầu chỉ cười thầm thôi...
Bình Nguyên Lộc

T.B. Xin mời chị có đi đâu ngoài nầy, ghé qua nhà tôi một bận. Tôi ở phố Võ Tánh, gần chợ Thái Bình. Buổi chiều tôi luôn luôn có nhà, trừ chiều thứ bảy và chiều chúa nhựt.   

Nhà văn Bình Nguyên Lộc đã mất năm ông 73 tuổi [1914-1987].







hình 5: phải, thư nhà văn Bình Nguyên Lộc gửi Linh Bảo trái, bìa tiểu thuyết Những Đêm Mưa [nguồn: tư liệu Linh Bảo]

    
Sau Nhất Linh và Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến cũng đã viết về Linh Bảo trên tạp chí Bách Khoa [số 161, năm 1962] như sau: "Trong số những người đàn bà viết văn ở ta hiện nay, có lẽ Linh Bảo có tài nhất: có tài quan sát, lại có tài diễn tả một cách thông minh những điều mình quan sát. Quan sát và phân tích tâm lý, Linh Bảo đã trình bầy được mỗi nhân vật với một hình dạng, một cá tính rõ ràng, một lối sinh sống và ăn nói riêng biệt... Linh Bảo thường hay tìm ra cơ hội để làm người đọc mỉm cười, dù là trong những trường hợp buồn thảm: nhà ngập lụt, vợ chồng giận nhau. Giữ được nét mặt tươi tắn cả trong khi buồn, đó là một lối làm đẹp rất khéo của đàn bà, nhất là đàn bà 'lịch sự': vì vậy mà cái cười do Linh Bảo gợi lên lắm lúc có chua chát, người đọc vẫn dễ có cảm tình với giọng văn của tác giả."
    
Rất tình cờ từ ba địa phương, cả ba tác giả Bắc Nam Trung đều có chung một nhận định: Linh Bảo là một cây bút có văn tài. Linh Bảo viết không nhiều, nhưng tác phẩm nào cũng đặc sắc. Chỉ có tiếc là từ hơn bốn chục năm qua, Linh Bảo hầu như không còn quan tâm tới chuyện viết lách và sáng tác thêm nữa.



TÀU NGỰA CŨ GIẢI VĂN CHƯƠNG 1961   
  
Tầu Ngựa Cũ được trao giải văn chương 1961. Năm đó có ba giải văn học, nhà xuất bản Ngày Nay chiếm hai giải: cuốn Thềm Hoang giải nhất truyện dài của Nhật Tiến, Tầu Ngựa Cũ tuyển tập truyện ngắn của Linh Bảo, Gìn Vàng Giữ Ngọc của Doãn Quốc Sỹ do Sáng Tạo xuất bản.  
    



hình 6: bìa tác phẩm Tầu Ngựa Cũ của Linh Bảo
Giải thưởng Văn chương 1961[nguồn: tư liệu Linh Bảo]
    
Tầu Ngựa Cũ là tuyển tập chín truyện ngắn của Linh Bảo đã đăng tải trên tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh và Tân Phong của Nguyễn Thị Vinh Trương Bảo Sơn. Tầu Ngựa Cũ được trao giải thưởng Văn chương 1961. Học giả Nghiêm Xuân Việt, Văn Bút Việt Nam "với thiện chí trao đổi văn hoá với ngoại quốc" đã chọn hai truyện Người Quân TửÁo Mới trong Tầu Ngựa Cũ dịch ra Anh ngữ với tên truyện The Noble ManOur Brand New Robes và gửi đi dự cuộc thi truyện ngắn do International PEN tổ chức 1961. Thành phần ban giám khảo gồm những tên tuổi như: Storm Jameson (Anh), André Maurois (Pháp), và Whit Burnett (Mỹ).  
    
Kết quả là cả hai truyện ngắn này được tuyển chọn vào chung kết trong số 26 truyện ngắn quốc tế hay nhất năm đó. Cũng thời gian đó Linh Bảo đang sống ở Luân Đôn. Hình như sau đó, hai truyện ngắn này được PEN Vietnam Centre dịch sang tiếng Pháp: L' homme noble, và Robles Nouvelles để in trong tuyển tập truyện ngắn của Văn Bút Việt Nam.
    
Tầu Ngựa Cũ là một truyện ngắn được lấy tên cho toàn tập truyện. Đó là  truyện tình nhẹ nhàng cảm động. Kỳ trong một chuyến tàu đi suốt từ Huế vào Sài Gòn, anh ao ước có một người bạn đồng hành để có thể truyện trò. Rất tình cờ từ một ga xép, một thiếu nữ lên tàu ngồi bên cạnh Kỳ. Với nốt ruồi đỏ như son trên cổ tay thiếu nữ, Kỳ bỗng nhận ra Thơ người bạn gái xa cách từ lâu, thuở hai người rất yêu nhau. Họ nhận ra nhau và hạnh phúc được ngồi bên nhau trong những kỷ niệm hồi tưởng. Nhưng khi con tàu ghé Nha Trang thì người vợ của Kỳ xuất hiện. Cô gái lặng lẽ bước xuống tàu, không nói một lời chia tay. Tất cả thoáng diễn ra như một giấc mơ. Kỳ trở lại cuộc sống thực tế với một người đàn bà ngồi bên cạnh là vợ chàng. Kỳ có cảm giác mình như một con ngựa đã thuần hoá và từ nay chỉ có một con đường trở về như con ngựa trở về tầu ngựa cũ.  
    
Người Quân Tử là câu chuyện của một cô gái trẻ đẹp tên Dung, đang làm cho một hãng hàng không, sống độc lập bỗng dưng rơi vào nghịch cảnh trong vòng kiềm toả của một người đàn ông đã có vợ nhưng nhiều thủ đoạn, nham hiểm và cả bạo hành; hắn đã biến Dung thành cô "thư ký vạn năng" cùng lúc đóng nhiều vai người tình, người vợ không bao giờ cưới vẫn phải đẻ con lấy họ mẹ, Dung được người đàn ông ấy đối xử như người đầy tớ gái nhưng vẫn nhồi sọ Dung rằng chính hắn mới là kẻ gia ơn và bao bọc, hắn là người quân tử đến mức chính Dung cũng tin là như vậy và khuất phục cam chịu.




hình 7: Giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương, Tập 6 có đăng truyện ngắn Người Quân Tử của Linh Bảo, là một trong hai truyện ngắn được Văn Bút Thế Giới tuyển chọn vào chung kết trong số 26 truyện ngắn quốc tế hay nhất năm 1961 [nguồn: tư liệu Linh Bảo]

Áo Mới với bối cảnh một gia đình của một thời vang bóng nơi kinh đô Huế cổ xưa của một triều đại phong kiến đang suy tàn. Truyện kể về sự tích một chiếc áo do mẹ vua ban mà bà mẹ đem về cho các con. Do gốc tích cao sang chiếc áo được giữ gìn chuyền qua tay những đứa con từ lớn xuống bé và chỉ được dùng trong những dịp giỗ tết nhưng khi đến phiên Hoa đứa con gái nhỏ nhất vì qua thời gian chiếc áo ấy đã bị mục nát. Hoa đã khóc trong ngày Tết năm đó vì không được mặc chiếc áo mơ ước, để rồi sau này lớn lên cô gái đi làm có tiền có thể mua sắm bao nhiêu chiếc áo mới nhưng lúc đó đã mất mẹ nên cô gái chẳng còn thấy đâu niềm vui để khoác lên những chiếc áo mới ấy.
    
Gió Bấc  (1953) là truyện dài đầu tay của Linh Bảo, nhưng Những Đêm Mưa (1961) và Tầu Ngựa Cũ (1961) là hai tác phẩm biểu lộ hết tài năng của Linh Bảo.
    
Tài năng và cơ hội, Linh Bảo đã có cả hai. Sau này Linh Bảo tâm sự là nếu không có buổi gặp gỡ với nhà văn Nguyễn Thị Vinh thì bản thảo Gió Bấc sẽ chẳng thể đến tay nhà văn Nhất Linh và không chắc đã có một Linh Bảo sau này. Chính Nhất Linh đã khám phá ra tài năng của tác giả Gió Bấc và đồng thời tạo cơ hội cho Linh Bảo đi những bước tiếp theo vững vàng trên con đường văn nghiệp.



NHỮNG NGÀY MONTEREY
    
Năm 1972, tôi đi tu nghiệp ở Mỹ về ngành Y khoa Phục hồi / Rehabilitation Medicine tại quân y viện Letterman General Hospital, Presidio San Francisco. Trước khi đi, anh Lê Ngộ Châu đã dặn dò: "Anh Vinh sang đó phải tới thăm cho được chị Linh Bảo" cùng với một bức thư tay như một cái cớ để tôi có nhiệm vụ trao lại cho chị.
    
Một buổi sáng thứ Bảy cuối tuần, do có hẹn trước qua phone, chị Linh Bảo lái xe đến đón tôi tại một trạm xe bus Greyhound. Đã gặp chị ở Sài Gòn, nên không có chút gì ngỡ ngàng khi gặp lại nhưng lần này là trên đất Mỹ. Chị Linh Bảo lúc đó đang ở tuổi 46 có lẽ là thời gian đẹp nhất của chị. Linh Bảo có nét cứng cỏi khoẻ mạnh của một phụ nữ Tây phương nhưng vẫn giữ được nét đẹp hiền dịu Đông phương. Sáng hôm đó, cùng với chị đi thăm biển Monterey một ngày nắng đẹp, trời trong xanh, bãi biển với những thảm hoa đỏ rực, thấp thoáng nóc mấy nhà thờ cổ theo lối kiến trúc Tây Ban Nha. Đến buổi trưa mới về đến nhà, nhà chị trên một lưng đồi, tại đây tôi được gặp "ông Linh Bảo", là giáo sư Đại học Berkeley về sinh thái học/ ecology, cũng là lãnh vực mà tôi quan tâm. Được biết anh chị cũng vừa đi dự một hội nghị của American Institute of Biological Sciences ở Đại học Vermont từ miền Đông về.  Ông ấy rất yêu thiên nhiên và quan tâm bảo vệ sự nguyên vẹn của các hệ sinh thái trên hành tinh này. Vẫn mơ một giấc mơ không thể được / impossible dream, ông được Linh Bảo gọi đùa là mad scientist; nhưng với tôi, ông mang tất cả vẻ đẹp trí tuệ của giới trí thức đại học Mỹ. Cao nguyên Tây Tạng luôn luôn được ông nhắc tới, là vùng ông quan tâm và chuẩn bị một fieldtrip tới đó nghiên cứu [đó là một xứ tuyết Tây Tạng của năm 1972 cách đây 43 năm, chưa bị Trung Quốc tàn phá đến tan hoang như bây giờ, ghi chú của người viết].









hình 8a,b: Ngô Thế Vinh tới thăm nhà văn Linh Bảo
Monterey, California 1972 [photo by Adams, L.]
     
Về tới nhà, chị Linh Bảo quấn ngay tấm tablier vào bếp chăm sóc bữa ăn trưa cho ba người. Trong bận rộn nhưng không có vẻ gì tất bật, chị vẫn tươi cười ra vào hiện diện. Bữa ăn dọn ra đơn giản như một thứ fusion-cuisine nửa Việt nửa Mỹ, có món thịt nhưng không thiếu phần rau đậu, rất ngon miệng và giữa chủ và khách đã có ngay được mối thân tình.
    
Hai người đàn ông thì vẫn đằm mình trong những câu chuyện môi sinh mà chị Linh Bảo thì rất ít tham gia; sau bữa ăn bên ly cà phê, nghĩ rằng cũng đủ thân để chia xẻ chút riêng tư, với một chút hài hước "ông Linh Bảo" chuyển sang một câu chuyện khác, ông nói về kinh nghiệm khi cưới một người vợ Á Đông, khởi từ ý niệm về một phụ nữ hiền thục và tuân phục, rồi ông dí dỏm đưa ra nhận xét: "nhưng khi lấy Linh Bảo rồi, thì mới thấy họ là những người đàn bà có bàn tay sắt bọc nhung/ an iron hand in a velvet glove." Cả ba chúng tôi đều bật cười, nhưng cảm tưởng của khách viếng thăm là "ông Linh Bảo" đang sống những ngày rất hạnh phúc trong bàn tay sắt kìm kẹp ấy.
    
Buổi chiều, cả ba chúng tôi cùng đi thăm trường Defense Language Institute, Monterey, California, rất lớn nơi đây giảng dậy hơn ba chục ngôn ngữ trong đó có Việt ngữ, cho những người Mỹ trước khi tung họ đi các quốc gia trên khắp thế giới. Tới thăm một khu chăm sóc trẻ thương tật là nơi chị Linh Bảo tới làm thiện nguyện/ volunteer những ngày cuối tuần. Sau đó đi thăm một vòng bên trong thành phố Monterey, cho mãi tới sẩm chiều trước khi anh chị đưa tôi ra trạm Greyhound về lại San Francisco.
    
Trở về Việt Nam, ít lâu sau đó tôi nhận được thư chị Linh Bảo viết ngày 23-01-1973 gửi qua toà soạn Bách Khoa, chị viết: "Được thư và sách của anh, tôi mừng quá vì cứ tưởng anh đã bị ai bỏ bùa ngải quyến rũ đi Canada mất rồi. Anh có cách gì để tôi có thể mua số sách của anh cho sinh viên của tôi đọc được không? Đọc Vòng Đai Xanh tôi thích lắm vì đúng loại sách tôi đang muốn đọc để hiểu. Tại sao anh không nói chuyện về cô Như Nguyện của anh cho tôi nghe? Cô ấy chắc là tu nhiều kiếp rồi phải không? [Như Nguyện là nhân vật nữ trong Vòng Đai Xanh, ghi chú của người viết]. Tôi muốn về thăm nhà một chuyến... Monterey vừa rồi có tuyết, đó là chuyện mấy chục năm chưa từng có..." Linh Bảo.



LINH BẢO LITTLE SAIGON 1991  
   
Sau những năm đèn sách "cải tạo" từ New York trở về California, tôi mới có dịp gặp lại chị Linh Bảo. Lần này qua một người bạn chung là chị Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang, chị Nha Trang một Ph.D. của Đại học Berkeley có thời gian ở với chị Linh Bảo, để hoàn tất tác phẩm Women's Writers of South Vietnam 1954- 1975. Chị Nha Trang và chồng William L. Pensinger là hai dịch giả cuốn Vòng Đai Xanh của tôi về sau này. [The Green Belt, Ivy House 2004].



hình 9: nhà văn Linh Bảo đang nặn tượng Mẹ trong xưởng tranh tượng
của một đại học California [nguồn: tư liệu Linh Bảo]
    
Sau 1975, Linh Bảo hầu như hoàn toàn không viết và chị cũng chẳng mấy quan tâm tới những tác phẩm đã tạo nên văn nghiệp của mình. Linh Bảo thì lúc nào cũng vẫn như Một Cánh Diều sống lưu lạc ngoài Việt Nam, nhưng lòng thì vẫn khắc khoải hướng về quê nhà.
     
Linh Bảo đã ví thân phận những người Việt tha hương như những cánh diều, chỉ vì một cơn cuồng phong, cơn bão thời đại đã thổi bạt họ đi khắp mọi nơi trên thế giới:
    "Trời đang xanh biếc, những đám mây nhẹ như tơ, trắng như tuyết, đang theo làn gió bay lang thang, vương vấn làm quen với bọn diều thì bỗng dưng có một trận gió lạ cuồn cuộn thổi đến. Bọn diều băng băng vượt mây lên thật cao: một số lớn bị đứt dây, và một số khác bị tuột. Cánh diều ngũ sắc không còn bị kiềm chế, tự do bay vùn vụt. Chúng như những chấm nhỏ li ti in trên nền trời xanh biếc. Gió thổi chúng lên núi, ra bể, đến thành thị, về thôn quê, gió thổi bạt chúng đi khắp mọi nơi...
    Những cánh diều là những bọn người tha hương, một số đã bị đứt dây, đã thành mồ côi, đã mất liên lạc với quê hương, đã không còn một ai thân mến nữa... Một số bất đắc dĩ, hay tự nguyện làm cho mất gốc. Cảnh mất gốc này có người đau khổ mà chịu, có người tự tạo ra, cũng có người lấy làm hãnh diện về sự mất gốc của mình và cố tranh đấu để xoá tan những tàn tích còn vương lại. Có người còn liên lạc với gia đình, với quê hương, nhưng liệu tình yêu gia đình và quê hương có mạnh hơn lòng tham thụ hưởng những sung sướng vật chất và an nhàn nơi xứ người...
    Lạy trời thổi ngọn gió hiền, ngày mai đưa những cánh diều tha hương trở về đất mẹ!"  Những Cánh Diều, tr.5-7, Nxb Trí Đăng Saigon 1971
    
Nhưng chừng nào mà Đất Mẹ vẫn còn một chế độ "Nhốt Gió - tên một tác phẩm của nhà văn Bình Nguyên Lộc" ngăn chặn những ngọn gió hiền Dân Chủ thổi về, thì vẫn còn hơn ba triệu cánh diều tha hương vẫn cứ khắc khoải với " Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa" như câu thơ của văn hào Nguyễn Du từ hơn 200 năm cũ.





hình 10: Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu thăm nhà văn Linh Bảo (1995) từ phải, Ngô Thế Vinh, Linh Bảo, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến. [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]

TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT 2015  
   
Không còn cảm hứng viết văn, Linh Bảo có thêm nhiều thú vui mới khác: theo học các lớp vẽ tranh nặn tượng, làm đồ men sứ, học in hình trên đĩa, làm vườn, tập Yoga và cả luyện võ. Điều ít ai biết, nhà văn nữ Linh Bảo giỏi võ nghệ đã có huyền đai từ một võ đường của Bảo Truyền.
    
Linh Bảo hiện sống trong một ngôi nhà nhỏ nơi Thị trấn Giữa đường / Midway City, có vườn cây trái phía sau, một hồ cá Koi. Cùng sống trong ngôi nhà ấy là ba thế hệ cũng là ba thế giới: Linh Bảo, con gái và một cháu ngoại nay cũng tới cái tuổi tam thập nhi lập.

Nhà văn Linh Bảo sắp bước vào tuổi 90 [chị sinh sau nhà văn Nguyễn Thị Vinh hai năm, chỉ sau nhà văn Võ Phiến có 6 tháng - 20 tháng 10, 1925], chị còn minh mẫn, vẫn với giọng nói của Linh Bảo ngày nào, đọc sách không cần kính, lưng vẫn thẳng, dáng đi vững vàng, chị còn sinh hoạt độc lập.   





hình 11: Mây Tần, Tuyển tập đoản văn của Linh Bảo, do Nxb Việt Nam Hải Ngoại California xuất bản 1981 [nguồn: tư liệu Ngô Thế Vinh]




    
hình 12: nhà văn Linh Bảo bước vào tuổi 90 [nguồn: tư liệu Linh Bảo]

Bài viết với cả chút riêng tư, như món quà sinh nhật sớm gửi tặng nhà văn Linh Bảo trước khi chị bước vào ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm.

NGÔ THẾ VINH





California, 4th of July 2015 - 2017
[trích Tuyển Tập Chân Dung, sắp xuất bản]


































truyện ngắn đặc sắc Linh Bảo

Áo mới


... Không bao giờ gặp lại. Nhưng bà cũng không bao giờ quên an ủi họ, khéo léo nói úp mở cho họ biết, ngày 'Hoàng đế hồi loan'; bà sẽ đền ơn trả nghĩa. Không biết mẹ tôi có bị bà mê hoặc không; mà, nếu có, thì chúng tôi, những ranh con; cũng không được quyền can thiệp.

Tôi còn nhớ; 4 chị em tôi có 4 chiếc kiềng vàng, một thứ nữ trang đa dụng, vừa đeo cổ cho đẹp, vừa để dành làm của, làm vốn; và, nếu cần tiền có thể cầm bán tạm thời qua cơn túng ngặt. Bốn chiếc kiềng lịch sử ấy có một con đường đi bất di bất dịch. 

Từ nhà tôi đến nhà bà Bộ, một bà nhà giàu chuyên cầm vàng bạc. Chúng nó đi 'lữ hành' như thế; ít nhất mỗi tháng vài lần. Mỗi khi mẹ tôi xoay được món tiền chuộc về; nằm trong tủ chưa được nóng chỗ, thì lại có lệnh 'Ngài ban vay'. Và như thế, bốn chiếc kiềng bé bỏng của chúng tôi lại đến nhà bà Bộ tạm trú. Bốn chiếc kiềng vàng đi con đường vòng độc nhất; còn số tiền cầm đồ nhận được; thì đi con đường độc đạo một chiều -- và, là một con đường cụt. Nó từ túi bà Bộ sang túi mẹ tôi, rồi nhảy sang túi 'Ngài'; để rồi bị thủ tiêu mất tích trong chiếu bạc; không còn một chút dấu vết gì để lại với đời. 

Đã thế, thỉnh thoảng 'Ngài' lại 'ngự' đến 'tệ xá'; quả thực là quá tệ. Nó chỉ là một gian nhà bé nhỏ, nằm lọt vào một vùng đất trống; xưa kia là một bãi tha ma lớn, cách xa thành phố đúng 3 cậy số.

Cha mẹ tôi sở dĩ chọn nơi xa xôi như thế để xây biệt thự; vì, theo lời bác sĩ khuyên, ba tôi yếu phổi cần phải thở không khí có gió thông trong lành, rất cần cho sức khỏe. Ấy thế mà trong 'tệ xá' có rất nhiều đồ cổ quý giá. Những món ấy toàn là của các Công nương, Mệnh phụ gửi; nhờ cầm hay bán hộ. 'Giấy rách phải giữ lấy lề', nên dù ngày mai không còn gạo để nấu cháo loãng; họ cũng vẫn giữ bí mật, không bao giờ dám ra mặt tự cầm bán đồ vật. Họ vẫn còn làm điệu bộ rất kênh kiệu, quí phái, cao sang; cả đến khi cần 2 xu để ăn quà sáng.

- Đưa đây cho mệ 2 xu, Mệ 'chém' một củ khoai chơi nà!

Tuy cảnh tùng của họ đã trầm trọng đến thế, mà bệnh 'khẩu khí' vẫn không hề thuyên giảm -- và, các Mệ thấy cuộc sống vẫn không bớt phần hấp dẫn, thú vị tí nào. 'Mệ' là tiếng xưng hô một bà cụ rất già; hay, những người trong hoàng tộc, không phân biệt già, trẻ, nam hay nữ.

Đường đến nhà tôi, 2 bên trồng toàn thông xanh; và, phải lên 2 con dốc rất cào. Thỉnh thoảng người ta lại thấy từ dưới dốc đằng xa, có một chiếc xe kéo sơn son thiếp vàng; một chú lính mặc áo đỏ, chân quấn xa-cạp vàng, đầu đội nón chóp; ì ạch kéo xe lên dốc. Sau xe, có 2 cô bé con; độ 14, 15 tuổi, mặc áo hỏa hoàng, đầu chít khăn đồng màu, tóc xoã ngang vai. Một cô cầm chiếc hộp trầu và cái ống nhỏ bằng bạc; một cô tay cầm chiếc quạt lông, lẽo đẽo chạy theo sau xe. Thỉnh thoảng, cô bé cầm quạt cố chạy lên ngang hàng với chiếc xe; giơ chiếc quạt lông lên, phẩy nhẹ một cái vào trong xe, rồi lại tụt xuống dần xuống đằng sau.

Ấy thế mà, bọn họ từ Cung Cấm trong thành nội ra tận Nam giao, ngót 4, 5 cây số; để đến 'tệ xá' đấy.

Sau khi đến nơi, 'Ngài' chễm chệ leo lên chiếc sập cẩn xà-cừ, đặt ngay chính giữa nhà; 2 thể nữ đứng hầu 2 bên, kẻ pha trà, người quạt hầu. 'Ngài' lần lượt ngắm nghía, thưởng thức các đồ vật trong' tệ xá'; và, cố nhiên khi 'Ngài ngự lên chiếc xe nhà, sơn son thếp vàng; có 2 thể nữ chạy theo hầu ấy.

Trước khi bước chân lên xe, thế nào 'Ngài' cũng 'ban truyền':

- Chị Tham tính tất cả tiền những cái ché và độc bình này đi. Cả cái Táo lung Cây vàng lá ngọc kia nữa; rồi ta sẽ trả tiền cho. Còn cái sập cẩn này, chị cho ta mượn; mai, ta sai thị vệ ra chở.

Mẹ tôi chỉ biết 'Dạ' mà nuốt lệ. Bởi vì mẹ tôi biết, đồ vật cũng như người; khi đã được 'tiến cung'; thì chỉ còn đợi chết! Mặc dầu được sủng ái, số phận đồ vật còn đen tối hơn Cung phi, Mỹ nữ không được sủng ái. Các cung nhân khi về già, còn được thải hồi nguyên quán; trái lại, những món đồ cổ, càng già càng qúi thêm; càng không mong gì được trả về với cố chủ. 

Cứ mỗi khi như thế, ba tôi lại lẩm bẩm: " Thấy Vua, rõ thật là 'thua vấy!" Cuộc đời cứ thế trôi qua. Ba tôi ngày ngày đi làm. Mẹ tôi giới thiệu việc mua bán đồ cổ; và, ghép ảnh cho quí Bà cô đơn. Tiền kiếm được, dùng để nuôi chúng tôi một số rất nhỏ; còn phần lớn để nuôi' Ngài'.

Một hôm, chắc lương tâm' Ngài' thức dậy, hay là 'Ngài' sợ nợ mẹ tôi nhiều quá; nếu kiếp này không trả bớt, đến kiếp sau sẽ thành ra 'nợ thiên khối'; vốn + thêm lời lãi chồng chất lên nhau, thì nguy to; 'Ngài' bèn long trọng
'tuyên dương công trạng' một hồi; rồi, 'thân tặng' cho mẹ tôi một chiếc áo cũ của ông Vua con.

Đó là chiếc áo the đen, bên trong lót một lớp hàng mỏng màu vàng. Chiếc áo còn thơm nức mùi xạ hương và long não ướp lâu ngày. Mẹ tôi đem chiếc áo về, vênh vang như một kẻ 'áo gấm về làng'. Sự sung sướng của mẹ tôi, được cái 'Áo Vua ban' ấy; cũng giống như tâm trạng người cung phi trinh nữ, được tấm ảnh ghép ngồi chung với đức Vua. Cả 2 cùng muốn chung với đức Vua. Cả 2 cùng muốn mang cái ảo ảnh hão huyền kia; để thỏa mãn lòng tự ái; lừa mình, lừa người, cho đỡ cơn ghiền!

Chiếc áo về phần chị cả tôi. Mỗi năm vài lần, trong những ngày kỵ giỗ, lễ Tết; cái 'Áo Vua ban' ấy được trân trọng 'trình bày' trên thân hình bé nhỏ của chị tôi một vài giờ; rồi lại được trân trọng xếp vào rương, chờ dịp khác. Năm tháng qua, mới đầu chị tôi mặc chiếc áo còn rộng thùng thình; rồi chật dần, ngắn dần, cho đến khi mặc không vừa nữa; phải cho chị Hai tôi thay thế. Từ chị Cả đến chị Hai, anh Ba, anh Tư, anh Năm; rồi đến chị Sáu, chiếc áo không phân biệt giới tính ấy; mỗi năm lại có dịp đem ra hóng gió một vài lần. Năm lại năm, chờ mãi rồi cũng có ngày đến lượt tôi được xỏ tay. Hôm Tết, mẹ tôi mang chiếc áo lịch sử quí giá ấy ra để mặc cho tôi; và, bảo:

" Hoa ơi, cái áo này bây giờ về phần con." 

thì nó đã mục nát; chỉ động đến là rã tan ra từng mảnh!

Thời gian chờ đợi dù lâu bao nhiêu, rồi cũng phải đến; Đông Cung Hoàng thái Tử ở Pháp học thành tài trở về nước, để được tấn phong chính thức làm Vua. Và, cũng từ lúc ấy; 'Ngài Mẫu Hậu' ra lệnh không tiếp tất cả các chủ nợ. Bây giờ,'Ngài' đã thành ra một bậc cao sang nhất, không thể có chủ nợ; và, lại càng không muốn gặp người nào từng quen biết 'Ngài' những năm tháng hàn vi. Thật là chí lý, chí tình vậy ! Còn gì khó chịu hơn [đối với] một kẻ ở địa vị cao sang; mà, ngày ngày phải trông thấy những chủ nợ ngày xưa, đám người mình từng nhờ vả, năn nỉ, kêu than túng thiếu; những kẽ đã phải cầm bán, vay mượn cho mình tiêu xài. Đó là một dĩ vãng buồn, một sỉ nhục tinh thần; có thể làm mất bớt uy nghiêm nhiều lắm.

Tết năm ấy, tôi không được mặc chiếc áo, đã bao nhiêu năm chờ đợi để đi mừng tuổi; nên, tôi khóc mùi, khóc mẫn cả buổi sáng. Tôi tưởng tôi khóc, vì khi chiếc áo quí đến phần mình; thì, hóa ra một mớ giẻ vụn, tả tơi, rách nát; nhưng, thật ra tôi đã khóc cho cái ảo ảnh 'ân trả nghĩa đền' của mẹ tôi bị tan vỡ. Tôi khóc cho cái chết của chiếc áo; đổi bằng tất cả tài sản mẹ tôi dành dụm được. Tôi khóc cho nền móng tương lai của một đám trẻ thơ, đáng lẽ được dùng của cải ấy; để bồi đắp cho thể chất, và tinh thần.

Những năm sau đó, gia đình tôi càng ngày càng khá hơn. Có lẽ vì; không phải cung phụng cho ai khác, ngoài gia đình -- nên lần lần trong mâm cơm gia đình, đã bắt đấu có nhiều món cá, thịt ngon lành. Ba tôi cũng vui vẻ giảng giài cho chúng tôi biết về những thức ăn bổ dưỡng, cần thiết cho sức khỏe; một đề tài trước kia ông cố tránh.

Một hôm, không hiểu vì sao, mẹ tội bỗng nhiên 'phát bi từ tâm'; may cho chị Sáu, em Tám, em Chín, mỗi đứa một cái áo xa-tanh màu phấn hồng. Xấp hàng này có người tặng cho mẹ tôi, trong dịp ăn lễ đầy tháng em thứ 11. Chúng tôi mừng rỡ trông đợi ngày trọng đại, ngày được mặc chiếc áo hồng lộng lẫy, sặc sỡ, bóng loáng, mát rời rời -- và, rộng thùng thình như áo tế ấy; thì bỗng dưng ông nội tôi chết. Tôi thấy cha mẹ tôi khóc, anh chị tôi khóc; tôi cũng khóc. Nhưng thực ra, tôi không nhớ được đã thấy mặt ông nội tôi hồi nào. Tôi khóc là khóc cho 4 chiếc áo xa-tanh hồng tươi rực rỡ; chưa từng được diện qua một lần, vì phải để tang; đã bị mẹ tôi ngâm vào nước thuốc nhuộm răng. Chúng nó biến thành một màu kỳ lạ; không vàng, không lục, không xanh. Màu ấy, ba tôi gọi mỉa mai một cách văn chương, là 'màu dưa cải úa mùa thu'. Nếu bây giờ bảo tôi đặt tên lại; thì, tôi sẽ gọi là 'một bức tranh tập thể' may thành áo. Từng vệt, từng đám; ngang dọc chồng chất lên nhau, níu kéo nhau chằng chịt. Cái áo nhuộm như thế đấy; mà, chúng tôi vẫn phải khen, cho mẹ tôi bằng lòng. Bởi vì đã có luật định rằng, một khi 'đấng sinh thành' đã quyết định; thì con cái phải vui vẻ 'Dạ, Vâng'; mới có hiếu. Phần các bậc trưởng thượng, thấy con vui; cũng tưởng thiệt, mà vui theo một cách dễ dàng. Chúng tôi phải chịu đựng cái xấu xí của áo; và, áo cũng phải cố chịu đựng sự tàn nhẫn vùi dập của bọn trẻ con. Chúng tôi mặc nó lúc nằm lăn đùa nghịch dưới đất; mặc suốt ngày đêm, vò nát nó; ném nó từ góc này sang góc khác. Đôi khi còn cắn nát chéo áo; để xem cái mùi chua chua, có phải thật chỉ là thuốc nhuộm chua, như mùi dưa cải úa; hay, còn lẫn mùi gì khác nữa không.,

Thật ra, số phận của những chiếc áo ấy cũng đáng thương như chúng tôi. Tâm hồn chúng tôi sớm đả bị nhuộm thành một màu 'dưa cải úa lá mùa thu'; hay, cũng chỉ là một 'bức tranh lập thể' chồng chất những niềm đau khổ bé thơ, đã ai hơn ai đâu! Thế mà; chúng tôi nỡ dẳn vặt chúng nó, cho đến khi rách nát; và, cùng lúc ấy, tang ông nội tôi cũng vừa mãn.

Một bà bạn ở Saigon gửi tặng mẹ tôi một xấp hàng xa-tanh hồng khác. Mẹ tôi ngại màu sắc quá sặc sỡ, lộng lẫy; không hợp với người lớn tuổi, nên may cho 4 chúng tôi. Bốn chiếc 'áo tế' vừa dài, vừa rộng; may xong được cất kỹ, đợi 'ngày lành tháng tốt' mới đem ra diện. Thỉnh thoảng tôi lén mở rương, vuốt ve cái áo một lúc. Tôi nâng nó lên, áp chất mịn màng mát rời rợi lên cằm, lên má. Tôi ướm nó vào người, hít cái mùi thơm long não ướp trừ sâu mọt; và, mùi xạ hương từ trong áo toát ra một cách say sưa. Nhưng cái 'ngày lành tháng tốt' ấy không bao giờ đến; vì, bỗng nhiên chú tôi mất . Kế ra thì nó chỉ là một cái tang nhỏ thôi; nhưng mẹ cũng bắt
chúng tôi để tang. Và một lần nữa, chúng tôi khóc cho chiếc áo đẹp; lại phải nhuộm thành một màu lem luốc không tên!

Ba tôi lúc ấy đã bắt đầu rảo bước trên con đường trải toàn thẻ ngà. Ông chuyển đổi ngành công chức với chánh phủ Bảo hộ sang ngạch Nam triều; nôm na gọi là làm quan. Mẹ tôi không còn phải đi giới thiệu mua bán đồ cổ; và, cũng không phải chụp ảnh cho ai nữa.

Chúng tôi, mỗi người được sắm một con heo đất; để dành tiền. Nhưng, những con heo ấy; hàng năm đều phải đập ra, vì mẹ tôi mở cuộc 'lạc quyên'; để may áo quần cho bọn con trai, trước ngay tựu trường. Cảm thông những nỗi khó khăn của các anh, khi cần thiết; chúng tôi lúc nào cũng vui lòng 'quyên'. Mẹ tôi bảo, đấy cũng là làm việc nghĩa; chẳng mất đi đâu mà thiệt; vi, mai đây các anh mặc ngắn, những chiếc áo ấy cũng sẽ đến phần chúng tôi. Khi những chiếc áo xa-tanh nhuộm mực lem luốc thứ hai 'quá cố' rồi; bọn con gái đã thành những cô gái dậy thì. 

Chúng tôi đã biết thẹn; nhưng khi ra đường vẫn cứ phải mặc những chiếc áo vải dù, vải ba-ga con trai đã bạc màu; và rộng mênh mộng như cả một trời đau khổ. Chúng tôi cố nằm nì xin mẹ may cho một cái áo mới cho ra hồn. Mẹ tôi bảo,

"Áo các anh mặc ngắn; thiếu gì! Còn tốt và bền lắm; may một lần cho cả bầy, nhiều tiền lắm, chứ tưởng ít sao? Ngày xưa, suốt đời mẹ chỉ có một chiếc áo vải. Còn các con đã có bao nhiêu cái áo đẹp rồi; nhớ không? 'Áo Vua ban' này, áo xa-tanh nhuộm màu dưa cải này ..."

Tôi nhắc:
- Dưa cải úa mùa Thu chứ.
- Ừ thì úa mùa Thu chứ! 
- Ừ , thì Thu Đông gì cũng được. Lại còn cái áo xa-tanh nhuộm màu mực này.

Tôi cải chính:
- Màu lem luốc chứ.
- Con Hoa thật nhiều chuyện! Mới may rồi, còn đòi gì nữa!

Em Tám nói:
- Dạ mới may 4 năm về trước!

Mẹ tôi mắng:
- Chúng mày rắc rối lắm, không biết hà tiện hà tặn; sau hết phước đi! Phải nhớ; hồi xưa mẹ chỉ có một cái áo, nên mới có ngày nay!

Em Chín tiếp:
- Nhưng mà mẹ quên mẹ là con ông Huyện, và mồ côi; còn chúng con là con một ông Tổng đốc đương thời!

Mẹ tôi giận dữ, quát lên:
- Ai dạy cho mày ăn nói giảm phước thế?
- Mẹ không thương chúng con. Mẹ chỉ thương chị Hồng. Mẹ nhớ chị Hồng mất ăn, mất ngủ. Mỗi khi chị Hồng tới xin tiền; là mẹ đập con heo của chúng con.

Mẹ tôi vội vã:
- Thôi thôi; để tôi may, các cô không cần phải kể con cà, con kê ...

Mẹ sợ chúng rôi phân bì với chị Hồng lắm. Mỗi tháng cô chị họ ấy tới thăm mẹ tội một lần; và, mỗi lần như thế, là cả nhà náo loạn cả lên. Nội một việc hầu hạ phục dịch chị; cũng đủ mệt phờ ra. Chị ăn tiêu rộng rãi, thưởng tiền cho người nhà rất hào phóng. Đối với chúng tôi, chị cũng 'thết đãi linh đình'. Nghĩa là: gọi cả một gánh bánh bèo; hay, bún bò vài nhà, thết mỗi người một tô. Chỉ có cái 'di hận' là chị chuyên môn đập Heo của chúng tôi. Ba cho chúng tôi mỗi đứa một ống tiền đặc biệt ; tiền thưởng nhiều ít, tùy theo học giỏi, trả bài thuộc; những bài học ông soạn riêng để dạy mỗi ngày. Tiền ấy được bỏ vào con heo bắng đất nung; mục đích để dành làm của hồi môn. Nhưng từ khi chị Hồng phát giác ra cấu chuyện ấy; thì, chị rủ mẹ cho chúng tôi hùn vào tiệm may may của chị. Mỗi tháng, chị đến đập heo của chúng tôi một lần. Mãi cho đến khi chị bán cửa tiệm đi lấy chồng; chúng tôi chẳng hề thấy chị thanh toán tiền nong hùn hạp gì cả, làm tôi cứ tưởng là cửa tiệm của chị ở nhằm hướng 'tán tài'; nên suốt báo nhiêu năm trời, chỉ chuyên môn thua lỗ. Và, cái tính không bao giờ thanh toán công nợ ấy; chị ấy vẫn giữ mãi suốt đời.

Mẹ tôi quả nhiên giữ lời hứa ; lấy một xấp hàng 'xa xị' màu vàng nhạt , để tận đáy rương ra; may áo cho chúng tôi. Bà gọi người lính ở trong dinh biết may cắt, dặn:
- May cho thật dài, rộng, mát mẻ; nghe không?
Vì chúng tôi đã lớn, đã biết sợ những chiếc áo rộng mênh mông; mặc vào, như bơi đứng trong ao; nên nghe thế, phải dặn với:
- Ừ, may cho dài ...
Và đứng sau lưng mẹ; lấy tay ra hiệu cho người thợ may chật.

Đến lúc áo may xong; mặc thử, thật là dở cười, dở khóc. Nó dài phết gót; và chật như bó chả. Chật đến nỗi, tay không co lại được. Người tôi cứ cứng ra như khúc gỗ, không cử động được trong chiếc áo đó. Chỉ mấy tháng, chiếc áo mới đã phải vá cùi tay; và, tiếp thêm nách. Nhưng dù vá víu xấu xí đến đâu; tôi cũng mặc đi nhiều nơi, nó vẫn còn hơn chiếc áo vải ba-ga đen cũ, bạc màu của bọn con trai chuyển lại. Tiếp theo chiếc áo đấu tranh ; mà có [được], là một chiếc áo 'vải cạt'. Gặp thời buổi chiến tranh Pháp Đức, mọi vật đều khan hiếm; mọi vật dụng đều khan hiếm, nên phải được phối cấp; hàng vải cũng thế. Chúng tôi được may một cái áo bằng thứ 'vải cạt' phối cấp, hoa lá cành chằng chịt; màu xanh, đỏ, tím vàng loạn xà ngầu, sặc sỡ, lòe loẹt; 'nhà quê' một cách không thể tả được -- mặc vào, rông như một tấm vải màn; hay, cái ghế nằm 'sofa' biết đi. Thế; nhưng tôi vẫn phớt tỉnh; coi như trên dời này, không có ai nhìn thấy mình cả.

Nhưng cũng từ đấy về sau; mẹ tôi chẳng cần phải may áo mới cho chúng tôi nữa -- vì chị Hồng thỉnh thoảng lại gởi về một ít quần áo cũ. Trong số ấy, y phục loạn xà ngầu ấy; có cái còn coi được. Chị Sáu chọn cái áo màu đỏ; tôi mặc vừa áo màu xanh. Hai chị em mỗi khi đi phố, đi chợ; đều diện 2 cái áo đẹp nhất của mình, mặc cho thiên hạ, bạn bè 'khen ngợi'. Nào là màu sắc chửi nhau; nào là 'người trong tranh', nào là bất chấp thời tiết 
v. v. ... Chúng tôi giữ vững lập trường 'mục trung vô nhân', không cần ai; và, cũng không cần biết đến cả Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Kể từ ngày mẹ giao tiền chợ cho chị Sáu giữ; để chị tập việc quán xuyến gia đình, chị không còn thắc mắc về vấn đề ăn diện, làm dáng nữa. Chị tự sắm những áo quần đẹp; nhưng cứ nói dối là của bạn bè, bà con ở xa gởi về cho; thành ra mẹ không la rầy được -- mà ,chúng tôi cũng không thể phân bì được. Tôi cầu mong cho chị cao lớn thêm; hay, béo ra một chút, để rơi rớt cho tôi vài cái. Nhưng rủi quá; người chị bé nhỏ, lùn, thấp hơn tôi nhiều; và, lòng dạ chị lại khá sắt đá, nên tôi không hề gạ gẫm gì được cả. 

Tôi biết rõ tính mẹ tôi, khi có tiền chỉ thích giúp đỡ người khác;dù người ấy tiêu dùng một cách phí phạm; còn mình và con cái , thì phải hết sức kham khổ. Bà luôn luôn nhắc câu, 'Người ăn thì còn, con ăn thì hết'. Thành ra khi trong nhà, món gì ngon lành; là bà đem đi biếu xén tất cả các nơi, bạn bè, bà con quen biết. Có lẽ, mẹ tôi muốn cái gì cũng còn vĩnh viễn; nên gặp ai áo rách, quần vá -- là bà cho một cách sung sướng. Tôi tin là , mẹ tôi trong cuộc sống; sau khi ba tôi hưu trí; bà không cần phải dự lễ tiếp tân; hay, thết đãi quan khách với ba tôi, thì bà chẳng cần giữ lại một cái áo nào ra hồn.

Sau này, lúc bị ném ra ngoài đời tranh đấu cho cuộc sống của mình; tôi vẫn giữ tính nết không cần ăn diện, đã tập được như thuở còn sống với mẹ; mặc dầu lý do nhiều phước hay giảm phước, tôi không hề quan tâm . Thời kỳ làm việc ở Hương cảng [Hongkong]; tôi cố dành dụm tiền; để cuối năm, mua gửi cho mẹ tôi 10 cái áo gấm Thượng hải. Tôi nghĩ rằng trong 10 cá iáo ấy; bà sẽ tha hồ cho, tặng, bán; hay gì gì đi nữa; nhiều lắm là 9 cái thôi, ít nhất cũng phải để lại một cái cho mình. Và được như thế, là tôi thỏa mãn rồi.

Ngày mẹ tôi bị bệnh trầm trọng; tôi phải xin nghỉ phép về sắn sóc, cũng không quên mang theo 10 áo gấm nữa cho mẹ tôi. Thế nhưng; lúc mẹ mất, tôi lục soát tủ áo để tìm đồ liệm theo; thì không thấy một chiếc áo nào, may bằng thứ gấm Thượng hải -- tôi gởi biếu mẹ hàng chục năm. Một người bạn trẻ nói với tôi: 

- Chị Hoa, cuộc đời chị thế là tàn rồi. Không còn hy vọng! Không còn tương lai! Không còn mơ gì được nữa hết!

Hừ, láo đến thế thì thôi! Hắn biết tôi thất bại về hôn nhân; tôi về nước vì Mẹ; mà về đến nơi, chẳng bao lâu thì mẹ mất-- đúng là một thất vọng lớn lao. Nhưng đâu đã đến nỗi không còn gì để mà mơ!

Sau khi chôn mẹ bên cạnh cha xong; tôi trở về [Hongkong] làm việc. Và từ bấy giờ; dù có thừa tiền để sắm nhiều quần áo đẹp; tôi cũng không còn hứng thú gì nữa; không làm sao còn cái cảm giác say mê nồng nàn như ngày xưa -- khi lén mở rương vuốt ve chiếc áo xa-tanh hồng đầu tiên, thuở 12. Tôi còn nhớ, sau ngày ông nội mất; ba tọi thường nhắc đi nhắc lại mãi:

- Khi con cái còn nhỏ dại; húng nó chưa đủ hiểu biết, nên hay oán trách cha mẹ cấm đoán điều này, điều nọ. Lúc lớn lên có gia đình; 'sinh con rồi mới hiểu lòng cha mẹ' -- lúc ấy muốn báo ân cho kẻ sinh dưỡng mình; thì, cơ hội đã không còn nữa! 

Ba tôi mỗi lần nói thế; bao giờ cũng không nén được 2 giọt nước mắt rưng rưng. Còn tôi, sau này mỗi lúc đi phố; nhìn những hàng gấm màu sắc u nhã, dệt Long, Phụng; hay chữ Phúc, chữ Thọ rất đẹp; tôi lại như người lên cơn say, cố mua cho bằng được. Nhưng sau khi mua rồi, mới ngẩn người ra; chợt nhớ mẹ mất rồi còn đâu, mua áo gấm để gởi cho ai!

Linh Bảo















“ Điếc tai là tại hướng đình,
Cả làng điếc hết chứ mình em đâu !”
(ca dao Việt Nam)

Ngày xưa, có một làng nọ không hiểu tại phong thủy, tại hướng đình hay vì một cớ địa lý gì khác mà cả làng đều điếc hết. Điếc từ ông Lý, ông Hương cho đến anh Mõ, điếc từ ông già bà lão, cho đến cô gái ngây thơ, anh nông phu trai tráng, tất cả đều điếc câm, điếc đặc, điếc chẳng chừa một ai.

Có một điều là không ai chịu nhận mình điếc. Nghe không hiểu họ cũng chẳng bao giờ hỏi lại, mà thực ra dù có nhắc đi nhắc lại đến hàng trăm lần họ cũng không nghe rõ hơn chút nào! Ai cũng muốn tỏ ra mình thông minh và thính tai nên bất cứ chuyện gì, họ chỉ nghe qua một lần rồi tùy hoàn cảnh và thái độ của người nói mà hiểu theo ý mình.

Một hôm có một người bị lạc mất ba con dê bèn hốt hoảng đi tìm. Lúc đi đến một thửa ruộng, trông thấy bác nông phu đang cày, người ấy lại gần chào và hỏi:

- Tôi có 3 con dê đi lạc, nếu bác có trông thấy làm ơn bảo cho tôi tìm. Thế nào tôi cũng đền ơn bác không dám quên.

Bác nông phu giật mình trả lời:

- Ông định hỏi làm gì mới được chứ. Thửa ruộng này từ đây cho tới cái đập nước đằng kia là của hương hỏa ông cha tôi để lại. Có giấy tờ rõ ràng.

Bác nông phu múa tay múa chân chỉ huyên thuyên, và chỉ mãi về phía đập nước đằng xa.

Người đánh mất dê đi đến cạnh đập nước và trông thấy đàn dê của mình đang ăn cỏ ở đấy. Thấy trong bầy dê có một con bị thương ở chân, người ấy bèn nghĩ thầm:

- Mình đem con dê này biếu cho bác nông phu để đền ơn bác ta mới được.

Người ấy đuổi đàn dê đến gần bác nông phu bảo:

- Này bác, cám ơn bác nhé. Nhờ bác tôi mới tìm lại được đàn dê chóng thế này. Đây tôi biếu bác con dê nhỏ này gọi là . . .

Nông phu trông thấy người ấy chỉ vào con dê bị thương bèn hoảng hốt:

- Ông này lại còn muốn gì nữa? Dê của ông tôi chẳng hề trông thấy bao giờ. Cả con dê què này cũng thế. Sao ông lại định vu oan cho tôi đánh què dê của ông.

Người chủ dê vẫn ôn tồn:

- Không, tôi không thể nào biếu bác mấy con dê lành được. Chỉ một con này cũng đã quá lắm rồi. Đáng lẽ chẳng cần phải biếu bác tí gì cũng chẳng sao mà.

Hai người cãi nhau và ai cũng cố làm cho người kia phải bằng lòng nghe theo lời mình. Cãi nhau mãi vẫn không xong bèn xoay ra đánh nhau. Họ đánh nhau ngay giữa đường nên lúc ấy có một người cưỡi ngựa đi qua, hai chàng bèn nắm chặt cổ áo nhau, kéo đến trước mặt người cưỡi ngựa nhờ người ấy phân xử.

Người chủ dê nói trước:

- Tôi bị lạc mất 3 con dê. Nhờ bác ấy chỉ giúp nên tôi tìm lại được. Tôi muốn đem con dê què này biếu bác ấy để đền ơn, nhưng bác ấy tham lam vô độ, lại còn đòi lấy nốt cả hai con dê lành. Tôi không chịu nên bác ấy đánh tôi.

Đến lượt bác nông phu nói:

- Tôi đang cày trong ruộng của tôi, ông này bỗng nhiên ở đâu chạy đến đòi tra hỏi đất nào là đất của tôi. Tôi bèn chỉ cho ông ta xem cái đập nước đằng kia là giới hạn đất của tôi, và thửa ruộng này là của ông cha tôi để lại. Ông ấy khám đất xong dắt 3 con dê này đến, vu cáo một cách vô lý rằng tôi đánh què dê của ông ta. Đã thế ông ta lại còn đánh tôi.

Người cưỡi ngựa hết nhìn người này, lại nhìn người kia chẳng biết nói gì.

Bác nông phu nắm chặt cương kềm cho ngựa đứng vững, có ý định giúp cho người ấy xuống ngựa dễ dàng, nhưng anh ta thấy thế hoảng hốt la lớn:

- Con ngựa này là của tôi. Lúc tôi mua về nó còn là một con ngựa con. Chính tay tôi đã chăm nuôi săn sóc nó cho đến bây giờ. Các ông định ăn cướp ngựa ban ngày ban mặt thế này sao?

Ba người dằng co một lúc và lại xoay ra đánh nhau. Đánh mãi mệt quá ba người bèn kéo nhau ra đình làng, nhờ ông Lý phân xử. Mỗi người lần lượt kể rõ lý do của mình. Ông Lý nghe xong nhìn kỹ từng người rồi bảo:

- Ừ được, chuyện cũng chẳng quan hệ gì lắm. Nếu các chú đều trông thấy rõ trăng đã tròn nghĩa là sắp đến đêm rằm, vậy ngày mai chúng ta sẽ làm lễ tế Đình như thường lệ.

Ba người tưởng rằng ông Lý hòa giải và bảo rằng nếu còn đánh nhau nữa thì sẽ phạt cả ba, bèn bỏ đi ai về nhà nấy.

Ông Lý thấy ba người đi rồi bèn đi tìm bà Lý bảo:

- Vừa rồi có ba người làng đến bảo rằng họ trông thấy trăng đã tròn rồi, vậy bà hãy sửa soạn chúng ta phải lo lễ vật tế đình.

Bà Lý đáp:

- Vâng, cám ơn ông. Nếu ông cho tôi một bộ quần áo mới để mặc Tết, thì tôi muốn tự đi chợ chọn hàng và màu tôi thích. Tôi không ngờ ông cũng nhớ rằng áo tôi rách hết cả rồi.

Bà Lý sung sướng được may áo mới, vội vàng về nhà gọi cô con gái lớn bảo:

- Cha con cho phép mẹ may một chiếc áo mới. Mẹ đã xin phép cha con lên chợ Huyện tự chọn hàng mẹ thích. Con có muốn đi chọn hàng với mẹ thì sửa soạn đi.

Cô con gái mừng quá trả lời:

- Thật không mẹ? Mẹ cũng biết đấy, con có còn là bé con nữa đâu! Con lớn đã lâu rồi mà. Nếu me bằng lòng cho đi lấy chồng thì sung sướng quá! Con thương mẹ quá!

Cô bé hí hửng sắp được lấy chồng, chạy ra vườn trông thấy vú già bèn ôm chầm lấy vú:

- Mẹ bằng lòng gã chồng cho tôi rồi vú ơi. Lễ cưới sẽ cử hành ngay lập tức.

Vú em cảm động khóc òa lên:

- Hu, hu, tôi ở với ông bà đã mấy chục năm nay rồi. Nhờ ơn Trời Phật xui khiến, ông bà cho tôi về quê thăm nhà, tôi cám ơn ông bà hết sức.

Câu chuyện tạm ngừng tại đây, nhưng sự thực chuyện của bọn họ không thể nào kể hết được. Chỉ biết rằng cho đến bây giờ bọn họ vẫn hiểu lầm, cãi nhau, đánh nhau và sẽ còn hiểu lầm nhau mãi mãi, vì chẳng ai chịu nhận mình điếc bao giờ! Chỉ có một sự tiến bộ trông thấy là vì thời buổi văn minh, nên họ cãi nhau bằng . . . tiếng ngoại quốc.

Linh Bảo



























Diệu Viên - Linh Bảo

nhạc: Mai Đức Vinh
l: Mỹ Ngọc
ca sĩ: Quang Minh




trích 1 phần từ blog phan nguyên

==============

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ