viết về tác giả lê xuân quang (berlin) [1942- ] / tranhuythuan -- www.tranhuythuan.wordpress.com /
tựa chính,'tác giả Nam Định: nhà văn Lê xuân Quang
www.tranhuythuan.wordpress.com
viết về tác giả lê xuân quang
blog tranhuythuan
lê xuân quang [1942- ]
lời chủ blog tranhuythuan: Tôi và Lê xuân Quang là đồng hương, đồng nghiệp và cả đồng thời nữa (anh và tôi chênh nhau có mấy tuổi), nhưng mỗi người sống và làm việc ở một địa bàn khác nhau (và ngày càng xa nhau: Tôi thì luôn luôn bám trụ quê hương Nam Định, còn Lê Xuân Quang nay đã ở tận nước Đức). Hoàn cảnh đưa chúng tôi quen nhau rồi gặp nhau là từ những bài viết của nhau trên MẠNG, bắt đầu là từ trang “VANCHUONGVIET.ORG”. Sau này thì được biết thêm, người anh trai của Lê xuân Quang – Lê xuân Đào là bạn đồng môn, cùng khóa trường Trung học Nguyễn Khuyến (Bến Củi) Nam Định với tôi.
Viết văn có lẽ chỉ là nghề tay trái của Lê xuân Quang, nhưng sức viết của anh thật đáng nể. Anh viết văn, làm thơ, viết biên khảo, viết kịch… Và nếu đọc những bức “CHÂN DUNG” do anh “vẽ” về các nhà văn nước ta, hẳn là không ai có thể nghĩ anh không chuyên nghiệp!
Trước khi tìm hiểu về “Lý lịch trích ngang” của Lê xuân Quang, mời quí vị đọc trên trang blog: http://lexuanquang.org/
----------------------------------------------------
----------------------------------------------------
ĐOÀN VĂN CỪ VỚI BÀI' TRĂNG HÈ',
MẢNH TRĂNG ĐẶC TRƯNG [của] MÙA HÈ VIỆT NAM
MẢNH TRĂNG ĐẶC TRƯNG [của] MÙA HÈ VIỆT NAM
lê xuân quang
Có nhiều nhà thơ cổ kim đất Việt đã để lại những bài thơ tuyệt vời viết về đồng quê, thiên nhiên, bốn mùa của quê hương Việt Nam. Nổi bật nhất có 4 người (thời tiền chiến 1930 – 1945) được dư luận hôm nay tôn vinh là’’Người thư kí thời đại đã lưu giữ hồn quê Việt trong thi ca của mình’’, đó là: Anh Thơ, Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân.
Trước hết giới thiệu nhà thơ Đoàn văn Cừ với bài thơ 'Trăng Hè'.
'Trăng Hè' có lịch sử khá’chuân chuyên’’. Đoàn văn Cừ [ĐVC] viết bài thơ này do cảm hứng bột phát nhân một đêm trăng… nhưng cảm xúc chưa thật đủ nhuần nhuyễn… Viết được 2 khổ thơ đầu (thơ thất ngôn), ông bỏ dở. Một lần người bạn học cùng lớp, cùng làng – Nguyễn văn Vịnh (1) đến chơi thấy bản thảo viết dở vất lẫn trong tập giấy bỏ, ông đọc khen chủ đề hay rồi khuyên bạn nên tiếp tục viết hết bài thơ này. ĐVC nghe và quyết tâm thực hiện lời góp ý của bạn…cuối cùng bài thơ ra đời.
Ngay sau đó 'Trăng Hè' được đăng tải trên báo 'Ngày Nay', nhiều báo thời đó đăng lại, rồi được tác gỉa đưa in trong tập thơ 'Thôn Ca' của mình. 'Thôn Ca' xuất bản năm 1940, gồm nhiều bài viết về đồng quê; sau cách mạng tháng 8, tái bản nhiều lần. 'Trăng Hè' được nhà biên khảo Hoài Thanh tuyển chọn đưa vào 'Thi Nhân Việt Nam' cùng tiểu luận viết về tác gỉa ĐVC, xuất bản năm 1941.
Ngay sau đó 'Trăng Hè' được đăng tải trên báo 'Ngày Nay', nhiều báo thời đó đăng lại, rồi được tác gỉa đưa in trong tập thơ 'Thôn Ca' của mình. 'Thôn Ca' xuất bản năm 1940, gồm nhiều bài viết về đồng quê; sau cách mạng tháng 8, tái bản nhiều lần. 'Trăng Hè' được nhà biên khảo Hoài Thanh tuyển chọn đưa vào 'Thi Nhân Việt Nam' cùng tiểu luận viết về tác gỉa ĐVC, xuất bản năm 1941.
Bài thơ tả cảnh một đêm mùa hè, khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch – Giữa tuần trăng, nắng ráo, ở làng quê nghèo, từ chập tối đến mờ sáng.
Toàn bài gồm 5 khổ, chia làm 5 đọan, thể thơ thất ngôn .
Mở đầu :
Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa
Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ
Bóng cây lơi lả bên hàng dậu
Đêm vắng người im cảnh lặng tờ. (2)
Người đọc mường tượng như đang đứng bên ngoài hàng rào của một ngôi nhà ở làng Đô Quan xã Nam Lợi thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định – Quê hương của cụ Đoàn. Cách đây hơn 60 năm, thôn quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng có rất ít nhà xây, nhà gỗ. Hầu hết là nhà lợp rạ, gianh, cột kèo tre, tường đắp đất hoặc vách đất. Đêm hè nóng nực, các bà, các mẹ chống nựng cho con cháu để chúng ngủ ngon – bằng cách truyền thống, phổ biến : ôm trẻ nằm trên võng.
Võng khi xưa (ngày nay ở miền quê vẫn dùng) – bện bằng vỏ cây Gai. Ngồi, nằm trên đưa đi đưa lại, tạo ra gió như phe phẩy quạt. Hai đầu của chiếc võng được buộc vào cột hoặc kèo nhà. Khi võng đưa, sợi chão nối võng với cột kèo, cọ sát nhau, phát ra tiếng kẽo kẹt… kẽo kẹt. (3).
Nhìn ra đầu hè con chó cứ nằm sủa ông ổng. Nó cứ sùa… sủa đều đều… cách quãng… sau mỗi lần ngẩng đầu sủa – lại cúi xuống, để mõm kê lên hai chân trước, nhắm mắt y như đang ngủ… mơ. Ta nhìn về phia trước – nơi con chó hướng mõm sủa – Chẳng có đối tượng nào quấy rầy hay xuất hiện cả. Hiện tượng này được dân gian ví là ”Chó cắn Ma”- nghĩa là cắn vật tàng hình – (Ma), sau trở thành câu ngạn ngữ ”Ông ổng như chó cắn ma” – chỉ những người vô duyên, say rượu… nói lung tung, nói lấy được mà không thèm biết có ai nghe, hưởng ứng!
Cũng từ hình ảnh này, nếu có người nào đi qua, con chó cũng vẫn cắn sủa như thế. Dân gian liền khái quát lên thành ngữ : Chó cứ sủa, Người cứ đi.
Bên cạnh hàng dậu ngăn nhà với đường làng, có bụi tre.
Những ngọn tre do làn gío nhẹ – chỉ có ở trên cao – thổi, làm đung đưa. Dưới ánh trăng sáng vằng vặc, ngọn tre kia in bóng xuống mặt đường, cứ như bóng người lơi lả… tha thướt…
Ta tiếp tục nhìn vào trong sân :
Ông lão nằm chơi ở giữa sân
Tàu cău lấp lánh ánh trăng ngân
Thằng cu đứng vịn bên thành chõng
Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân.
Từ trên ngọn cau, tầu lá non được ánh trăng rọi vào, khi gió thổi, lá lay động, hắt ra lóng lánh ánh bạc – như ta cầm chiếc gương hướng về phia nguồn sáng rồi rọi vào mắt người…
Nhà tranh, dân quê thường dùng đồ vật đơn sơ được chế tạo bằng tre, nứa. Chõng tre nhỏ hơn giường, thông dụng hơn ghế vì có thể vừa ngồi, vừa nằm, nhẹ, dễ di chuyển. Mùa hè nóng nực, cụ gìa sai con mang chõng ra sân nằm vắt chân chữ ngũ cùng thằng cháu lẫm chẫm biết đi – hóng mát, ngắm trăng. Trong khi cụ gìa thưởng thức trăng… cậu bé đang nằm trong lòng ông, thấy con mèo, vội tụt xuống men thành chõng… con mèo khẽ kêu meo… meo… đi tới, cọ người vào chân bé rồi lượn đi, quay lại… tạo ra cảnh ”quyện dứơi chân”. Chợt phía xa xa, nơi chiếc giếng khơi – chứa nước ăn cho cả xóm – có tiếng ồn ào, ta lia mắt nhìn ra:
Bên giếng, dăm cô gái xứ quê
Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về
Trên vai nặng chĩu đôi thùng nươc
Kĩu kịt đi vào lối cổng tre.
Thôn quê vùng các xã Nam Lợi, Nam Long, Nam Thanh – nhất là các làng Đô Quan, Xối Tây, Ngọc Tỉnh – thường rất nhiều ao hồ. Nước ao chỉ dùng để giặt giũ, rửa chân tay… Các làng, các xóm phải đào những chiếc giếng lấy nước sạch để ăn, đảm bảo vệ sinh. Ban ngày bà con đi làm đồng. Tối về, cơm nước xong các cô gái mới rảnh tay mang thùng ra giếng múc nước về đổ vào bể chứa. Từng đoàn vui vẻ rủ nhau về – nên những tiếng kĩu kịt phát ra từ chiếc đòn gánh – làm bằng tre'bánh tẻ' (chưa già lắm) – gánh đôi thùng nước, hòa cùng tiếng võng đưa kẽo kẹt làm đêm trường chợt xao động…
Thế nào là cổng tre ? Dân nghèo làm gì có tiền để làm cổng xây, cổng gỗ. Cổng nhà họ là những cậy tre đang sống ở trong bụi – trồng ở hai bên lối đi – được chủ nhà vít xuống, buộc, tạo thành hai trụ. Rồi cũng dùng ngay những cây tre khác đã chặt, ngâm, đan, ghép làm thành cánh cổng. Loại cổng tre này cánh thường không mở sang hai bên mà chống, nâng lên, hình dáng giống cánh của chiếc bẫy chuột. Ngày chống lên lấy lối ra vào. Đêm hạ xuống chốt giữ bên trong nhằm ngăn trộm… vặt. Tuy đứng ngoài vẫn nhìn thấy mọi thứ bên trong, nhưng muốn đột nhập vào cũng không dễ. Loại cổng này được nông thôn xử dụng từ xa xưa. Sau Toàn quốc Kháng chiến, cổng Tre lại được dân quê xứ dụng hữu hiệu trong phong trào rào làng kháng chiến chống Pháp, do Ủy ban Kháng chiến các đîa phương phát động…
Sự ồn ào do những chiếc đòn gánh gánh nước của các cô gái cũng nhanh chóng qua đi. Tiếng kẽo kẹt đưa võng cũng đã ngừng. Có lẽ cháu bé đã ngủ say, bà hoặc mẹ đã vực vào giường, và cái chính trời càng về khuya, nhiệt độ càng giảm. Không khí tĩnh mịch của đêm trường dần trở lại:
Trong xóm giờ lâu qúa nửa đêm
Tiếng chầy giã gạo đã ngừng im
Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi
Đom đóm bay qua giải nước đen.
Cả ngày đi làm đồng, tối về cơm nước xong nhiều nhà mới đổ thóc vào cối say, dần, sàng rồi đưa vào gĩa thành gạo, lấy cám – lớp vỏ gạo bị gĩa bong ra – cho lơn ăn. (4).
Thế mà đến quá nửa đêm, nhát bổ cuối cùng của chiếc chày giã gạo mới ngừng, trả lại sự tĩnh mịch hoàn toàn cho đêm trường. Lũ đom đóm lúc chập tối thường bay ra như kích thích con người. Các cô các cậu bé thi nhau đi bắt bỏ vào lọ ngắm nhìn. Khi trăng lên, đom đóm ít bay, ra y như chúng cũng né tránh, không dám đem chút sáng của mình thi với ánh trăng. Lúc Trăng tà hạ suông… chúng mới lại thi nhau bay là là trên mặt ao. Khi trăng lặn, mặt ao hồ chỉ còn là một khoảng không tối om, đen kịt… ánh lân tinh từ bụng những con đom đóm được mặt ao làm nền… dường như rực sáng , to hơn.
Bỗng:
Tiếng ốc trên chói rúc thiết tha,
Gió lay cót két rặng tre già,
Sao trời từng chiếc rơi thành lệ,
Sương khói bên đồng ủ bóng mơ.
(báo Ngày Nay)
Thời xa xưa, phương tiện báo động, đánh thức dân làng là chiêc Tù và làm bằng sừng trâu hoặc vỏ những con ốc biển lớn, do những Tuần đinh, trai tráng (thanh niên) được chức sắc của làng cắt cử canh gác đảm bảo an ninh cho làng xóm. Khi có động (trộm cướp, cháy nhà…) người gác ngoài việc đánh chiêng, trống,hò reo… họ còn thổi Tù và, vỏ ốc… chúng sẽ phát ra tiếng động vang xa, dân làng vùng dậy chống trả, cứu chữa… Nếu cả đêm bình yên, khỏang gần 5 giờ sáng người gác chỉ đưa chiếc vỏ ốc lên miệng thổi… tiếng ốc rúc – âm thanh như tiếng chuột rúc nhưng to, dài hơn nhiều. Tiếng rúc nghe chói tai… nhưng cả làng vẫn cảm thây quen thuộc, thiết tha, thanh bình. Mọi người bật dậy, chuẩn bị cho một ngày lao động mới.
Làng xóm râm ran…
Đã sắp sáng.
Khí hậu lạnh, gío thổi mạnh khiến những cây tre gìa lung lay, đu đưa cọ gốc vào nhau phát ra những tiếng cót két… Trên trời thỉnh thoảng lại vụt xuất hiện một ngôi sao sa, trông như những giọt lệ khổng lồ từ con mắt của người khổng lồ rơi xuông…
Cả đêm sương rơi, bao phủ làm cánh đồng chìm ngập trong khói sương…
Trời sáng.
Sương dần tan: Bức tranh thủy mạc được thiên nhiên vẽ đang hiện ra…
Phương đông ửng hồng: Mặt trời mọc!
Với 5 khổ thơ mà miêu tả được cảnh đêm hè thât sống động. Từ đầu đến cuối chỉ có mầu sắc và âm thanh :
Tiếng võng kẽo kẹt…
Tiếng chó sủa ông ổng…
Tiếng kĩu kịt của chiếc đòn gánh…
Tiếng thình thịch của chầy giã gạo…
Tiếng ốc rúc… rúc thiết tha…
Cuối cùng là tiếng cót két của những gốc cây tre gìa cọ vào nhau.
Nhà thơ dùng từ thât diệu nghệ :
Kẽo kẹt của võng đưa.
Kĩu kịt của đòn gánh và
Cót két của rặng tre già – ba hợp âm kẽo kẹt – kĩu kịt –cót két – tuy rất gần nhau, thậm chí có thể dùng liền làm từ đệm, nhưng ở đây trong từng đoạn thơ, 3 cụm âm thanh lại diễn tả 3 trạng thái hành động ở 3 nơi, 3 thời điểm khác xa nhau…
Màu sắc thì có:
Ánh trăng ngân…
Bóng đen của con mèo.
Ánh sáng cuả đàn đom đóm.
Mầu đen kịt của giải nước mặt ao hồ khi trăng đã lặn… ánh sao sa – giọt lệ khổng lồ… không gian mờ sương khoi…
Tất cả âm thanh, màu sắc đó cùng với lời thơ, nhịp thơ, âm hưởng của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quyện chặt, nhuần nhuyễn… đã gieo vào lòng người đọc cảm xúc mạnh.
Bài thơ đã tồn tại 2/3 thế kỷ mà người đọc vẫn cảm thấy như tác giả vẽ, viết từ khung cảnh thực, sống động trong những đêm mùa hè ở nông thôn VN ngày nay. Những con dân đất Việt dù xa cách nghìn trùng, nơi chân trời góc biển, khi đọc lại 'Trăng Hè', như chợt được sống lại cùng quê hương trong khoảnh khắc ngắn ngủi…
‘’Người thư ký’’ cần mẫn, xuất sắc: Đoàn văn Cừ – đã lưu giữ được hồn quê Việt trong thi phẩm tuyệt vời của mình, cho hậu thế – Hôm nay và Mai sau !
lê xuân quang
BERLIN -HÈ 2007
lê xuân quang
BERLIN -HÈ 2007
----------------------------------
(1) chính là trung tướng QĐND Việt Nam – Nguyễn văn Vịnh , chủ nhiệm UB Thống nhất Trung ương. đồng hương bạn học của nhà thơ ĐVC.
(2) bài 'Trăng Hè' lấy trong 'Thi Nhân Việt Nam' của Hoài Thanh. (Nxb Văn Học tái bản năm 1996).
(3) Tiếng kẽo kẹt chỉ vang lên, khi võng buộc bằng thừng chão – bện bằng vỏ cây đay – buộc vào cột kèo tre. Buộc vào móc sắt, cột bê tông… không phát tiếng kẽo kẹt…
(4) Hiện nay do có máy say, xát… loại cối giã gạo này ở nông thôn hầu như không còn nữa, hoặc lác đác chỉ còn rất ít.
vài hàng tiểu sử:
(1) chính là trung tướng QĐND Việt Nam – Nguyễn văn Vịnh , chủ nhiệm UB Thống nhất Trung ương. đồng hương bạn học của nhà thơ ĐVC.
(2) bài 'Trăng Hè' lấy trong 'Thi Nhân Việt Nam' của Hoài Thanh. (Nxb Văn Học tái bản năm 1996).
(3) Tiếng kẽo kẹt chỉ vang lên, khi võng buộc bằng thừng chão – bện bằng vỏ cây đay – buộc vào cột kèo tre. Buộc vào móc sắt, cột bê tông… không phát tiếng kẽo kẹt…
(4) Hiện nay do có máy say, xát… loại cối giã gạo này ở nông thôn hầu như không còn nữa, hoặc lác đác chỉ còn rất ít.
vài hàng tiểu sử:
- sinh năm Nhâm Ngọ (1942)
- tại Nam Thanh, Nam Trực, Nam Ðịnh..
- năm 1958 ra mỏ cọc 6 làm thợ khoan.
- năm 1967 học Ðại Học Xây Dựng Hà Nội .
- năm 1981 đi Hợp tác Lao động ở Bungaria.
- hiện đang sinh sống tại Berlin. (Cộng hòa Liên bang Đức).
tác phẩm đã xuất bản:những mảnh đời (tập truyện ngắn - nxb thanh niên 2002)
những số phận không định trước
(nxb văn học 2003)
dòng xoáy cuộc đời
(tập truyện ngắn -nxb thanh niên 2005)(tập truyện ngắn /nxb hội nhàvăn 2004)
đùa với lửa
được đăng bởi khedo@outlook.com @ 13:51 0 Nhận xét
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ