nhà văn hậu chiến 1950 - 1956 / thế phong - 21
nhà văn hậu chiến 1950 -1956 21
thế phong
--------------------------------------------------------
Chương 3
Tiết 1.- KHÁI QUÁT VỀ NHÓM NGƯỜI VIỆT
Tiết 2.- Tiểu mục :
1.- TRẦN THANH HIỆP
2.- NGUYỄN SỸ TẾ
3.- DOÃN QUỐC SỸ
4.- NGUYÊN SA
Tiết 3.- MAI THẢO
Tiết 4.- QUÁCH THOẠI
Tiết 5.-THANH TÂM TUYỀN
-------------------------------------------------------
Tiết 1.-
NHÓM NGƯỜI VIỆT- SÁNG TẠO
Sau 20- 7- 1954, một số cây bút trong nhóm sinh viên đại học Hànội di cư vào Nam, như : Trần thanh Hiệp, Nguyễn sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, thêm Quách Thoại từ Huế vào, và Nguyên Sa ở Paris về nhập nhóm.
Mai Thảo, cây bút độc lập gửi bài lai cảo tới báo Người Việt , Doãn quốc Sỹ làm chủ nhiệm Thanh Tâm Tuyền phụ trách tòa soạn cho đăng ngay. Có thêm nhà văn tiền chiến Trọng Lang ( bút hiệu Ông Tưởng Tốc ) , Trần việt Hoài, Nguyển sỹ Tế , Trần thanh Hiệp đóng góp bài vở. Về lý luận chính trị, luật sư tập sự Trần thanh Hiệp đảm nhiệm, văn học giáo khoa là Nguyễn sỹ Tế, , văn thơ Thanh tâm Tuyền, Quách Thoại, sau cùng Nguyên Sa - ba nhà thơ chủ lực đồng sáng dị mộng, chủ trương các lối thơ khác nhau.
Chúng tôi sẽ phân tích trong tiết bàn về khuynh hướng mỗi nhà thơ ở phần sau. Phụ họa vào tờ báo ban đầu có Lữ Hồ, sau thêm Duy Thanh, Thái Tuấn... Về lập trường, nhóm Người Việt dựa vào thế dân tôc tự quyết, phẩn văn nghệ khái thác hình tượng đối kháng mác- xít, đề cao nếp sống dân nhược tiểu; ngả về môn phái sinh tồn + phi lý không lý do ( absurde non de cause ) .
Mai Thảo chuyện viết tạp văn diễn đạt lối văn cảm giác ( style d' inspiration) , hình tượng khai thác xung quanh trục tiểu tư sản trí thức. Ông thành công trong Đêm giã từ Hànội, Tháng giêng cỏ non, qua lời văn diễn đạt tân kỳ, độc đáo.
Doãn quốc Sỹ giải thích sự kiện lịch sử, tạo thành những truyện cổ tích dã sử trong Sợ lửa.
Nguyễn Sỹ Tế chuyên về biên khảo văn học giáo khoa, bởi, ông là hiệu trưởng tư thục chuyên khoa Trường sơn. Bút danh Người sông Thương ký dưới những bài thơ tự do, truyện ngắn, không mấy đặc sắc và là soạn giả sách giáo chuyên khảo về Nguyễn Du, Chu mạnh Trinh, Hồ xuân Hương v.v... với một nét nhìn mới.
Thanh tâm Tuyền muốn đưa ra một lối thơ tân kỳ, nên , lùi hẳn hình bóng thi ca cũ đăng trên tuần báo Nói thật ( Hànội, 1953) - tung ra một loạt thơ tự xưng thơ tự do : không vần điệu, nội dung phi lý, không chủ đích, chịu ảnh hưởng non nớt từ các nhóm Existentialisme, Surréalisme, Dadaisme *, ít truyền cảm , khó lĩnh hội . Và, Tôi không còn cô đôc xuất bản ( 1956) tuần báo Văn nghệ tiền phong riễu cợt gọi là ' thơ tự do hũ nút'.
thơ Quách Thoại có nhạc điệu, tư tưởng hòa nhịp âm vận ( assonnance).
Khoáng 1955, Nguyên Sa ở Paris về, nhập nhóm, làm thơ theo kiểu thơ tình Jacques Prévert rất được tán thưởng .
vể họa, họa sĩ Lữ Hồ, Duy Thanh trình bày, cuối 1956, nhóm Người Việt trở thành 2 phe ( clique ) : Mai Thảo nhờ có viện trợ Mỷ, xuất bản tạp chí Sáng tạo , nhà xuất bản Sáng tạo do Doãn quốc Sỹ trông nom.
------
* tạm dịch : Hiện sinh, Siêu hiện thực, Đa-đa ( nhóm canh tân ý tưởng, ngôn từ văn chương , thi ca, có từ đầu thế kỷ XX ở Pháp).
Tiết 2.-
1. TRẦN THANH HIỆP
Sinh năm 1928 ở Bắc Phần, cây bút lý luận chính trị , đặt cơ sở cho nhóm Sáng tạo. Có 1 bài được gọi là thơ, chép thơ tây dịch sang ta ( thơ Aragon : Persienne / Persienne/
Persienne / Cửa sổ / Cừa sổ / Cửa số ) + 1, 2 bài văn xuôi, được gọi là truyện ngắn, ít gía trị văn học .
2.- DOÃN QUỐC SỸ
Sinh 3- 2- 1923 ở làng Hạ Yên Quyết, làng Cót ( huyện Hoàn Long, ngoại thành Hànội) .
Tác phẩm : Sợ lửa ( Người Việt xb, Saigon 1956) , U hoài ( 1957), Gánh xiếc ( 1958),
Gìn vàng giữ ngọc, Dòng sông định mệnh ( 1959 ), Hồ Thùy Dương , Cánh tay nối dài
( 1960) Trái cây đau khổ ( 1963), Đốt biên giới ( 1966), Sầu mộng ( 1970 ) v.v...
Viết cho các báo Dân chủ, Người Việt, Sáng tạo, Lửa Việt ... bút danh ban đầu ký
Dương Quan Sơn * v.v...
-----
* theo Tô Hoài ( truyện Dấu chân trên cát ) - Doãn Quốc Sỹ viết văn cùng thời Tô Hoài . Bút danh khởithủy Dương Quan Sơn ký dưới truyện ngắn đầu tay, viết về trưởng nữ Tú Mỡ - Hồ trọng Hiếu - sau là phu nhân Doãn quốc Sỹ.
( Chú thích sau ).
Ngoài truyện cổ tích viễn tưởng, còn viết truyện ngắn dã sử Sợ lửa.
Sợ lửa gồm : Con mèo trèo cây cau, Con thuyền ma, Mộng xà vương, Pho tượng thần, Con tinh đời Trần Phế đế. Truyện đặc sắc nhất Pho tượng thần, mang hình tượng điền hình thời đại, cũng như Con thuyền ma + Truyện con tinh đời Trần Phế đế.
trong Con thuyền ma phơi bẩy được nhiều hình tượng chuyển biến trong xã hội, đề cao lòng yêu thương, dù ở bất cứ xã hội nào, tình yêu thương , định luật bất biến.
Mùa xuân đi lấy gươm thần lập lại tề gia, trị quốc, bình thiên hạ , truyện mang luận đề rõ ràng , có điểm làm cho người đọc, đọc xong, tự hỏi: khi Thứ Lang đến xin đạo sĩ thanh kiếm, đạo sỉ chỉ hỏi 1 câu' cái gì mỏng nhất ? - căn cứ vào đấy để biết được giá trị kẻ cầm mệnh dân tộc - e rằng hơi dễ dãi, nông cạn. Đành rằng truyện cổ tích, nhưng Doãn quốc Sỹ mượn hình tượng quá khứ , nói chuyện hiện tại, vẫn cần phải chú trọng đến hình tượng so sánh có ý thức, để đánh giá trị kẻ cầm vận mệnh dân tộc.
Không thê dùng hình thái trừu tượng mơ hồ để thể hiện gía trị trừu tượng.
Nhóm Người Việt- Sáng tạo có một duy nhất văn sĩ Doãn quốc Sỹ giải thích lịch sử qua truyện cổ tích, lối đi độc đáo. Mỗi truyện cổ tích đều ngụ ý riêng, đọc xong, liên tưởng đến hình ảnh thời đoạn sống hiện tại. Thuật ôn có trí tân , Doãn quốc Sỹ thường dùng, như Vũ khắc Khoan viết truyện Nhập thiên thai. Doãn quốc Sỹ viết loại truyện dự tưởng rất đạt, Trái tim lửa * tác giả tiến xa hơn về bút pháp, hấp dẫn , lôi cuốn người đọc hơn kỹ thuật viết trước: khô khan, thiếu hấp dẫn - khiến nhớ đến nhà văn tiền chiến Nguyễn đức Quỳnh viết tự truyện Thằng Cu So.
-----
* in trong Đất đứng ( Nxb Quan điểm loại mới, Saigon 1956)
3.- NGUYỄN SỸ TẾ
(1922 - Hoa Kỳ, 2005)
Sinh năm 1922 ở làng Cựu Hào, tổng Hồ Sơn, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. năm 1954, di cư vào Nam , kế đó, chủ trương báo Lửa Việt, tờ báo của sinh viên, học sinh miền bắc di cư. Viết cho các báo : Hòa bình, Dân chủ, Người Việt, Sáng tạo v.v...
Tác phẩm : Hồ xuân Hương ( Nxb Người việt tự do, Saigon 1956), và nhiều luận đề sách giáo khoa do Nxb Thăng Long ấn hành. Ông còn viết nhiều truyện ngắn đăng trên báo do ông chủ trương. Thơ + truyện ngắn ký bút danh Người sông Thương không mấy xuất sắc.
Dòng sông xanh ( tuyển tập Đất đứng, Saigon 1956) tả tâm trạng dân Hung-gia- lợi
( Hungary) tị nạn chạy sang Áo, truyện viết khô khan, lý luận nhiều, thiếu hình tượng sống, không thấy người viết có phong cách 1 tiểu thuyết gia, người đọc vượt tới trang cuối là một sự cố gắng phi thường !
Khi Hungary bị Liên Xô lùa quân sang chiến đóng vào 1956 - thí có ngay 3 cây viết nhóm Sáng tạo dùng đề tài chống Cộng , viết truyện ngắn , làm thơ.
Dòng sông xanh / Người sông Thương qua truyện ngắn Dòng sông xanh, Thanh tâm Tuyền qua bài thơ Hãy cho anh khóc bằng mắt em - riêng bài này khá cảm động , lại đáp ứng đúng tiêu chuẩn vào thời kỳ hô hào toàn dân chống Cộng . Và Trần thanh Hiệp cũng viết truyện ngắn, lập trường chống Cộng đạt tiêu chuẩn ,còn nghệ thuât viết truyện thì chưa !!!
Tác phầm Hồ xuân Hương / Nguyễn sỹ Tế gồm 7 chương, có thể thâu tóm 4 mục tiêu chính:
- con người của nữ sĩ với hoàn cảnh thời đại
- cứu xét nguồn gốc + tư tưởng nữ sĩ.
- nhận đinh về tư tưởng nữ sĩ.
- khuynh hướng thi ca của nữ sĩ.
Trước Nguyễn sỹ Tế, nhiều tác giả viết về Hồ xuân Hương- như Hoa Bằng- Hoàng thúc Trâm viết Hồ xuân Hương, nhà thơ cách mạng - Nguyễn sỹ Tế đả phá lập luận Hoa Bằng ( tr. 53) , sau cùng lại thừa nhận Hoa Bằng có nhận xét đúng đắn.
Người đọc chưa nhìn thấy Nguyễn sỹ Tế đứng trên lập trường nào để viết về thân thế, sự nghiệp Hồ xuân Hương.
từ trước tới nay, có 5 lập luận phân tích về Hồ xuân Hương :
- phái thứ nhất : ông Nguyễn hữu Tiến trong Giai nhân dị mặc cho nữ sĩ Hồ xuân Hương ở phái tự nhiên .
- phái thứ nhì : ông Dương quảng Hàm cho nữ sĩ ở phái vì thân thế mà xuất khẩu thành chương.
-phái thứ ba: Trương Tửu trong Kinh thi Việtnam cho rằng dân tộc tính tạo thành nữ sĩ.
- phái thứ tư : Nguyễn văn Hạnh với lối dùng phân tâm học ( pyychanalyse / Freud ) cho rằng : vì tình dục mà nữ sĩ làm thơ.
- phái thứ năm : Hoa Bằng mổ xẻ Hồ xuân Hương - kết luận - nhà thơ cách mạng.
Hồ xuân Hương / Nguyễn sỹ Tế, ông viết rất công phu, nhưng, chưa đưa ra lập luận nào mà ông đánh giá, phân tích, mổ xẻ - vậy thì, ông chỉ làm công việc tổng hợp lập
luận , đúng hơn. mới chỉ biết cách khai thác nghệ thuật chắp vá : ' lấy cái hay của người làm của mình'.
Một nhà viết khảo luận giáo khoa , lại có tâm hồn thơ văn như Nguyễn sỹ Tế / Người sông Thương là một điều đáng xưng tụng, tiếc rằng giá trị chưa toàn hảo - chẳng hạn -ở Pháp có Louis Aragon vừa là nhà khảo luận vừa thi sĩ nổi danh, hoặc một người nữa, Benjamin Goriély , nhà khảo luận số một phê bình văn học mác xít ,còn là tác giả bài
thơ Conservation d' amour tuyệt hay ... - cả 2 hai điều này chưa thấy trong trang viết Người sông Thương/ Nguyễn sỹ Tế .
4. NGUYÊN SA
(1932 - Hoa Kỳ ,1998)
Tên thật Trấn bích Lan . Sinh năm 1932 ở Hànội.
Tác phẩm : Thơ Nguyên Sa ( Saigon, 1959) , Quan điểm văn nghệ & triết học ( Saigon, 1960), Một bông hồng cho văn nghệ( Saigon, 1967), Mây bay đi ( 1967), Một mình môt ngựa ( 1970 ) v.v...
Chủ trương tạp chí Hiện đại, viết cho các báo Sáng tạo, Thế kỷ XX, Gió mới, Trình bầy, Đất nước v.v. ...
Nhà thơ ngoài 30 tuổi hoạt động văn nghệ khoảng 2, 3 năm trở lại đây ( 1954- 56 ) , tuy chưa có một tác phầm nào xuất bản. Nhưng thơ ông đăng khá nhiều trên các báo Người Việt, Sáng tạo, Gió mới ... tạo được chỗ đứng nhất định. Gọi là thơ tự do, nhưng đúng hơn tự do phá thể , thơ có tiết tấu, âm vận mượt mà, hình ảnh đẹp, chịu ảnh hưởng từ hơi thơ trữ tình nổi tiếng số 1 của Pháp, Jacques Prévert.
Thơ Nguyên Sa cũng trữ tình tương tự Prévert, có hình tượng mới thời đại, băn khoăn, ý tưởng thành khẩn, lời chau chuốt , mượt mà. Là nhà thơ trữ tình như
Xuân Diệu, chuyên thơ tình, có lối đi riêng. Nếu thơ Jacques Prévert, ngoài tình yêu ra, còn mang hình ảnh, tâm tưởng, khắc khoải cuộc sống - thì, trong thơ tình thuần nhất Nguyên Sa chi có một khía cạnh nhỏ ' thơ tình thuần nhất ' .
có phải em về đêm nay
Có phải em về đêm nay
Trên con đường thời gian trắc trở
Để lòng anh đèn khuya cửa ngỏ
Ngọn đèn dấu bấc lụi mắt long lanh
Có phải em về đêm nay
Cho lòng anh trở lại với lòng anh
Như lá vàng về với lá cây xanh
Trong những chiều gió đưa về cội
Có phải em về đêm nay
để phá tan
những nụ cười thắt se sầu tủi
như anh vẫn cười mà đau đớn bao nhiêu
Không biết đời người có đưa đến tin yêu
những ngón tay có đưa đến bàn tay
những mùa thu có đến gió heo may
hay ngày mai là bốn bề tuyết lạnh
Có phải em về đêm nay
giữa lòng chiều im lặng
cho anh đùng tìm thấy anh
đo đếm thời gian
bằng những điếu thuốc lá tắt trong đêm
nhưng đã bao nhiêu lần đêm khuya
đầu gối trên cánh tay
để giấc mơ đừng tẻ lạnh
Em đừng trách anh đã quá lo âu
đời người hiu quạnh
Làm thế nào khi lòng mình nứt rạn kia em
dù không muốn gục ngã trong đêm
nhưng đã bao nhiêu lần đêm khuya
anh không biết đã làm thơ
hay đã chọn âm thanh làm độc dược
Em đừng trách anh để lòng mình tủi cực
đến ngại ngùng dù nắng dù mưa
sao em không về
để dù nắng dù mưa
dù trong thời gian có sắc màu
của những thiên đàng đổ vỡ
ngủ say mềm
Vì lòng anh ( em đã biết )
Có bao giờ thèm khát vô biên
Có bao giờ anh mong đừng chết
- dù để làm thơ
nên tất cả chỉ là yêu em
và làm thơ cho đến chết.
Em sẽ về, phải không em
có gì đâu mà khó khăn, trắc trở
chúng mình lại đi
trên con đường chạy dài hoa cỏ
là những đơn phương ngự của tình yêu
mỗi ngón tay em
anh vẫn gọi là một cửa đào nguyên
và anh sẽ trở lại nguyên hình
một anh chàng làm thơ
mà suốt đời say rượu cúc
Có phải em sẽ về
dù bầu trời ẩm đục
hay bầu trời trang điểm bằng mây
anh sẽ chải tóc em bằng năm ngón tay
trong những chiều gió thổi .
TRÍCH SÁNG TẠO, 1957
thơ nguyên sa
( kỳ sau : MAI THẢO )
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ