" nhà văn CUNG TÍCH BIỀN [ i.e. Trần Ngọc Thao 1938- / Sài Gòn ] / Nguyễn Tấn Cứ -- trích: https://tienphong.vn> - 29/ 07/ 2012.
Nhà văn Cung Tích Biền: Ở quê nhà vui hơn đi Mỹ
> Làm nghề không phải để nổi tiếng
Tranh của nguyễn xuân hoàng. |
Những buổi chiều đi chầm chậm - có một người hay ngồi một mình một ghế một bàn vài ba chai bia hiu hắt nơi quán cũ, ánh mắt cô độc nhìn về một cõi xa mù. Người đó là nhà văn Cung Tích Biền.
Có lần tôi đánh bạo đến ngồi cùng vì thú thực trong cái đám đông xa lạ hỗn mang kia tôi cũng không biết ngồi với ai. Tôi sợ hãi khi biết chắc rằng mình sẽ không làm vừa lòng được ai nếu phải ngồi chung bàn chung mâm với họ. Tôi rụt rè như gà phải cáo khi mở lời “Anh cho tôi ngồi với nhé!”.
Tôi chờ đợi một sự im lặng chết người hay một lời từ chối sấm sét hay chí ít cũng là cú lắc đầu cực nhọc. Nhưng không, đáp lại là một nụ cười “vi tiếu” của đôi mắt hấp háy sau đôi kính cận dày cộp kia - lão nói nhè nhẹ thân tình “Mời em cứ tự nhiên cho, anh em cả, mình biết Nguyễn Tấn Cứ mà” - lão khuyến khích chân tình. Tôi quen biết Cung Tích Biền như vậy.
Nhà thơ Phù Hư - người đã từng “ngậm thẻ qua sông” thời trận mạc chinh chiến - người đã từng thu mua buôn bán ve chai răng vàng bạc vụn thời khó khổ sau 75 cùng với Cung Tích Biền nói với tôi rằng “Lão Biền khó tính bỏ mẹ lão mà chịu ngồi với mầy thì đúng mầy phải là thứ gì đó đấy nhé”.
Ít khoe văn chương chữ nghĩa
Cung Tích Biền là một nhà văn thuộc loại “hàng độc, hàng hiếm” - tiền bối trong làng văn chương miền nam Sài Gòn khoảng thập niên 60 - 70. Tên thật là Trần Ngọc Thao - là một cây bút thời chiến cuộc máu me cay đắng dữ dội.
Theo hồi ức của nhiều nhà văn trước 75, lão từng là một trong vài ba cây bút viết truyện ngắn và truyện dài kỳ ăn khách trên các báo tạp chí của Sài Gòn cũ - một trang viết của lão các chủ báo phải trả cao ngất ngưởng, nghe đâu tương đương một hai chỉ vàng.
Lão đã từng tham gia quân đội chế độ cũ, nhưng là lính quân nhu, và đã giải ngũ năm 1973. Nghe đồn, thời chiến tranh lão là tay ăn chơi lang bạt kỳ hồ. Có lần trong một quán bar vũ trường nọ hứng chí thế nào không biết lão móc súng Colt 45 bắn đùng đùng làm dân chơi và lính tráng chạy tán loạn.
“Tao chỉ bắn lên trời thôi, nhắm vào mấy cái bóng đèn mấy chai rượu thôi”. Hỏi sao vậy, lão bảo “cũng không nhớ nữa, đi phát lương cho lính tráng ngoài trận địa hoài về thành phố buồn quá. Thấy chúng nó ăn chơi ngứa mắt nổ chơi”. Chuyện thời chiến là vậy...
Cung Tích Biền có lối nói chuyện rất có duyên và lôi cuốn - anh em trong nghề nể lão ở sự uyên bác thông kim bác cổ, những khi thù tạc ít khi thấy lão khoe khoang văn chương chữ nghĩa nhưng đụng trận lão nói đâu ra đó khúc chiết rành mạch. Mấy tay phê bình, Hán học, Tây học và cả Phật học lỡ gặp Biền thì hãy coi chừng “ăn nói cho cẩn thận” coi chừng lão “bắt giò” như không.
Có lần một tay ngôn ngữ học ở hải ngoại về, khi nói về ý nghĩa của cái tràng hạt mà Biền đang đeo trên tay, bị lão cật vấn lại đến nỗi tay này phải chịu thua đề nghị lão lý giải và lão đã trình bày thật tường tận khiến quần hào bái phục. Ngồi nhậu chơi với lão có cái hay là học được nhiều điều, vì cái gì Cung Tích Biền cũng thích nói cho cạn nguồn cơn cuộc, rõ ràng hết nghĩa.
Vậy mà đọc văn của Cung Tích Biền người ta không thấy bóng dáng đâu là bí hiểm trập trùng của ngôn ngữ, đâu là chữ nghĩa triết thuyết. Vì như lão nói: cái này không thể áp dụng vào sáng tạo văn chương được. Và lão định nghĩa “Văn chương là cái sáng tạo, nhà văn thì làm Chữ - nó sáng lập ra một đời sống mới. Nó không phải như nhà viết sử hay nhà triết học!”.
Văn chương và rong chơi phiêu bồng là cuộc đi không bao giờ dừng của Cung Tích Biền - và hình như là của tất cả bọn văn nghệ nữa - nên viết về những kẻ “ngoài vòng pháp luật của gia giáo” này cũng không thể thiếu Biền, nhưng có một điều lạ họ vẫn có một gia đình đàng hoàng và hình bóng trụ cột không thể thiếu đó là những người vợ luôn đứng sau lưng mấy tay “gươm đàn nữa gánh, văn chương một bồ này” - những người phụ nữ mà nhà văn cung kính gọi là “Mẹ Quan thế Âm Bồ Tát” - nếu thiếu họ chắc chắn mấy “ông thần” này đã hết linh và xuống địa ngục từ lâu rồi.
Một hôm, tôi đang chạy trên đường đông đúc tấp nập, tự nhiên có một thằng cha lái xe chạy vèo vèo trước mặt, trên một chiếc DD lạc thời màu đỏ thắm. Đã vậy hắn còn “đánh võng” trước đầu xe tôi nữa.
Điên tiết tôi phóng xe theo định nạt một trận, nhưng trời đất ơi, trước mặt tôi là ông bạn già Cung Tích Biền. Lão rũ rũ cái đầu bạc phơ cười he he bảo: “Đi đâu vậy chú em, muốn đi nhậu không theo “qua”?” - “ Ừ thì chơi với ông anh luôn sợ gì!”. Chưa dứt lời lão đã phóng vút luôn, tôi chạy theo muốn hụt hơi trong khi lão vẫn “lăng ba vi bộ” dzòng dzòng lạng lách.
Bãi đáp là một phòng trà giữa trưa ở đường Lê Lợi Q1 Sài Gòn. Lão dựng xe điệu nghệ kéo tôi chui tọt vào trong cái mê cung mù mịt chớp sáng khói ảo kia, vừa đi lão vừa giới thiệu “Đây là nơi nhảy nhót của quí bà U 30-40 trở lên và chỉ có vào buổi trưa thôi, vui lắm... Suốt buổi trưa tôi chỉ ngồi lai rai và nhìn lão dìu từng “em” lịch sự đi những bước lả lướt - lúc này trông lão như một chàng đôi mươi.
Lão nhảy đẹp và chuyên nghiệp đến nỗi “em” nào cũng muốn lướt đi trong vòng tay của lão. Lợi dụng lúc nghỉ giải lao, tôi khều khều: “Rồi có... “thơ mộng” không?” - Lão cười cười “cũng không biết nữa, nhưng chị em ở đây dễ thương chịu chơi lắm, em muốn thì ở lại chơi tiếp, còn “qua” phải về với bà nhà, hề hề” - nói xong lão biến mất như chưa từng bao giờ biết cái cõi ta bà ấy...
Chưa xong việc nên Ông Trời chưa cho đi
Cung Tích Biền là một nhà văn đúng nghĩa - là lao động cật lực cô độc cho đến chết, buồn vui mơ mộng với tác phẩm của mình cho đến rách gáy - mà không cần biết nó sẽ ra sao.
Sau năm 75, anh em tưởng lão tắt tiếng sau những thị phi ngộ nhận trời ơi dập dày trầy trật, buồn khủng khiếp nhưng càng buồn lão càng lao vào trang viết như cơn bão ngầm - lão vẫn âm thầm đều đều sáng tác - thập niên 90 ở Việt Nam, làn gió đổi mới với những cây bút như Nguyễn Huy Thiệp - Phạm Thị Hoài… xuất hiện hàng loạt - lúc ấy người ta thấy hai tác phẩm của Cung Tích Biền xuất hiện “Chim cánh cụt “ và “Những ngày lưu lạc” cùng với vài truyện ngắn in trong “Truyện ngắn xuất sắc thế kỷ 20” (NXB Kim Đồng); tạp chí Sông Hương, báo Văn Nghệ.
Nhưng chưa được bao lâu, không hiểu sao lão bị một số người ở cả trong nước lẫn hải ngoại quy chụp đủ thứ trên các diễn đàn. Cũng chẳng có gì nghiêm trọng hơn nhưng sợ quá lão trốn biệt văn đàn. Nhưng lão vẫn làm việc khủng khiếp, từ sáng tinh mơ cho tới chiều tà.
Từ ngày vợ con đi định cư ở Mỹ cũng cả năm rồi, lão ở nhà một mình một bóng với cái computer, chỉ xê dịch từ nhà ra quán nhậu Mai Rừng Phú Nhuận gần đó khi cần phải hẹn với anh em văn nghệ nhậu lai rai.
Lão rất ngại đi xa, có lần lão đã bị tụi quái xế tung cho một phát “bán mạng”, phải nằm viện gần cả tháng. Lão cười khà khà cảm thán: “Chưa xong việc nên Ông Trời chưa cho “qua” đi đâu!”.
Nghe anh em kể rằng, lão cũng có Visa cùng gia đình đi xuất cảnh nhưng khi ra đến cửa khẩu Tân Sơn Nhất, lúc vào phòng cách ly lão đã lẻn trốn ra ngoài rồi dông thẳng tới quán 81 Trần Quốc Thảo - ngay trụ sở Hội LH VH-NT TPHCM ngồi nhậu ngơ ngác một mình và ở lại cho đến tận bây giờ.
Hỏi sao không đi, lão cười đọc hai câu thơ Bùi Giáng “Hỏi rằng quê ở nơi đâu/ Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà” “Đi làm quái gì khi mà ở đó anh không đi quá khỏi cái mép bàn của mình, ở đây vui hơn!”.
Gần đây Cung Tích Biền và lão họa sĩ Trịnh Cung không biết có chuyện gì vui mà hay phone cho nhau hoài, và hình như có lúc cũng giận nhau nữa. Trời đất ơi, hai con sói già của cánh rừng văn chương miền Nam còn sót lại giữa Sài Gòn bụi bặm, giận nhau làm chi? Biền than trời: “Bây giờ sức yếu quá nên muốn làm chuyện gì cũng phải suy nghĩ chắc chắn cái đã bạn tui ơi”. Trịnh Cung quặc lại: “Thằng đó mà già yếu cái gì? Còn nhậu nhẹt với tụi bây um sùm, xạo quá!”.
Cung Tích Biền cứ như một lão Đông Phương bất bại dù đã nhiều lần vào sinh ra tử, trong khi nhiều người cùng thời đã ra đi về miền tịch mịch. Mà nghe rằng trong người lão toàn là những căn bệnh nan y khủng khiếp, nhưng khi lão mà hứng lên là anh em chạy theo muốn hụt hơi.
Gần đây nghe lão “hú” qua phone, câu cửa miệng lúc nào cũng là “đang lai rai ở đâu đó?” - bảo đảm nếu gần nhà lão sẽ bay tới ngay. Cho tới khi tàn cuộc chia tay bao giờ lão cũng đọc hai câu thơ của Bùi Giáng “Chào nhau ở giữa con đường/Mùa xuân phía trước miên trường phía sau”. Rồi thì lão lững thững như một lãn ông, cà tưng đi bộ tà tà về nhà… ngồi vào bàn và viết.
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ