đọc thêm (4): " .... cái chết của KHÁI HƯNG '/ Nhật Thịnh (chêt / Mỹ ) ' -- trích: AnLe 's Blog - 27-09-2015
Câu chuyện văn chương : CÁI CHẾT CỦA KHÁI HƯNG
Nói tới Khái Hưng không ai không liên tưởng đến một nhà văn đã tự tạo cho mình một chỗ đứng vững chãi trong làng văn làng báo, nhưng ít ai muốn nhắc đến khía cạnh này, đương nhiên các nhà ngự sử văn đàn đã thừa nhận. Người ta muốn đề cập tới cái chết của Khái Hưng, nó không giống cái chết của mọi nhà văn khác. Hiện nó còn nằm trong nghi vấn mà là một đau thương lớn lao cho những ai biết tới và là sự ưu tư cho những người làm công tác văn học.
Theo Thế Phong trong tập “Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam–- Nhà Văn Tiền Chiến 1930 – 1945”, Khái Hưng bị Việt cộng bắt ngày 27.12.1946, đưa đi an trí ở Lạc Quần – Chiné, Phủ Lý – và bị thủ tiêu năm 1947. Nguyễn Thạch Kiên trong “Về Những Kỷ Niệm Quê Hương”, phác giác sau ngày 19.12.1946 chiến cuộc xảy ra tại Hà Nội, Khái Hưng lợi dụng khi quân đội Pháp ngưng chiến 24 giờ cho dân chúng được tự do đi lại tìm thân nhân, đã rời bỏ Hà Nội tìm đường về Nam Định mong gặp lại gia đình, đã bị Việt cộng bắt giam tại Lạc Quần, từ đó không còn ai thấy nữa. Nguyễn Thạch Kiên còn cho biết Nguyễn Cống kể cho nghe là bà vợ của Khái Hưng vẫn không tin chồng mình bị giết, bởi Khái Hưng từng dạy học cùng Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long, và quen biết Trần Huy Liệu, khi tuyên thệ gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng tại Bến Thóc, Nam Định. Nguyễn Cống tiết lộ thêm, sau ngày Việt Minh cộng sản tiếp quản Hà Nội năm 1954, Phạm Hoàng Ái – em vợ của Nhất Linh – cho biết vợ của Khái Hưng đã gặp một trong những người em kết nghĩa của Khái Hưng và đem chuyện chồng mình ra hỏi. Người đó lạnh lùng trả lời:
– Chị còn nhắc đến tên Việt gian đó làm chi. Sông biển đã là mồ chôn từ lâu bọn đó rồi.
Nghe tin đó bà khóc ngất, té xỉu và qua đời. Tô Văn thuật lại vụ Khái Hưng bị Việt Minh thủ tiêu chi tiết hơn. Khi đó ông bỏ Hà Nội tản cư về quê vợ ở Nam Định dù đã có nhiều người can ngăn. Khái Hưng nghĩ Việt Minh cộng sản không thể ác tâm tiêu diệt những thành phần cách mạng đối lập với họ, hơn nữa Khái Hưng không muốn sống ở Hà Nội để chịu sự nô lệ của 80 năm qua. Khái Hưng về đây có mấy ngày đã xảy ra sự cố.
Một buổi chiều nọ Khái Hưng sang làng Cổ Lễ thăm một người bạn, bỗng có hai người lạ mặt tiến đến gặp Khái Hưng, cho biết Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định ngỏ ý mời Khái Hưng tới trụ sở để bàn tính công chuyện. Khái Hưng đòi xem công lệnh và giấy mời thì họ dí súng vào ngực Khái Hưng, trói lại, bịt mắt dẫn đi. Họ dắt Khái Hưng tới bến đò Yên Lãng, dùng dao găm đâm lia lịa vào gáy. Khi Khái Hưng ngã xuống họ còn bồi thêm mấy nhát nữa cho tới chết. Đâm xong họ khiêng xác Khái Hưng đem xuống thuyền, buộc thêm đá tảng vào, và chèo thuyền ra giữa sông quăng xuống.
Ngoài Khái Hưng ra, Việt Minh cộng sản còn nhẫn tâm thanh toán nhiều nhà trí thức tên tuổi như Tạ Thu Thâu, Lan Khai, Nguyễn Triệu Luật…Trên báo “Phổ Thông” số 19 phát hành ngày 1.10.1959, Kim Tưởng cho hay Việt Minh cộng sản bắt Khái Hưng tại quê ngoại là làng Lịch Diệp, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định, thủ tiêu bằng một loạt súng lục trên bến Cựa Gà và xô xác xuống sông.
Khái Hưng tên thật Trần Khánh Giư sinh năm 1896, quê quán làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương, trong một gia đình quan lại. Thân sinh là Tuần phủ Trần Mỹ có tới năm bà vợ bởi thế gia đình rất đông con cái, rể của Tổng đốc Lê Văn Đính. Khái Hưng con của bà cả, anh cùng cha khác mẹ của Trần Tiêu – tác giả những tập “Con Trâu”, “Chồng Con”, “Truyện Quê”, “Sau Lũy Tre” – sinh ở làng Cổ Am, huyện Vĩnh Hảo, tỉnh Hải Dương.
Thuở nhỏ theo Nho học bởi thế Khái Hưng khá tinh thông Hán học, đã dịch sang Việt ngữ bài “Dưới trăng uống rượu một mình” của Lý Bạch. Sau theo học trường Albert Sarraut ở Hà Nội, ra trường Khái Hưng không xin đi làm quan như đa số các bạn đồng học thời bấy giờ, trái lại, lại đi dạy học ở trường Thăng Long. Tại đây Khái Hưng gặp Nhất Linh (1905 – 1963) và viết cho tờ “Phong Hóa” của Phạm Hữu Ninh, ký bút hiệu Bán Than. Ngoài ra Khái Hưng còn cộng tác với tờ “Văn Học Tạp Chí”
Năm 1932, Phạm Hữu Ninh nhượng lại tờ Phong Hóa cho Nhất Linh điều khiển, Khái Hưng cộng tác đắc lực để xây dựng tờ “Phong Hóa”, đả kích phong kiến, cổ động Tây hóa cho kịp sự tiến hóa của nhân loại. Năm 1933 cùng Nhất Linh thành lập Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết “Hồn Bướm Mơ Tiên” là tác phẩm đầu tay của Khái Hưng và cũng là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Được đánh giá là một ngòi bút nòng cốt của Tự Lực Văn Đoàn, hai tờ báo “Phong Hóa” và “Ngày Nay”. Năm 1935 cộng tác với Nhất Linh trong tờ “Ngày Nay”.
Năm 1939, ảnh hưởng của những chuyển biến thời cuộc, Nhật Bản sửa soạn đặt chân vào bán đảo Đông Dương, nhóm Tự Lực Văn Đoàn nghiêng về hoạt động chính trị. Đảng Đại Việt Dân Chính thành lập, Nhất Linh làm Tổng thư ký, Khái Hưng cùng các đồng chí trong đảng ráo riết hoạt động.
Năm sau Khái Hưng cùng Hoàng Đạo – tên thật Nguyễn Tường Long (1906 – 1943) em ruột của Nhất Linh, tốt nghiệp Luật khoa nhưng không đi làm tri huyện, ngược lại, vào làm tham tá lục sự để có thời gian làm báo, sau tham gia cách mạng với anh (1941 – 1945) và qua đời tại Trung Hoa, bí mật xuất ngoại để bắt liên lạc với các đảng cách mạng hải ngoại.
Năm 1941, Khái Hưng trở về nước bị chính quyền bảo hộ Pháp bắt giam tại Hà Nội, phát vãng lên châu Lạng Sơn thuộc tỉnh Hòa Bình và nhốt tại lao xá Vụ Bản, trong đó có 70 đảng viên Đảng Đại Việt Dân Chính.
Năm 1943, Khái Hưng bị giải về quản thúc tại Hà Nội. Trong thời gian bị giam cầm Khái Hưng sáng tác được một số tác phẩm nhưng không thấy xuất bản và không ai rõ số phận những bản thảo đó ra sao. Khi được thả ra các đảng viên có Khái Hưng, Hoàng Đạo và họa sĩ Nguyễn Gia Trí tiếp tục tranh đấu.
Ngày 5.5.1945, Khái Hưng cùng Nguyễn Tường Bách cho xuất bản tờ “Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới”, để làm hậu thuẫn cho Nhất Linh khi đó đang cùng Nguyễn Hải Thần hoạt động chính trị tại Liễu Châu, Trung Hoa, trở về nước. Khái Hưng phụ trách mục“Tiếng Vang” và cho in truyện dài “Xiềng Xích” đề cập tới đời sống cùng khổ trong chốn lao tù và những ngón đòn tra tấn dã man của người Pháp mà Khái Hưng từng là nạn nhân trong những tháng năm tù đầy tại đây.
Ngày 19.8.1945 Việt cộng đảo chính nắm chính quyền, báo “Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới” đóng cửa, các đảng đối lập bị đàn áp, khủng bố. Tới tháng 9.1945, Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Việt Nam Quốc Dân Đảng cho xuất bản tờ “Việt Nam” và “Chính Nghĩa” nhằm mục đích đả kích Việt cộng. Khái Hưng trực tiếp công kích chế độ mới này và vạch trần những kế sách xảo quyệt của Việt Minh cộng sản. Không bao lâu sau tiếng nói này đã bị dập tắt.
Nhận định về sự nghiệp văn chương của Khái Hưng, ngoại trừ Việt Minh cộng sản – tiêu biểu Nguyễn Hoành Khung – đã lên án Khái Hưng là “nhà văn phản cách mạng, chống lại nhân dân và tổ quốc”, phê bình độc một thứ giáo điều khuôn mòn “nhân sinh quan tiêu cực”, “cá nhân chủ nghĩa ích kỷ”, “bộc lộ sự bế tắc khủng hoảng tư tưởng”…nhưng vẫn phải thừa nhận rằng những tiểu thuyết của Khái Hưng đều đượm tính cảnh giác tư tưởng là một thái độ văn hóa.
Khái Hưng viết nhiều truyện ngắn “Anh Phải Sống” 1934 viết chung cùng Nhất Linh, “Tiếng Suối Reo” 1935, “Dọc Đường Gió Bụi” 1936, “Đợi Chờ” 1940, “Đội Mũ Lệch” 1941. Viết truyện dài bao gồm nhiều khuynh hướng, lý tưởng: “Hồn Bướm Mơ Tiên” 1933, “Trống Mái” 1936, phong tục tập quán: “Nửa Chừng Xuân” 1934, “Gia Đình” 1936, “Thoát Ly” 1938, “Thừa Tự” 1940, phân tích tâm lý: “Hạnh” 1940, “Đẹp” 1941, “Băn Khoăn” 1941, lịch sử: “Tiêu Sơn Tráng Sĩ” 1937…
Tương tự Nhất Linh, nghệ thuật viết của Khái Hưng tập trung trong 35 tác phẩm, chuyển biến từ loại lý tưởng – trong “Hồn Bướm Mơ Tiên” muốn cho ái tình thắng tôn giáo nhưng lại muốn Lan có tư tưởng cao thượng – tới loại truyện phân tách tâm lý, mổ xẻ hình tượng con người bằng một kỹ thuật trưởng thành, đi sâu vào thực tế và khai thác những tiểu thuyết tả thực và phong tục. Tình tiết sắp đặt mới mẻ, không sử dụng khung cảnh lãng mạn cầu kỳ, cốt truyện khúc mắc hấp dẫn để truyền cảm, tư tưởng thái độ đan chen trong “Đợi Chơ”, buồn man mác trong “Tương Tri”, tưởng chừng trong cơn ác mộng đã gặp thiên thần…
Khái Hưng viết một số tiểu thuyết mổ xẻ khá sắc sảo, sinh động phê phán sinh hoạt, phong tục lỗi thời của đại gia đình phong kiến. Trong “Gia Đình” Khái Hưng dựng lên hình ảnh một cặp vợ chồng nông dân trẻ tuổi, đầy lòng từ thiện, lấy việc chăm lo cải thiện đời sống tá điền làm sự nghiệp và lẽ sống đời người.
Trong cuốn tiểu thuyết “Đẹp” Khái Hưng trình bầy cuộc đời nghệ sĩ. Họa sĩ Nam bạn học của Biên. Biên kết hôn sớm có con gái đầu lòng tên Lan. Trước kia Nam đến chơi, Lan còn bé hay theo chú đi chơi. Bẵng đi sáu năm Nam rẽ vào Quảng Yên thăm Biên thấy không ngờ vợ chồng bạn mình đã thay đổi khác xưa, trông già hẳn dù mới 36 tuổi. Lan “má đỏ hây hây, cái ngực nở nang như chứa đầy sinh lực”, hiện học năm thứ ba trường Đồng Khánh nghỉ hè về chơi được một tháng. Thấy Biên, Lan không dám vồ vập như xưa, và Biên chỉ khẽ ngả đầu đáp lễ như đối với một người đàn bà chưa từng quen biết.
Khái Hưng đã theo đúng giác quan, phản ảnh trung trực tâm lý một thanh niên độc thân đứng trước một thiếu nữ còn trẻ có nhan sắc, cho dù trước kia cô đã đóng vai chú cháu cũng không muốn ràng buộc vào lễ phép, tin rằng còn được tự nhiên chiếm cứ về sau.
Đây cuộc đối thoại của họ xem ra thật tế nhị, dí dỏm. Lan biết Nam không là chú thật của mình, đã chuyển biến từ chú sang ông, Khái Hưng đã làm được công việc đó, phô diễn đúng được tâm lý của con người, diễn đạt thay thế cho người trong cuộc:
-Chú có họ với thầy cháu không nhỉ?
Nam lắc đầu mỉm cười, cho nàng là quá thật thà:
-Cháu cứ tưởng thế nào cũng hơi có họ một tí, nên chúng cháu mới gọi ông là chú.
-Thế này này: chả ngày xưa tôi là bạn của thầy…
Lan mỉm cười ngắt lời:
-Vậy ra, ông cũng học một lớp với thầy đấy.
Vai trò Nam Kái Hưng diễn tả thật chính xác. Một thanh niên trọng tuổi nên luôn mặc cảm, luôn phải xưng tuổi với một thiếu nữ trẻ hơn mình kèm theo những câu nhũn nhặn, có ý thiệt về phần mình để nghe người khác tâng bốc mình: “Năm nay tôi băm hai…giá quá rồi”. Phải nói rằng Khái Hưng đã kinh qua nhiều thế hệ, từ thế hệ Nam đến thế hệ Lan, mói có thể có giọng văn kinh nghiệm, tả tình lịch duyệt. Nhìn rộng ra người ta thấy Khái Hưng không vẽ dư một nhân vật nào, từ một ngôn ngữ, một tư tưởng, một thái độ, hành động…nhất nhất khít khao tựa những con ốc trong một guờng máy, không thừa thiếu.
Câu chuyện không chất chứa nhiều khúc mắc, bình thường, đơn giản nhưng Khái Hưng diễn đạt thật hấp dẫn, say mê, đọc mới thấy bị cuốn hút ngay từ một chi tiết nhỏ, đó là một điều không dễ một ai đã đạt tới. Tương tự trong tác phẩm “Premier amour” (Mối tình đầu) của Torguenieff, câu chuyện chỉ xoay quanh có hai nhân vật là Zassekine, một thiếu nữ xinh đẹp được đủ mọi loại người yêu, kết cục chỉ yêu Pretovitch mới có mười sáu tuổi, nhưng không lấy được nhau và nàng chết khi đi lấy chồng, vậy mà tác phẩm đã vô cùng lịch lãm.
Vũ Ngọc Phan phải chăng bởi vậy đã coi Khái Hưng tưởng chừng Anatole France, Hofmann, Edgar Poe, chủ trương thuyết hoài nghi và Thế Phong khi đi vào thế giới tiểu thuyết của Khái Hưng, đã vội liên tưởng tới những Constantin Virgil Gheorghiu, Ehrenbourg dù rằng góc cạnh nhìn của mỗi người có sắc thái riêng, không chung cùng một điểm.
Khái Hưng nhận xét tâm lý phụ nữ phải nói là tài tình, không những vậy Khái Hưng còn chú tâm tới việc đổi thay những hủ tục trong gia đình, mổ xẻ, phê phán, bởi vậy những tiểu thuyết phong tục của Khái Hưng có một tầm vóc lớn rộng và cuốn hút được số lớn phụ nữ. Đây là những phác giác để những người thuộc phe bảo thủ thấy được sự thật, bởi muốn đất nước vững mạnh không thể để mục ruỗng gia đình.
Trước sự xâm nhập của văn hóa Tây phương, gia đình và xã hội không thể có sự thiết lập một bên. Không những Khái Hưng chỉ sâu sắc khi phân tích tâm lý người phụ nữ, mà Khái Hưng còn hiểu biết nhiều về tâm hồn các thanh niên nam nữ. Khái Hưng đã sống qua nhiều thế hệ, thật đúng một kỹ sư tâm hồn, có giọng văn kinh nghiệm, tả tình lịch duyệt.
Bởi vậy những truyện nhi đồng của Khái Hưng, đại loại “Ông Đồ Bể”, “Cóc Tía”, “Quyển Sách Ước”, “Cây Tre Trăm Đốt”, “Để Của Bí Mật”, “Cắm Trại”, “Bông Cúc Đen”, “Thầy Đội Nhất”, “Cái Ấm Đất”, “Thế Giới Tí Hon”, “Lưu Bình Dương Lễ”…cũng rất đặc biệt.
Khái Hưng không bộc lộ tư tưởng cách mạng trong các tác phẩm như nhà văn Nhất Linh. Trong khi chính quyền bảo hộ hống hách, bọn thư lại chà đạp, a tòng, Nhất Linh đả kích hiện tượng đó một cách mạnh mẽ trong “Đôi Bạn”. Khái Hưng ngược lại đi vào chiều sâu của con người hơn. Đó bởi mỗi người quan niệm một khác. Nhất Linh nuôi chí anh hùng tạo thời thế. Khái Hưng mượn thời thế thay đổi mình.“Tiêu Sơn Tráng Sĩ” in báo năm 1934, xuất bản năm 1940, Khái Hưng mô tả đám thanh niên quí tộc đời Lê mạt chống nhà Tây Sơn, biểu tượng ý chí nuôi dưỡng cách mạng, nhưng thiếu thái độ, ý chí của “Đôi Bạn”.
“Thanh Đức” 1943, cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn miêu tả cuộc sống ích kỷ, vô luân của đám thanh niên tư sản đã bế tắc, chỉ còn biết lao theo thú vui vật chất, lấy đó làm lẽ sống.
Khái Hưng thấm nhuần tư tưởng Tây phương, mượn hình thức tiểu thuyết Âu châu để tạo cho một thế hệ tiểu thuyết mới ra đời, biểu hiện rõ rệt trong lối hành văn. Người ta không tìm thấy nơi Khái Hưng lối văn dài dòng, khúc trắc, lôi thôi, tối nghĩa…kiểu thời kỳ phôi thai những tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Tương Phố…Thoạt đầu người ta thấy bút pháp Khái Hưng bay bướm, dài dòng, sau đổi lại Khái Hưng dùng ngòi bút thật bình dị, sáng sủa, thích hợp với những tư tưởng chín chắn.
Chưa thể ai biết con đường đi của Khái Hưng tiến hóa ra sao, thì rất tiếc Khái Hưng đã bị thảm sát nhưng xét cho cùng, người ta thấy tiểu thuyết phong tục vẫn là loại nổi bật của Khái Hưng. Nó đượm màu sắc xã hội nhưng thiên về mặt lý tưởng, có thi vị riêng. Khái Hưng chết đi nhưng đã lưu lại nhiều trang viết chứng tỏ một sự lịch lãm sâu sắc, nắm vững nghệ thuật viết tiểu thuyết trong lịch sử văn chương nước ta vào giai đoạn đầu.
ĐINH NHẬT THỊNH
@Vannghesy.net
============
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ