Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2022

đọc thêm (2) DIÊN NGHỊ / Nguyễn Vy Khanh /Toronto -- trích: hocxa.com>

 

Diên Nghị

 NGUYỄN VY KHANH

        

 


    Nhà thơ Diên Nghị

Tên thật Dương Diên Nghị (sinh 1933 tại Huế, nguyên quán Lệ Thủy, Quảng Bình), ông từng làm thư-ký tòa-soạn báo Chiến Hữu của Đệ tứ Quân khu và cộng tác cùng đăng thơ trên Đời Mới, Thẩm Mỹ, Phụng Sự, Cải Tiến, Quân Đội, Chiến Sĩ Cộng Hòa, Văn-Nghệ Tiền Phong, Lạc Việt, v.v. Ông đã xuất bản Xác Lá Rừng Thu (Lạc Việt, 1957) và nổi danh với thi phẩm này, sau đó là Chuyện Của Nàng (Huế: Lạc Việt, 1962),... Diên Nghị còn là đồng tác giả hai tiểu luận Khái Luận Về Thơ Mới (với Kiêm Đạt và Yên Khanh, ĐÀ Lạt, 1955, Lạc Việt, 1956) và Khái Luận về Văn-Nghệ Quân Đội (Với Kiêm| Đạt và Phan Lạc Tuyên, Ban-Mê-Thuột: Nhà in Nhân-Ký, 1956).


Trong Xác Lá Rừng Thu, Diên Nghị đã cho thấy nòi tình, như trong bài Đêm Lên Đường: người lính đa tình ở mỗi bước quân hành những tưởng người yêu luôn dõi theo từng bước, bài thơ đặc-biệt ở những tiếng trùng âm được lập lại khiến cảnh vật và tâm sự thêm thắm thiết:

“Đêm lên đường, vàng võ trăng non,

Trăng sao buồn lạnh, lối sao mòn!

Đèn hiu hắt dọi qua phên mỏng.

Lệ tủi mắt em, hồn xót hồn...


Súng đạn quân mang nặng vai gầy,

Ngựa mỏi, đồi cao, núi tiếp mây.

Rung rúc chim ngàn ca nhịp bước,

Rộn rực tình sâu, đầy vơi đầy


Bóng em lấp lánh bên dòng suối,

Theo mãi anh đi suốt dặm trường.

Chạnh nhớ hôm nào mình mới cưới,

Trầu xanh, cau ngọt, thương càng thương!


Vội gửi lời về thôn xóm ấy,

Bảo rằng chiến trận dù chưa thôi!

Nắng mưa dù lỡ ngăn sống núi,

Gối phượng, phòng loan, đôi chung đôi.


Trăng ngả chênh đầu, đêm rưng rưng,

Thì thầm tiếng lá rụng bên lưng.

Tưởng em đang nói câu đưa tiễn,

Gió động, cành lay, rừng lại rừng..."

Vương Vương; đăng Bách Khoa, Số 34, 1-6-1958, tr. 65)


Đêm lên đường hiu hắt trăng non

Trăng sao buồn lạnh, lối vào mòn?

Ngọn đèn ngả bóng in phên dậu

Lệ tủi mắt em, hồn sót hồn


Anh mang súng đạn nặng vai gầy

Bước mỏi, đồi cao phủ bóng mây

Rung rúc chim khuya vừa chợt giấc

Rạo rực tình sâu đầy vơi đầy


Bóng em lấp lánh bên dòng suối

Theo mãi anh đi suốt dặm đường

Chạnh tưởng hôm nào dâng lễ cưới

Trầu xanh, cau ngọt, thương càng thương


Vội nhắn lời về thôn xóm ấy

Bảo rằng chiến trận dù chưa nguôi

Nắng mưa dù lỡ ngăn sông núi

Gối phượng, phòng loan, đôi chung đôi


Trăng ngả chênh đầu, đêm rưng rưng

Thì thầm nghe lá rụng sau lưng

Ngỡ em đang nói câu đưa tiễn

Gió động, cành lay, rừng tiếp rừng"

(Xác Lá Rừng Thu)

Hay bài Nao Nao ghi là “gởi người thành nội Huế”:

Nắng rải chập chờn ngoài biển cỏ,

Liểu thưa, khói biếc, quyện mây cao

Hoa lan phảng phất mùi thương nhớ,

Nhớ một mùa xuân mới độ nào?


(...) Mắt nhung huyền dịu, màu thu biếc,

Tóc vẫn cài trâm, má ửng đào

Áo trắng lòng trong say nghiên bút,

Trăng thề vườn ước chuyện mai sau


(...) Âm thầm gởi mộng theo mây trắng,

Trời nước bao la thiên cổ sầu...

Làm thân lữ khách say lưu lạc,

Mơ tàn ngao ngán nỗi binh đao


Hồn quê khắc khoải, vườn quê quạnh,

Dặm đời súng chuyển nhịp thưa... mau

Quán nghèo ngâm lại vần thơ cũ,

Gà trưa cất giọng... trời!- nao nao...".

Thật vậy, ở Diên Nghị, đặc biệt là thơ tình và tình yêu đã theo chân người lính chiến lên núi rừng, xuống bình nguyên, từ khu chiến về đô thị,...

"mỗi đêm lưu trại anh thường viết,/ và viết tên em đến vạn lần".


Chuyện tình-yêu của tuổi trẻ, một người trẻ đã khóac áo lính, một người lính-đa-tình:

“súng đạn quân mang nặng vai gầy,

ngựa mỏi đồi cao, núi tiếp mây.

rung rúc ngàn chim ca nhịp bước

rộn rực tình sâu đầy vơi đầy...”

(Chuyện Của Nàng)


Đoản thi với âm thanh những “r” như muốn diễn tả tâm tình rạo rực, đa tình. Người lính tay cầm súng bảo vệ quê-hương, đất biển, nhưng cũng có những lúc nhung nhớ người yêu, người thân nơi quê nhà, và từ đó phát xuất những vần thi ca trữ tình và rất nhân bản, những thứ mà người lính phương  Bắc Cộng-sản không bao giờ có được, cái tư riêng đã bị ý chí tập thể và những lý tưởng ngoài tầm con người giết chết, cấm đoán. Với người lính miền Nam, tâm tình có sao là tỏ bày vậy:


“buồm khát cuồng phong, chim khát bay

nguồn cao thèm nước, lá thèm cây

giang hồ mây nọ, thèm phương rộng

người cũng thèm yêu, cũng khát say”


Thật vậy, trong cả tập Chuyện Của Nàng, thơ của một người lính chiến, người đọc sẽ tìm thấy và cảm được tình-yêu và tâm tình tuổi trẻ. Tựa là Chuyện Của Nàng nhưng thực ra là Chuyện của Chàng, vì Chàng là kẻ đa lại tình lại đam mê thi ca bên cạnh tình người và thiên nhiên. Hãy nghe Chàng bày tỏ:

"Nàng ở đâu? Xóm biển, lưng đồi

Cao nguyên, bình địa, cuối chân trời?

Giữa lòng đô thị, khu thành ngoại

Lặn lội tìm nàng khắp mọi nơi...


Gạn hỏi bình minh, gặp hoàng hôn

Phương Tây nắng tắt, hắt hiu buồn

Vườn hoa tang chế, thờ ơ tiếp

Ngoảnh mặt, quay lưng, quá lạ thường


Nàng áo xanh, áo tím, diễm kiều

Áo nâu, dù loang lổ màu rêu

Bàn tay lao động, tay ngà ngọc

Vẫn một tâm hồn, tôi mến yêu


Kiếm tìm nàng, bạc trắng vàng trăng

Lắng nghe gió biển nhắn mây ngàn

Ngoảnh nhìn bốn phía còn hoang mạc

Biết tỏ cùng ai – chuyện của nàng


Réo gọi điên cuồng, rung vũ trụ

Trăng sao che khuất lối đi về

Không gian mù mịt vào vô thức

Cất bước chân theo nặng khối chì


Lãng đãng hồn trôi dòng chiêm bao

Bơ vơ, còn nhận biết phương nào

Nàng là mộng ảnh, hay chân thực

Nàng đứng nơi đâu - giữa địa cầu"

(Chuyện Của Nàng)

Đẹp làm sao hình ảnh trung trinh của mối tình đầu:

"Em giữ bên anh một ảnh hình

Một hồn thi sĩ lựa đầu xanh

Một đàn bướm trắng đùa trong gió

Một sớm hoa xoan nở đỏ cành


Bởi một ngày mai anh sẽ xa

Mộng xây lên mộng cũng phai nhòa

Duyên xưa cũng tắt hoàng hôn tím

Tình cũng hao tàn số kiếp hoa


Đôi nẻo đường về ngại nắng mưa

Song thu khép kín tự bao giờ

Nến gầy, canh lụn, đau lòng sách

Chữ cũng như người dáng ngẩn ngơ.


Em giở từng trang đọc từng tên

Từng đêm hè quanh lại từng đêm

Bài thơ tâm sự càng heo hắt

Người ấy năm nào em lỡ quên?


Hoa phượng rưng rưng rụng trước lầu

Mà nghìn năm nữa vạn năm sau

Thời gian chùi sạch màu son trẻ

Em cũng không quên được buổi đầu"

(Hình Ảnh Buổi Đầu)

Người đẹp yêu dấu trong tâm tưởng của nhà thơ được vẽ lên bức tranh hiện thực:

"da thịt nõn nà, màu bạch ngọc,

hồng thơm phấn mịn thắm làn môi

(...) tóc mượt huyền nhung, má ú ngon,

lưng ong choàng khít ngực no tròn

(...) chạm nhẹ đài thân, rợn cảm quan,

đê mê hồn lạc đến thiên đàng...”



      (Kệ sách Học Xá)

Đê mê, rồi phải yêu, để tình-yêu trở nên lẽ sống, là lý do là mục-đích của cuộc đời:

"ta phụng thờ em biết mấy xuân,

quên ngày tháng rụng, sắc quan huân

choàng tay gối mộng đêm đêm trắng,

tưởng niệm hồn trinh vọng ý thần...”

(Chuyện Của Nàng)


Chàng đắm đuối trong cõi tình, nên dễ thề thốt:

"từ nay tôi chỉ biết nàng thôi,

mười ước, mười mơ vẹn cả mười

trao cả linh hồn cho trọn nghĩa,

cho nàng vui mãi những ngày vui!"


Vì khi đã yêu, đã thắm thiết, người tình đã là lẽ sống, thì nàng đã là tất cả:

“... hỡi nàng thần tượng của lòng ta

ta kính yêu nàng đến thiết tha..." (Chuyện Của Nàng)


Trong thơ Diên Nghị, ngoài tình-yêu, thiên nhiên được nhà thơ khoác lên lớp áo mộng mị và cả hiện thực của thi ca, vì thân lính chiến sống với núi rừng, sông hồ thường trực hơn là với người yêu. Ngày Xuống Muộn cũng khiến hồn thơ man mác, khi ở trong rừng sâu giữa hoa lá và thiên nhiên lành dữ chưa biết:

"Giữa đội đường hỏi bướm / Cánh bướm mãi đùa hoa

Hỏi rừng lá bao la / Gió Trường sơn vi vút

Ngắm nhìn thân gỗ mục / Xót thân phận rã rời

Anh cất tiếng gọi người / Đàn thú muông lẩn trốn

Rừng mênh mông, ngưng đọng

Anh lạc bước, nguôi quên

Dòng suối ngủ im lìm / Đóa dã lan hờ hững

Còn một ngày xuống muộn / Bỗng dưng thương mặt trời..."

Giữa núi rừng, nhìn cảnh vật, nhà thơ khoác áo lính nhung nhớ người yêu:

"Đối diện ngọn núi cao / Một ngày mấy buổi

Sáng nắng trong, núi gần gũi

Chiều mù sương, thấp thoáng, xa dần

Dáng núi quen thân / Đêm trăng, ra sân ngắm núi

Vằng vặc trăng thu, cõi trời mông muội

Nỗi buồn tôi - hoang vu

Một ngày nay buổi/ Ngắm núi lặng câm

Mùa xuân về cây núi xanh non

Mùa hạ đến, núi vàng úa cỏ

Dải mây lụa thướt tha cánh gió

Quấn quýt đầu non / Thanh thoát lời ru

“Sống cạn núi mòn”

Lòng chẳng cạn, núi chẳng mòn

Thề ước / Điều tôi mong có được

Dung nhan em/ Như núi"

(Núi)

Qua bài Hoa Cà Lá Mướp, nhà thơ đã dùng hoa trái thiên nhiên để tỏ tình với người nữ và những người thân:

"Tháng Giêng cà lố trái / Mướp mới chớm nụ vàng

Con trâu đầm dưới bãi / Quạ kêu vang xóm làng

Chuông rền xao động đất / Tháng Giêng nắng gay gắt

Loa gọi nứt đất bằng / Băn khoăn mẹ nhủ rằng:

Lệnh trên ban gọi lính!

Anh ba lô lên tỉnh / Em dắt trâu xuống đồng

Mắt lệ nhìn bịn rịn / Tiễn nhau qua bờ sông

Nước chảy trắng một dòng / Sao tình ta đợi bến?

Cỏ cây buồn quyến luyến / Em nghẹn thốt nên lời

Tháng Giêng lại nữa rồi / Tháng Giêng cà lố trái

Anh không về cắt hái / Hoa quả đợi khơ vàng

Anh thương mẹ, nhớ làng / Anh quên em răng được!

Bướm về thăm giàn mướp / Chim nhắc chuyện ngày xưa...

Buồng hương dáng ngẩn ngơ / Em như chim lẻ bạn

Năm ni trời đại hạn / Đồng cháy lúa khô cằn

Cối gạo hẫm đêm trắng / Giọng hị run mái lá

Con trâu gầy tơ tả/ Cái cày gãy làm đôi

Giặc dã vẫn chưa nguôi / Đạn rền khuya quạnh quẽ

Em là cầu Thê Thủy / Em là quán thu phong

Ngày tháng mỏi mòn trông / Chinh du hề xứ khứ ...

Dù ai đem tình tự / Dù ai nói ngả nghiêng

Mặc kệ miệng láng giềng/ Em chờ anh mãi mãi

Giêng Hai chừ đã lại / Cà đơm trái ra bông

Mướp chín quả vàng song/ Đợi anh về anh hái

Đàn trâu đầm dưới bãi / Lúa được trải vàng đồng

Anh lập nhiều chiến công / Để cà tươi mướp ngọt".

1955

(Xác Lá Rừng Thu)

Đã quen núi rừng làm bạn, nên khi nhận lệnh thuyên chuyển, nhà thơ chiến sĩ không khỏi nhung nhớ không-gian đã thân quen và ngạc nhiên trước bình nguyên vùng châu thổ sông Cửu:

"Lần đầu nhận lệnh đi châu thổ

Đất lạ, người xa, cũng ngậm ngùi

Lòng bỗng hoang mang thời bé nhỏ

Đêm nằm lẫn lộn nỗi buồn vui...

Qua phà Mỹ Thuận, qua Sa Đéc

Mây trắng bồng bềnh hướng Vĩnh Long

Cây mạ trổ đồng xanh thôn ấp

Nắng lồng bóng nước, sóng Tiền Giang

Lớp dân quân cùng đuổi giặc

Giặc tàn, quốc lộ 4 thênh thang

Xe lên, xe xuống, chen dồn dập

Ửng nắng bình minh ấm phố phường

Đò chợ, bến sông, người tấp nập

Dòng xuôi, sông đục lớp phù sa

Lao xao sóng nước, nhà cao thấp

Trường mới, sân vang tiếng học trò

Đàn bướm vẫy vờn hàng dâm bụt

Bếp nhà ai thơm gạo Nàng Hương

Khói lam chiều cuộn cao vun vút

Đã hết, quê ta khói lửa buồn...

Anh về trẩy hội cùng em đó

Trăng nước Cần Thơ, tỏa rạng trời

Đêm vọng u hoài, câu vọng cổ

Dạt dào sóng dạt, lục bình trôi

Ngày mai tan hội, anh đi tiếp

Châu Đốc, Ba Xuyên, ngược Kiến Hòa

Sông rộng, đồng dài, xanh lứa lúa

Yêu quê hương ấy bốn mùa hoa

Thân trai, trận mạc, chân chưa mỏi

Núi cách, sông ngăn, vẫn khát thèm

Thiếu vắng mùa thu trong biến đổi

Mà hồn thu đọng ở mắt em"

(Châu Thổ).

Diên Nghị là một nhà thơ quân đội miền Nam, và là một quân nhân đa tình, với người yêu, với thiên nhiên và chung thủy với quê-hương, với mẹ già và bạn hữu, đồng đội!

“Dặm đường ta đang đi / Mấp mô đèo, sauối, dốc,...

Gió sương buồn cô độc / Bàng bạc ánh trăng khuya

(...) Có người thèm Cao, Rộng / Mơ ước hóa thành chim

Nhưng vẫn ôm cuộc sống / Nan náu cạnh bên mình

Chúng ta là chiến sĩ / Đi mãi đường vẫn xa...

Chớ bao giờ nản chí, / Hồn mộng giấc phù hoa

Đi tới cùng tới đích, / Mặc non nước mênh mông,

Mặc gió mưa lận đận, / Quyết vượt để thành công...”

(Dặm Đường)

Nguyễn Vy Khanh

Văn Học Miền Nam 1954-1975, Quyển hạ
Nguyễn Publishings, 2018

=================






Cùng Tác Giả:

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ