Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2022

đọc thêm (2) : " Nguyễn Văn Trung [ 1930- / Canada ] -- t rích: https://phannguyenartist.blogspot.com>

 


Wednesday, 25 December 2019

Nguyễn Văn Trung















Nguyễn Văn Trung

(26.9.1930 - .......) Hà Nam
Nhà giáo , Nhà văn
Bút danh khác: Hoàng Thái Linh, Phan Mai











Lục Châu Học




Người trí thức không phải là người có kiến thức đại học hoặc sau đại học, mà là người có kiến thức chuyên sâu nhờ đọc sách và kinh nghiệm tiếp xúc. Thực ra, điều cốt yếu đáng nói không phải là vốn kiến thức, mà là thái độ trí thức đối với các vốn ấy và, nhất là, đối với những vẫn đề cuộc sống trước mặt đặt ra.


NGUYỄN VĂN TRUNG





















Tiểu sử

Nguyễn Văn Trung sinh ngày 26/9/1930, là nhà giáo, nhà văn - triết Việt Nam, 
bút hiệu khác: Hoàng Thái Linh, Phan Mai. 
Sinh tại làng Thanh Hương, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, trong một gia đình công giáo đông con. 
Cha là Nguyễn Văn Tuynh, thầy thuốc Bắc và mẹ là bà Thiệu Thị Tốt. Thuở nhỏ học trường dòng Puginier ở Hà Nội. 
Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, tản cư về Hà Đông học ở chủng viện Hoàng Nguyên. 
Đến 1950, trở lại Hà Nội theo ban tú tài văn chương ở trường Chu Văn An. Năm 1951, đỗ tú tài I, được nhà dòng cấp học bổng du học ở Âu Châu. 
Đến Toulouse rồi sang Bỉ học đại học Louvain, đậu cử nhân triết học, theo ban tiến sĩ triết học phần I. Cuối năm 1955 về Sài gòn, dạy triết ở trường Chu văn An. 
1956 kết hôn với cô Trần Thị Minh Chi. 
Từ 1957, dạy triết tại đại học Huế. 
1961 trở lại đại học Louvain trình luận án tiến sĩ và lấy bằng Tiến sĩ triết học, về nước (1961) dạy triết và văn ở đại học Văn Khoa Sài gòn. 
Khoảng 63-64, dạy đại học công giáo Đà Lạt. Một thời gian sau, ông bị "đuổi" khỏi đại học công giáo vì ảnh hưởng "độc hại" của cuốn Ca tụng thân xác trên sinh viên. 
Sau 1975, ông ở lại Đại học Văn khoa, nhưng các giáo sư miền Nam cũ không được dạy ba môn Văn, Triết, Sử nữa, ông chuyển sang nghiên cứu. 
Năm 1993, sang định cư ở Montréal, Canada.

(theo Nhà phê bình văn học Thụy Khuê)













Sách đã xuất bản






Sách giáo khoa:



1
Luận lý học
(tủ sách Á Châu, 1957)




2
Đạo đức học
(tủ sách Á Châu 1957)



3
Luận triết học tập I
(nhà xuất bản Nam Sơn)



4
Phương pháp làm luận triết học
(nxb Nam Sơn)








Tiểu luận:





Nhận định I
(nxb Nguyễn Du, 1958)




Nhận định II
(nxb Đại học 1959)




Nhận định III
(nxb Nam Sơn, 1963)




Nhận định IV
(Nam Sơn, 1966)




Nhận định V
(Nam Sơn, 1969)




Nhận định VI
(Nam Sơn, 1972)







Lý luận văn học:





Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết
(Cơ sở xuất bản Tự Do, 1962)





Lược khảo văn học tập I
(Nam Sơn 1963)




Lược khảo văn học II
(Nam Sơn, 1965)



Lược khảo văn học III
(Nam Sơn 1968)






Văn học và chính trị:


1
Chủ nghiã thực dân Pháp ở Việt Nam thực chất và huyền thoại
(Nam Sơn 1963)




2
 Chữ và văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc
(Nam Sơn, 1974)




3
Trường hợp Phạm Quỳnh
(phỏng vấn những người viết sách báo đương thời với Phạm Quỳnh, Nam Sơn 1974)




4
Chủ đích Nam Phong
(Trí Đăng, 1975)




5
Vụ án truyện Kiều
(tập hợp những bài viết trong vụ tranh luận về truyện Kiều giữa Ngô Đức Kế và Phạm Quỳnh năm 1924, in 1972)








Triết học:



1
Triết học tổng quát
(Vĩnh Bảo, 1957)




2
Ca tụng thân xác
(Nam Sơn 1967)





3
Hành trình trí thức của Karl Marx
(Nam Sơn 1969)




4
Đưa vào triết học
(Nam Sơn 1970)




5
Góp phần phê phán giáo dục và đại học
(Trình Bày, 1967)




6
Ngôn ngữ và thân xác
(Trình Bày, 1968)




7
La conception boudhique du Devenir
(Xã Hội, 1962)




8
Danh từ triết học 
(làm chung với LM Cao Văn Luận, Đào Văn Tập, Trần Văn Tuyên, LM Xuân Corpet (nxb Đại học 1958)








Tôn giáo:




1
Biện chứng giải thoát trong Phật giáo
(nxb Đại học Huế, 1958)




2
Người công giáo trước thời đại
(nhiều tác giả) (Đạo và Đời, 1961)



3
Lương tâm công giáo và công bằng xã hội
(Nam Sơn, 1963)








Sau 1975:




1
Câu đố Việt Nam
(nxb TP Hồ Chí Minh, 1986)




2

Những áng văn quốc ngữ đầu tiên:
Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản
(Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh, 1987; nxb Hội Nhà Văn tái bản)




3

Về sách báo của tác giả công giáo thế kỷ XVII- XIX
(nhiều tác giả, nxb TP Hồ Chí Minh 1993)








Bản thảo soạn sau 75, chưa in:





Lục châu học


Ngôn ngữ và văn học dân gian


Ăn mặc theo truyền thống Việt Nam


Đạo chúa vào Việt nam


Hồ sơ về hàng giám mục Việt Nam


Trương Vĩnh Ký con người và tác phẩm


Nhận định VII, VIII.


Ở hải ngoại, viết thêm Nhận định IX và X






Ngoài những tác phẩm liệt kê trên đây còn hàng trăm bài báo đủ mọi thể loại, in trên các báo hàng ngày như Tin sáng, Dân chủ mới, Hoà bình... hoặc các tạp chí như: Văn học, Bách khoa, Đại học, Sáng tạo, Thế kỷ XX, Đất nước, Nghiên cứu văn học, Văn, Sống đạo, Hành trình, Thái độ, v.v... chưa in thành sách.





*







Sau 54, ở miền Nam một số giáo sư đại học như Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan (Nguyên Sa) v.v... đã thực sự dựng nền móng cho môn triết học Tây phương. Để giảng dậy, họ phải dịch những danh từ triết ra tiếng Việt và viết sách. Trần Thái Đỉnh và Nguyễn Văn Trung là hai người đã có công lớn trong việc phổ biến triết học hiện đại trong đại học và trong tác phẩm văn học, với lối viết trong sáng, dễ hiểu. Trần Thái Đỉnh giới thiệu các lý thuyết triết học, chủ yếu là triết học Kant và triết học hiện sinh. Nguyễn Văn Trung áp dụng triết học vào các địa hạt như phê bình văn học, phê bình xã hội học, nhận định tôn giáo, nhận định lịch sử.

*

Về mặt triết học thuần túy, Nguyễn Văn Trung có hai cuốn tiêu biểu: Ca tụng thân xác(1967) và Ngôn ngữ và thân xác (1968).

Ca tụng thân xác được viết dưới ngòi bút của một triết gia. Ông dùng hiện tượng luận để phân tích vấn đề thân xác, xưa nay vẫn bị khinh miệt, đặc biệt trong tôn giáo: Theo ông, đời sống tu trì có ba kẻ thù chính: "Satan, Ma quỷ cám dỗ thế gian và xác thịt". Trong ba kẻ thù này xác thịt nguy hiểm nhất vì là nội thù.

Cách đề phòng hữu hiệu nhất là phải khủng bố thường xuyên xác thịt bằng cách hãm mình, ăn chay và đánh tội.

Một đức tu như thế nằm trên quan niệm nhị nguyên về con người: phân biệt tinh thần với thể xác, có từ thời cổ Hy Lạp; coi trọng đời sống tinh thần, còn vật chất và thân xác bị coi như những chướng ngại vật ngăn cản con người hướng thượng.

Sự khủng bố thể xác là một thứ "sa đích đạo đức". Thân xác bị lãng quên, bị bỏ quên, con người đâm ra không biết gì về thể xác của mình: Con người xa lạ với thể xác của mình. Triết học hiện đại (hiện sinh) cho rằng không thể tách rời thể xác với tinh thần: Khi ốm đau, đói khát, thì tinh thần cũng chịu, không thể minh mẫn mà suy nghĩ được, cho nên: Tôi là thể xác tôi. Do đó có thể nói: con người hiện diện ở đời bằng thân xác, nhưng lại ở trong một tình trạng vong bản vong thân thường xuyên, nghiã là quên mình vì tâm trí lúc nào cũng ở nơi khác, ở đâu đó, chỉ chăm chú đến những đối tượng ngoài mình.

Vì vậy con người cần phải "khám phá" lại mình, khám phá thân xác, lúc ốm đau đói rét, lúc soi gương, lúc xấu hổ e thẹn... để thấy rằng "thân xác là một thực tại mở".

Biện chứng mở giải thích vấn đề dục tính và đưa đến kết luận: thân xác là một giá trị. Ca tụng thân xác là ca tụng con người. Không chỉ có tinh thần mới thiêng liêng, thân xác cũng thiêng liêng. Vấn đề không phải là chối bỏ hay hủy diệt thân xác, nhưng phải làm sao đảm nhiệm được một cách đích thực sứ mệnh làm người trong thân phận của mình, là một vật có thân xác.

Nguyễn Văn Trung viết Ca tụng thân xác với chủ đích tố cáo những nền văn minh, những chủ nghiã duy thần, duy linh, duy tâm giả dối nói chung trên trái đất và tiếp theo đó ông viết Ngôn ngữ và thân xác để trình bày vấn đề thân xác nhìn từ hoàn cảnh riêng biệt của Việt Nam.

Trước hết ông nêu vấn đề: Có tư tưởng Việt Nam hay không? Nếu có thì nó nằm ở chỗ nào? Để tìm hiểu tư tưởng Việt Nam, ông nêu câu hỏi: Chúng ta có triết học hay không?

Và ông đề nghị: nên dùng chữ triết lý để chỉ định triết lý như một thái độ sống bao hàm một quan niệm sống, và triết học để chỉ định triết lý như một tri thức có hệ thống về cuộc đời.

Như vậy triết lý là thái độ sống, thì có thể là của một cá nhân hay một cộng đồng; còn triết học là một tri thức có hệ thống thì bao giờ cũng chỉ là của một cá nhân, như Triết học Aristote, triết học Kant, triết học Khổng Tử...

Kết luận: người Việt Nam có triết lý mà không có triết học.

Tại sao?

Ông giải thích: Vì sự lệ thuộc văn hoá ngoại bang trong nhiều thế kỷ: Sĩ phu Việt chống Tàu, nhưng chấp nhận và sùng bài ý thức hệ Nho giáo, trọng sách thánh hiền, không dám tự nghĩ, tự sáng tạo. Đến thời Pháp thuộc, vần đề cũng lại như thế: Trí thức Việt chống Pháp nhưng lệ thuộc vào văn hoá tư tưởng của Pháp. Và đó cũng là vấn đề chung của các nước nhỏ bên cạnh nước lớn như Bỉ, Thụy Sĩ, Luxembourg bên cạnh Pháp, Đức. Cho nên, chúng ta chỉ có triết lý dân tộc.

Vậy triết lý ấy nằm ở đâu?

- Ở trong ngôn ngữ.

Những triết gia theo hiện tượng luận như Heidegger, coi ngôn ngữ như "cái nhà, đền thờ của hữu thể". Con người hiện diện bằng thân xác, do đó, ngôn ngữ và thân xác là hai yếu tố cấu thành nên tư tưởng dân tộc Việt Nam và ông đã dùng hiện tượng luận để phân tích vị trí của thân xác trong hệ thống ca dao, tục ngữ và ngôn ngữ tục của người Việt.


Về lý luận phê bình, Nguyễn Văn Trung là một trong những người đầu tiên đã giới thiệu và xử dụng lý luận văn học Tây phương một cách có hệ thống. Tác phẩm tiêu biểu của ông trong địa hạt này là bộ ba cuốn Lược khảo văn học.

Lược khảo văn học, Tập I: Những vấn đề tổng quát, sườn dựa trên những câu hỏi mà Sartre đề ra trong tác phẩm Qu'est- ce - que la littérature (Văn chương là gì?): Viết là gì? Viết cái gì? Tại sao viết? Viết thế nào? Viết cho ai? Sartre đặt câu hỏi và trả lời những câu hỏi ấy trong bối cảnh ngôn ngữ và xã hội phương Tây.

Nguyễn Văn Trung trả lời những câu hỏi ấy trong bối cảnh Việt Nam. Ông tìm cách định nghiã văn chương, lấy ngôn ngữ văn chương Việt Nam làm đối tượng, và giải thích cho độc giả Việt Nam, chưa quen với lối phê bình dựa trên nền tảng triết học.

Lược khảo văn học, Tập II: Ngôn ngữ văn chương và kịch, (1965), bàn về công dụng của văn chương, giới hạn địa bàn trong các thể loại: thơ, tiểu thuyết và kịch, và Nguyễn Văn Trung xác định: muốn tìm hiểu văn chương một cách quy mô, thì phải dựa trên những phương tiện ngữ học. Tiếc rằng ở miền Nam, thời ấy, ngữ học chưa thực sự phát triển, cho nên khó có thể đi đến việc tìm hiểu sâu sắc các tác phẩm văn học.

Lược khảo văn học, Tập III: Nghiên cứu và phê bình văn học, (1968), Nguyễn Văn Trung trình bày quan niệm tìm hiểu tác phẩm như một kiến trúc ngôn ngữ. Đối chiếu những quan niệm phê bình cũ với những quan niệm mới và nói lên giới hạn của phê bình văn học.

Lý luận phê bình của Nguyễn Văn Trung thật sự cần thiết cho nền văn học miền Nam và đã mở cửa cho một phương pháp phê bình hoàn toàn mới lạ, so với lối phê bình tiền chiến, như phê bình giáo khoa của Vũ Ngọc Phan, phê bình ấn tượng của Hoài Thanh, kể cả lối phê bình mác-xít của Trương Tửu. Đặc biệt Nguyễn Văn Trung giới thiệu các trường phái phê bình mới như phê bình ý thức, phê bình mác-xít, phê bình phân tâm học, vv... Tuy nhiên, ở thập niên 1960-1970, Nguyễn Văn Trung cũng chỉ cập nhật được những dòng tư tưởng đương thời, tức là dừng lại ở trường phái hình thức Nga qua phương pháp phân tích ngữ học của Roman Jakobson. Những khám phá của các trường phái triết ngữ học Đức, mỹ học Bakhtine, ký hiệu học (Roland Barthes), vv... dường như chưa có mặt tại miền Nam, trước 1975.



Bộ sách Nhận định, vừa là tên sách (10 tập) vừa nói lên chủ đích của tác phẩm là "phản ảnh những chặng đường tìm kiếm suy tư".

Nói khác đi: nhận định có nghiã là nói lên những suy nghĩ của mình về vấn đề này hay vấn đề khác. Và Nguyễn Văn Trung đã dùng hiện tượng luận để mổ xẻ và đưa ra những ánh sáng mới về các đề tài như: Thông cảm, E lệ, Hối hận, Cái nhìn, Tự tử, v.v...

Vì thế, những nhận định của ông trên nhiều lãnh vực: văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, chính trị... luôn luôn có tính thuyết phục cao.

Nhận định phản ảnh tư tưởng và phong cách của Nguyễn Văn Trung -dù đồng ý hay không đồng ý với ông- cũng phải công nhận ông có ba đặc điểm: óc phê bình, óc sáng tạo và cái nhìn triết học đào sâu tới nguồn cội của vấn đề. Chính ở óc phê bình và tranh luận mà Nguyễn Văn Trung có lắm "kẻ thù" trong mọi địa hạt chính trị cũng như tôn giáo.


Phần văn học và chính trị, chủ yếu đặt trên vấn đề phê bình nhóm Nam Phong và Phạm Quỳnh. Nguyễn Văn Trung cho rằng: Vì Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong đề cao truyện Kiều, cho nên Ngô Đức Kế mới phản bác truyện Kiều. Sự phản bác này là để chống chủ trương theo Pháp của Phạm Quỳnh và nhóm Nam Phong. Nếu Phạm Quỳnh không đề cao truyện Kiều mà đề cao Hoa Tiên, thì Ngô Đức Kế cũng sẽ công kích Hoa Tiên. Do đó vụ án truyện Kiều, theo Nguyễn Văn Trung, là một vụ án chính trị chứ không phải văn học.

Cuốn Chủ đích Nam Phong, mục đích tố cáo Phạm Quỳnh chủ trương theo Pháp trong khi các trí thức khác như Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường... đã khẳng khái chống Pháp.

Người ta có thể đồng ý hay không đồng ý với ông trên lập luận này, nhưng một mặt khác, dù Nam Phong có nhận tiền trợ cấp của Pháp và do Pháp chỉ định đường lối, cũng không thể gạt bỏ những đóng góp tích cực của Nam Phong trong giai đoạn đầu của văn học quốc ngữ.

Và Phạm Quỳnh như chúng tôi đã có dịp chứng minh, là một nhà ái quốc, đã sang Pháp cảnh báo chính sách thực dân, định bỏ hẳn tiếng Việt trong các trường tiểu học để chỉ dạy tiếng Pháp, như họ đã áp dụng ở châu Phi. Phạm Quỳnh thành công qua bốn bài diễn văn tâm huyết đọc trước cử toạ trí thức tại Paris năm 1922, nhắm vào trọng điểm truyện Kiều. Ông nói về cái hay của ca dao và truyện Kiều, hai kho tàng vô giá của dân tộc, không thể dịch sang tiếng Pháp mà không mất đi phần lớn giá trị và người Pháp thực dân không đọc, không hiểu. Phạm Quỳnh giới thiệu bản dịch truyện Kiều của Nguyễn Văn Vĩnh, để nếu in ra được, người Pháp có thể đọc để hiểu một phần nhỏ cái hay của tiếng Việt qua một nhà thơ lớn, mà công lao đối với quốc âm không khác gì công lao của Rabelais đối với chữ Pháp. Đó là chứng từ không thể chối cãi được về lòng yêu nước của học giả Phạm Quỳnh, nhất là việc giữ cho tiếng Việt được trường tồn trong hoàn cảnh chúng ta có thể mất tiếng nói bất cứ lúc nào trước chính sách thực dân, và đó là một trong những yếu tố chủ chốt khiến 2 năm sau (1924) người Pháp cho mở những trường tiểu học ở Bắc và Trung, học thuần túy tiếng Việt trong ba năm, để thi bằng Sơ học yếu lược.


Sau 1975, Nguyễn Văn Trung chuyên hẳn sang nghiên cứu. Năm 1987, ông tìm thấy đoản thiên tiểu thuyết viết theo lối Tây phương sớm nhất: Thày Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Khám phá này đặt lại hoàn toàn vấn đề từ trước đến nay giới nghiên cứu vẫn coi Tố Tâm (1922) của Hoàng Ngọc Phách là tiểu thuyết đầu tiên viết theo lối Tây phương.

Bộ Lục châu học là một công trình nghiên cứu đồ sộ. Nguyễn Văn Trung khai quật trình bày và giới thiệu những tác phẩm văn học và sử học viết bằng chữ quốc ngữ xuất hiện ở Lục châu (Lục tỉnh Nam Kỳ) từ 1865 đến 1930 (phần lớn đi trước ngoài Bắc).

Lục châu học là công trình nghiên cứu cuối cùng của Nguyễn Văn Trung ở trong nước, chủ tâm đặt lại miền Nam vào quỹ đạo tiên phong của nền văn học quốc ngữ.

Tập bản thảo quý giá này được lưu chuyền trong giới nghiên cứu trong Nam, ngoài Bắc trong nhiều thập niên, đã ít nhiều thay đổi cái nhìn của những nhà nghiên cứu văn chương quốc ngữ, nhưng người ta thường trích dẫn hoặc diễn lại ý của ông mà không đề xuất xứ.

Cho đến nay Lục châu học vẫn chưa được in thành sách, nhưng đã có bản điện tử trên Internet, trên mạng http://nguyenvantrung.free.fr/

Thụy Khuê, 5/2007
Bổ sung ngày 30/7/2014

© Thụy Khuê 2007-2014



















LỤC CHÂU HỌC




Mục lục  



Mục đích công trình biên soạn này là từ việc trình bày một số tác phẩm văn hóa của một thời kỳ, tìm hiểu nếp sống của con người ở vùng đất mới. Chúng tôi đánh mốc thời kỳ này bằng hai biến cố chính trị tiêu biểu không có ý nghĩa rõ rệt về văn hóa: 1865, lúc Pháp mới chiếm Nam Kỳ, cho xuất bản "Gia định báo" và 1930, năm thành lập Đảng Cộng sản.


Chúng tôi cũng giới hạn việc trình bày sinh hoạt, văn hóa thời kỳ này vào những tác phẩm văn xuôi bằng quốc ngữ thuộc văn chương, sử ký và báo chí. Trong văn chương chỉ nói chuyện văn truyện, tiểu thuyết lịch sử, tạm gác các thể văn khác: tuồng, thơ, văn học dân gian.

Chúng tôi chia công trình biên soạn này thành hai giai đoạn:

Giai đoạn I: Góp phần phục hồi một mảng văn học bị bỏ quên, bỏ qua.

Chúng tôi nhận định mảng văn học thời kỳ này là một mảng văn học bị bỏ quên: vì không biết, và bị bỏ qua: có biết nhưng vì một cách đánh giá nên không xét đến.

Do đó, chúng tôi muốn phục hồi mảng văn học này, chứng minh nó có đó bằng cách giới thiệu chính bản văn của các tác phẩm tìm ra được. Chúng tôi đặc biệt chú ý thiết lập 1 thư mục sách, cố gắng thực hiện càng chính xác, đầy đủ bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Về báo, chúng tôi mong muốn sẽ thực hiện được thư mục mấy tờ báo có tiếng, lâu năm như Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Nam Kỳ nhựt trình, Nam Kỳ địa phận v.v...

Mảng văn học bị bỏ quên, bỏ qua này thực hiện ra là 1 mảng văn học phong phú, đa dạng và đi trước miền Bắc về nhiều thể loại. Vì thế chúng tôi nghĩ, sau khi đã được tiếp xúc với những tác phẩm văn, sử xuất bản ở miền Nam trong thời kỳ này, không thể không xét lại những luận điệu quen thuộc, trở thành chân lý hiển nhiên vẫn còn được công nhận, cho đến nay như "Tố Tâm" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết theo lối Tây phương hoặc "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim là cuốn sử bằng quốc ngữ đầu tiên soạn theo phương pháp Tây phương.

Tuy nhiên chúng tôi không có ý định thực hiện một công trình nghiên cứu văn học sử, sử ký hoàn chỉnh, đầy đủ, vì mục đích chính của chúng tôi là chỉ muốn dựa vào một số tác phẩm văn chương, sử ký, coi như tài liệu để tìm hiểu con người sống ở miền Nam, vùng đất mới. Vả lại, ngay trên bình diện nghiên cứu văn học sử, sử ký, cũng chưa thể làm ngay 1 công trình hoàn chỉnh vì rất thiếu tài liệu.

Nếu muốn làm việc nghiên cứu này một cách khoa học, nghiêm chỉnh, thiết tưởng không thể chỉ học dăm ba cuốn mà đã dám viết văn học sử thời kỳ này cũng như đọc năm sáu cuốn văn học sử của người khác, rồi viết cuốn thứ bảy. Những công trình tổng hợp như vậy, vì thiếu tư liệu, hoặc có tư liệu nhưng chưa được kiểm chứng về tác phẩm, tác giả, thời điểm viết, in, xuất xứ... (hiệu đính, chú thích) nên có thể chỉ là chép lại của nhau những sai lầm thiên kiến hoặc khẳng định vô bằng. Chúng tôi theo gương các bậc đàn anh như Nguyễn Văn Tố (miền Bắc), Lê Thọ Xuân (miền Nam), là những vị không ai phủ nhận đó là những người am hiểu nghiêm chỉnh sử, văn hóa nước nhà, đã viết rất nhiều bài biên khảo nhưng hình như rất ít để lại những sách, tác phẩm tổng hợp, vì các vị đó hiểu muốn thiết lập 1 bộ văn học sử, bộ lịch sử Việt Nam nghiêm chỉnh, tương đối đầy đủ bước đầu là thu lượm xác minh từng mảnh vụn (một cuốn sách, một tác giả, một chi tiết của cuốn sách, tác giả) ghép những mảnh vụn đó thành mảnh, nhiều mảnh thành mảng, nhiều mảng mới ghép thành bộ (như bộ chén, bát). Trong tinh thần đó, công trình nghiên cứu này chưa phải là công trình biên soạn văn học sử, sử ký, mà chỉ nhằm cung cấp tài liệu, một số mảnh vụn, mảng cho các công trình biên soạn văn học sử, sử ký sau này. Thực ra mục đích chính chúng tôi nhằm là thiết lập một hồ sơ giới thiệu những tài liệu văn, sử, báo chí phát hiện được để dựa vào đó mà đưa ra những giả thiết giải thích thuộc các ngành khoa học xã hội như ngôn ngữ học, xã hội học, dân tộc học, triết học, văn hóa... Chúng tôi gọi là hồ sơ vì bản thân vấn đề nghiên cứu dựa vào tài liệu hiện có, vẫn cần được bổ túc thêm nữa bằng những tài liệu sẽ được phát hiện.


Giai đoạn II: Lục châu học

Thực ra dù chúng tôi có dẫn chứng một số lượng phong phú tác phẩm tác giả trong thời kỳ này thì cũng chưa thuyết phục được những ai vì một lối nhìn đánh giá đã bỏ qua mảng văn học này, chẳng hạn Phạm Quỳnh. Do đó, phải tìm hiểu quan điểm văn học của những người gốc miền Bắc và xa hơn nữa nếp sống đã chi phối quy định quan điểm văn học trên, đồng thời tìm hiểu quan điểm văn học của các tác giả miền Nam và nếp sống của người miền Nam. Nói cách khác, việc tìm hiểu văn học đưa tới tìm hiểu xã hội với những nếp sống, suy nghĩ, lối nhìn đánh giá thực tại... và như vậy bó buộc chúng tôi phải đề ra mục tiêu thứ hai vượt khỏi lãnh vực khoa học: tìm hiểu con người ở vùng đất mới. Mối quan hệ giữa con người ở vùng đất mới và vùng đất cũ không phải chỉ thấy có ở Việt Nam. Trên thế giới nhiều nơi khác cũng thấy có như mối quan hệ giữa Âu Châu và Bắc Mỹ, Úc Châu.

Vùng đất miền Nam này, từ khi được khai phá cư ngụ cho đến nay, trải qua các triều đại, thể chế chính trị, đã mang nhiều tên gọi: Nam Kỳ, Nam Kỳ lục tỉnh, Gia Định Đồng Nai, Nam Trung, Lục Châu, Nam Việt, Nam Phần, Nam Bộ, Nam Bộ cũ v.v... Nếu tìm hiểu con người miền Nam từ quá khứ cho đến ngày nay thì có thể dùng từ Nam bộ (con người Nam bộ và Nam bộ học). Còn tìm hiểu con người miền Nam trước 1930 thì chỉ có thể dùng các từ đã được dùng trong các thời kỳ đó: Nam kỳ, Nam kỳ lục tỉnh, Gia Định, Nam Trung, Lục châu (Mục Nam Trung địa dư, trong Lục tỉnh Tân văn số 7, 26-12-1907, trang 3). Đọc các sách báo thời kỳ này, chúng tôi thấy từ Nam Kỳ đã được dùng thời Cựu trào, trước khi người Pháp chiếm đất này làm thuộc địa (1) nhưng từ này cũng như từ Nam kỳ Lục tỉnh thường được dùng về mặt hành chính, thương mại.

Xứ Nam Kỳ "Nam Kỳ là xứ nóng nực".

Đất Nam Kỳ "Nam Kỳ thương cuộc". Tướng Khôi nổi ngụy, đánh lấy mấy tỉnh Nam Kỳ. Chẳng bao lâu Nam Kỳ Lục tỉnh đều đầu phục tướng Khôi (Hạnh Cha Minh trang 137 và 141). Còn từ Nam Trung và nhất là từ "Lục Châu" thường thấy được dùng để nói về con người ở vùng đất mới này, về mặt tình cảm, trong các câu, bài có tính cách cổ động, kêu gọi, nói đến tình dân tộc, nghĩa đồng bang... "Người Nam Trung chúng ta", Cung tặng chư vị Nam Trung (Lục tỉnh Tân văn số 10) tuy cũng thấy dùng từ Nam Trung để chỉ những sinh hoạt thương mại: Nam Trung khách sạn, Nam Trung dược liệu.

Chúng tôi thấy từ Lục châu được dùng nhiều hơn từ Nam Trung. Chẳng hạn trong Lục tỉnh Tân văn số 2 (21-11-1907): "Xin chư vị lục châu phải rõ", "Bổn quán đốn thủ" (trang 2) các vị cao minh trong Lục châu đã cho rằng chữ quốc ngữ (trang 1). Ba tôi (3 người chủ trương Lục tỉnh Tân văn, chú thích của NVT) cúi xin Lục châu đồng tâm hiệp lực (số 3 trang 2).

Kính cáo: Cùng Lục châu quí vị đặng rõ. Chủ sự Nguyễn An Khương (số 4).

Chúc Lục châu quan sĩ quân dân (số 12). Lục châu chư quân tử. Kính gửi lời cho Lục châu quân tử đặng hay (số 24).

Trong Nam Kỳ địa phận số 6 (3-12-1908) bài Thương mại luận kêu gọi Minh Tân "Nghĩ vì trong Lục châu chúng ta bấy lâu nay (trang 39). "Nghe rằng trong lục châu này (bài khuyến thương mại số 12 ngày 11-2-1909)". "Nội lục châu, khi thừa dịp, thừa nhàn, ai ai đều vui lòng... sau này Lục châu cũng rõ... (số 269, 12-3-1914, trang 173, 174).

Người miền Nam gọi vùng phía Tây Nam của Nam Kỳ là Hạ châu. Sơn Nam đã ghi đúng "Khi gọi miền dưới, tức là nói đến vùng Hạ châu (Tân Gia Ba, Mã Lai hoặc Nam Dương)" (Đồng bằng sông Cửu Long hay Vă minh miệt vườn, trang 17) vì Trương Minh Ký trên đường đi Pháp (1889) có ghé Hạ châu, tỏ vẻ bất bình về cảnh người kéo xe (Chư quốc thại hội, 1891).

"Singapore cũng gọi là Hạ châu hay là miền dưới" (chú thích số 3 trang 10 trong "Hạnh Cha Minh"). "đã cậy người đi Hạ Châu" (Singapore) cũng kêu là Phố mới (SĐD trang 83).

Chúng tôi chưa xác định được từ "Lục châu" được dùng từ bao giờ và không còn được dùng nữa khi nào, nhưng chắc chắn đã được dùng trong thời kỳ chúng tôi muốn tìm kiếm. Vì chúng tôi chỉ tìm hiểu con người ở miền Nam trong thời kỳ này, thời kỳ mà người miền Nam gọi nhau là Lục châu chư vị, Lục châu quân tử... nên chúng tôi tạm gọi việc nghiên cứu nếp sống của người miền Nam thời kỳ này là Lục châu học. Dĩ nhiên chúng tôi không phải là những người đầu tiên đề ra việc nghiên cứu miền Nam. Người Pháp ngay từ lúc mới sang đã lập hội nghiên cứu Đông Dương (Le Comité Agricole et industriel de la Cochinchine transformé en Société des études indochinoises 1883, BSEI, Janv. - Juin 1933, P.24) và sau đó trong khuôn khổ Nghiên cứu Đông Dương, thành lập 1 ban nghiên cứu Nam Kỳ "En Octobre" (1926) une section dite des hautes études cochinchinoises ayant été fondée en sein de la société des études indochinoises, Louis Malleret, Les travaux de la Commission de la Grandière ou au Vieux Saigon BSEI, NS, Tome VIII, No 1 et 2, Janv - Juin 1933, p.43.

*

Mấu chốt của vấn đề là thái độ trước sự khác biệt về những yếu tố địa lý chính trị của vùng đất cũ, vùng đất mới quy định nếp sống, cảm nghĩ được phản ánh trong sinh hoạt văn hóa, văn học. Trong viễn tưởng nhìn nhận sự khác biệt, chúng tôi tìm hiểu xem những sinh hoạt văn hóa thời kỳ này của con người ở vùng đất mới đã dựa trên những lựa chọn tiêu chuẩn nào đưa đến những nét khác biệt nào so với những sinh hoạt văn hóa ở vùng đất cũ.

Những nét khác biệt này không phải chỉ có ý nghĩa giá trị riêng cho miền đất mới, mà còn có ý nghĩa giá trị chung cho cả nước (bao gồm vùng đất cũ) chẳng hạn như một khả năng trở về nguồn, tháo gỡ những nếp sống, làm ăn, suy nghĩ đã trở thành khuôn khổ trói buộc, như một khả năng có sức bật, khai phá sáng tạo. Đó là những đòi hỏi thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của một dân tộc.

Nhìn trong viễn tưởng diễn tiến lịch sử lâu dài, bất cứ dân tộc nào cũng chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu đáp ứng được đúng lúc kịp thời những quy luật đòi hỏi về cải tiến cách mạng, lột xác. Trở về nguồn, khai phá, sáng tạo về mọi mặt nhất là về mặt văn hóa tư tưởng, nghĩa là đáp ứng được đòi hỏi Đổi mới.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cuộc Nam tiến đánh dấu một bước ngoặt thật quan trọng, không phải chỉ về mặt kinh tế và cả về mặt văn hóa.

Đi vào miền Nam, vùng đất mới không phải chỉ tìm thấy một mảnh đất hoang trù phú để làm ăn sinh sống dễ dàng, ổn định hơn, mà còn tìm thấy một không gian văn hóa trống, rộng tạo điều kiện thuận lợi cho việc duyệt xét lại những giá trị văn hóa truyền thống: phải bỏ cái gì, giữ cái gì và bỏ giữ đều do tự nguyện, tự giác mà làm, thực hiện một trở về nguồn, với những cái nhơn loại, cái chân chất, cái đích thực về mọi phương diện, tạo ra một khởi điểm mới đi lên không những cho vùng đất mới, mà cả cho vùng đất cũ. Đó là nhiệm vụ lịch sử của con người ở vùng đất mới đối với cả nước, không phải chỉ về kinh tế mà cả về văn hóa.

Những người đã đi vào Nam lập nghiệp, đã Nam tiến, có lẽ không nghĩ quay trở về quê cũ sinh sống, nhưng cái thế đi lên, xu hướng phát triển của dân tộc trên bình diện cả nước lại bắt buộc phải quay trở về để tác động và làm biến đổi những cơ chế, lề lối nếp sống, không phải chỉ về phương diện làm ăn quản lý, lãnh đạo mà cả về phương diện nhận thức suy nghĩ, đánh giá.

Hướng giao lưu hai chiều, tác động qua lại giữa miền đất mới và miền đất cũ là một quy luật. Một biểu lộ của quy luật này là sự tác động hiện nay của văn hóa Bắc Mỹ vùng đất mới trên văn hóa Âu châu, vùng đất cũ. Người ở vùng đất cũ, thường tự coi là đại diện cho văn hóa truyền thống, là trung tâm văn hóa có tầm mức cả nước, không phải là địa phương. Địa phương là người ở các vùng châu Ô, châu Rí hay Gia Định Đồng Nai, Bình Trị Thiên.

Nhưng thực tế đã chứng minh nhiều lề lối làm ăn, lãnh đạo lối nhìn đánh giá về tư tưởng từ nơi những người tự coi là trung ương có tầm mức cả nước lại không thích hợp với những miền địa phương khác. Điều đó có nghĩa gì? Có nghĩa văn hóa tưởng là có tầm mức cả nước thực ra không vượt khỏi giới hạn của 1 địa phương, đồng bằng sông Hồng, nghĩa là lối nhìn của người ở vùng đất cũ cũng chỉ là cái nhìn của 1 địa phương. Do đó đặt ra nhiệm vụ thống nhất về văn hóa có tầm mức thật sự cả nước, làm cơ sở nền tảng cho thống nhất về chính trị.

Tóm lại, chúng tôi đi từ 1 số dữ kiện văn sử để tìm hiểu lối nhìn nếp sống văn hóa của người miền Nam trong viễn tưởng diễn tiến lịch sử. Nêu lên những khác biệt trong nếp sống văn học văn hóa của con người ở vùng đất mới so với vùng đất cũ không phải để đánh giá hơn kém mà để giải thích tại sao bằng cách chỉ ra những nguyên nhân chính trị, xã hội chi phối hoặc những điều kiện địa lý chính trị quy định. Sau đó đặt những khác biệt này trong diễn tiến lịch sử, nghĩa là coi những bộ mặt khác nhau như của cùng 1 con người, những khoảng khắc giai đoạn khác nhau của cùng một lịch sử văn hóa. Như vậy, không có vấn đề trung tâm với ngoại lệ hay chính thống với ngoại lệ, đặc biệt, và lấy trung tâm, chính thống làm chuẩn, cũng như không có văn hóa miền Bắc hay văn hóa miền Nam mà chỉ có văn hóa, văn học Việt Nam ở miền Bắc, ở miền Nam, vì mỗi nơi, mỗi thời kỳ có thể thể hiện một nét đặc biệt nào đó của văn học, văn hóa Việt Nam có ý nghĩa cho cả nước, không phải chỉ có ý nghĩa cho 1 địa phương. Chẳng hạn, tìm hiểu cách phát âm của người miền Nam, chúng tôi thấy đó là cách phát âm phù hợp với những quy luật ngôn ngữ dân tộc học (không phải là đúng hoặc hay hơn cả) nghĩa là diễn tiến những cách phát âm của người Việt Nam, phải đợi đến khi vào cư ngụ ở vùng cực nam này mới có điều kiện địa lý chính trị thuận lợi quy định một cách phát âm phù hợp với những quy luật ngôn ngữ dân tộc học. Hoặc một số giá trị đạo đức tinh thần trí thức nào đó miền Bắc giữ được, phát huy mà miền Nam ít thấy có, hay trái lại một số giá trị đạo đức, tinh thần trí thức khác theo truyền thống lại chỉ tìm thấy ở miền Nam; cả hai trường hợp, còn, không còn, có, không có đều do những yếu tố địa lý chính trị khác nhau quy định.

Như vậy đã rõ, không thể lấy tính cách khởi điểm, xưa cũ, lâu đời của một địa phương được coi là trung tâm chính thống làm chuẩn để xác định đánh giá lối nhìn, nếp sống văn hóa của các miền đất nước.

*

Thực hiện việc làm trên, không thể dùng lý luận để phê phán, đánh đổ một lý luận nhất là khi lý luận đó đã trở thành thiên kiến. Chỉ có tiếp cận với thực tế, và thực tế ở đây là tài liệu văn sử, báo chí phản ảnh lối suy nghĩ, tình cảm của người miền Nam hồi cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Chính sự tiếp cận với thực tế này bắt buộc phải duyệt xét lại những lối nhìn đánh giá so sánh hơn kém đưa tới những thái độ coi thường khinh miệt, bỏ quên, bỏ qua. Mặt dù chỉ đọc được một phần nào mảng văn hóa này, chúng tôi cũng thu lượm được một số dữ kiện để thiết lập những giả thuyết, giải thích nhằm hai hướng:

1) Giải tỏa một số thiên kiến về miền Nam. Chẳng hạn: báo chí thời kỳ này chỉ có tính cách thông báo các thông báo của Nhà nước hay mục đích thương mại làm ăn, không có tính cách văn chương; viết sai chính tả, văn nôm na trơn tuột như tiếng nói hàng ngày, không phải văn chương, lý luận con nít, "cù lần", thiếu truyền thống văn hóa dân tộc dựa trên nho học, chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp sớm, nặng nề, hiểu là mất gốc.

2) Nêu lên điều mà chúng tôi gọi là nhiệm vụ lịch sử của người miền Nam (dân chúng và giới trí thức trong giai đoạn này: trước khi Pháp chiếm Nam kỳ và hồi đầu Pháp thuộc) đối với ba yêu cầu căn bản: độc lập chính trị, thống nhất dân tộc và phát triển quốc gia. Do điều kiện địa lý chính trị ở vùng cực Nam thiết yếu mở ra với bên ngoài, miền Nam là tuyến đầu đụng độ với tư bản đế quốc phương Tây trong đà bành trướng của nó đồng thời tiếp cận với văn hóa phương Tây dựa trên khoa học kỹ thuật, đề ra một nhu cầu mới, nhu cầu phát triển cũng bức thiết như nhu cầu độc lập, thống nhất và lần đầu tiên đặt ra với những người có trách nhiệm lãnh đạo về mọi mặt. Cũng do cách đánh giá con người miền Nam về văn hóa dựa vào những điều kiện địa lý chính trị của vùng đất mới, người Pháp sau khi chiếm đóng Nam Kỳ, đã đề ra một chính sách văn hóa khác hẳn đối với miền Bắc. Trước những thực tế riêng biệt như vậy, người dân và trí thức miền Nam thời kỳ này đã phản ứng ra sao? Có đặt việc tìm hiểu vào hoàn cảnh lịch sử, địa lý chính trị của miền Nam thời kỳ kể trên mới nhận diện được những lựa chọn chính trị và văn hóa mà người đọc thấy biểu lộ qua sách báo thời kỳ này...

Sau cùng chúng tôi thú nhận khó khăn chính chúng tôi gặp là làm sao kiểm tra tài liệu, nhất là vì chúng tôi đề ra lề lối làm việc: dựa vào tài liệu mà lập luận, nêu giả thuyết. Những sách báo thời kỳ này, thư viện công kể như không có khả năng cung cấp đầy đủ tài liệu cần đến; Thư viện tư qua bao nhiêu biến cố thử thách nên ai còn giữ lại được gì thì coi sách báo đó quý như vàng, vì vàng mất đi thì có thể kiếm ra được, nhưng sách báo thì không. Như vậy làm sao biết ai có mà tìm đến, và tìm đến làm sao có thể đủ tin cậy; quý mến để cho mượn đọc, và chụp lại... Khi bắt tay vào làm công trình này, chúng tôi chẳng có một tài liệu gì, nên một số tài liệu mà chúng tôi giới thiệu trong tập này, hầu hết đều do một số vị tin cậy chúng tôi và hiểu biết việc làm này có khả năng đóng góp vào văn hóa cho dân tộc, nên đã không ngần ngại cho chúng tôi mượn tất cả những gì các vị đó có. Chúng tôi xin bày tỏ lòng cám ơn chân thành của chúng tôi đối với các vị đó.

Chúng tôi cũng xin đưa ra một lời kêu gọi các vị độc giả cho chúng tôi mua, mượn, chụp, in, sao chép tất cả những gì đã in ở miền Nam trước 1930 đặc biệt các tài liệu về báo chí, sách sử ký, truyện. Người đọc chắc hẳn chia sẻ với chúng tôi nỗi khổ tâm bực dọc vì phải đọc những tác phẩm dở dang hoặc bộ truyện gồm nhiều tập, chỉ biết 1 tập (bộ Gia Long tẩu quốc gồm 3 tập, ở đây chỉ giới thiệu được tập đầu). (2)

Sau cùng về mặt nhận thức, chúng tôi cũng xin thú nhận công trình nghiên cứu này trước hết là một bản tự kiểm. Do tiếp xúc với thực tế (ở đây là sách báo) chúng tôi bắt buộc phải duyệt xét lại những thiên kiến lập luận quan điểm của chúng tôi về nhiều vấn đề, đặc biệt về Miền Nam, những thiên kiến mà chúng tôi đã tiếp thu được từ xã hội... Vì thế, nếu bạn đọc thấy những trình bày dưới đây đụng tới những ý nghĩ, quan điểm của mình, thì xin hiểu cho rằng chính chúng tôi đã đụng trước tiên với thực tế qua sách báo thời kỳ này, khác hẳn với những gì mình vẫn nghĩ, và sự đụng độ này, một sự đụng độ bắt buộc phải duyệt xét lại những lề lối suy nghĩ xưa cũ của mình đã là một chất xúc tác thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu, chịu đựng mọi khó khăn, vượt qua mọi cản trở để tiến hành bằng được công trình này vì chúng tôi tìm thấy một thích thú tinh thần, trí thức trong việc nghiên cứu tìm hiểu. Chúng tôi mong rằng những cố gắng của chúng tôi cũng sẽ đưa bạn đọc vào một hành trình ý thức, một tự kiểm, vì bạn đọc có thể đồng ý hay không đồng ý những giả thiết giải thích chúng tôi đưa ra, nhưng không thể không nghĩ ngợi duyệt lại trước một thực tế xuất hiện không như mình vẫn tưởng.

Phần thư mục văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930 do ông Bằng Giang, tác giả cuốn "Những mảnh vụn văn học sử" phụ trách. Chúng tôi nghĩ rằng thư mục này đóng góp thực sự cho những công trình tìm hiểu nghiên cứu trong tương lai làm sao thiết lập được một Thư mục thật đầy đủ, chính xác với những chú thích hiệu đính cần thiết về tác giả, tác phẩm... Đó là một việc làm công phu thế nào mà những ai đã tìm hiểu chút ít về tình trạng Thư mục thư tịch ở Việt Nam sẽ dễ dàng nhìn nhận khi đọc phần Thư mục của ông Bằng Giang.

Bản thảo này chúng tôi đã soạn xong từ năm 1986, nhưng vì quá dài nên chưa có điều kiện phổ biến. Lề lối làm việc là dựa vào tài liệu kiếm được, giới thiệu tài liệu đó: lược tóm tác phẩm, nhận xét, rồi sau cùng mới đưa ra một giả thuyết giải thích. Trong khuôn khổ rút gọn, chúng tôi buộc lòng bỏ một số tác giả, tác phẩm, bỏ tất cả phần lược tóm tác phẩm, trừ một hai trường hợp, về phần nhận xét cũng chỉ giữ lại những điểm chính, bỏ một số chương về tiểu sử tác giả, tình hình ấn loát phát hành... Chúng tôi cũng muốn giữ nguyên văn những trích dẫn nhưng điều kiện ấn loát tốn phí cũng không cho phép thực hiện được ước muốn trên.

Trong công trình biên soạn này, có phần giới thiệu tóm tắt tác phẩm, chúng tôi đã nhờ G.S Trần Thái Đỉnh lược tóm truyện Gioan Ngô Kim Thạch và Đạo Thiên Chúa ở miền Nam thuở ban sơ; và ông Thế Uyên lược tóm một số tiểu thuyết, sử, tiểu thuyết lịch sử; nhưng vì e ngại sách quá dài, nên buộc lòng phải tạm gác hầu hết mục lược tóm, chỉ giữ mục nhận xét. Ngay mục này, chúng tôi cùng sửa chữa thêm bớt bản viết của ông Thế Uyên. Phần ông Thế Uyên lược tóm và nhận xét gồm: Chăng Cà Mun, bốn truyện của Lê Hoàng Mưu, Chơn Cáo tự sự, Kim thời dị sử, Cours d'histoire annamite, Chuyến đi Bắc Kỳ, của Trương Vĩnh Ký, Sử ký Đại nam việt, An nam sử truyện, Nam việt lược sử, tích Tả quân Lê Văn Duyệt, Phan Yên ngoại sử, Giọt máu chung tình, Việt Nam Lê Thái Tổ, truyện Chưởng hậu quân Võ Tánh, Nam cực tinh huy, Cố Du, Cái án Cao Đài, Le Caodaisme của LaLaurette, Vilmont.

Xin chân thành cảm tạ giáo sư Đỉnh và ông Thế Uyên.

Tháng 10/1950

-----------------------

(1) Trong "Hạnh Cha Minh và Lái Gẩm tử vì đạo" của M. Đức, Tân định 1901, đoạn ghi lại buổi thẩm vấn Lái Gẩm năm 1848 chở các linh mục từ Singapore về bị bắt có câu trả lời của Lái Gẩm: "Tôi gặp các ông tại Phố Mới, các ông mướn tôi chở về đất Nam Kỳ" (trang 51).

(2) Hiện nay đã kiếm ra đủ cả ba tập.



(đọc tiếp)


Một mảng văn học bị bỏ quên



Nho học ở vùng đất mới


Diễn tiến chuyện văn xuôi quốc ngữ


Lịch sử Việt Nam nhìn từ miền Nam


Buổi sơ khởi đạo Thiêu Chúa ở miền Nam


Cao Đài: Đạo ở vùng đất mới


Miền Bắc dưới mắt một người miền Nam


Báo chí văn xuôi và lý luận


Một vài quy luật về sinh hoạt văn hóa ở vùng đất mới


Chính sách văn hoá của người Pháp và ảnh hưởng văn hóa Pháp


Những tiền đề về phương pháp luận


©  Nguyễn Văn Trung 1980, 2005











Phan Nguyen & Gs Nguyễn Văn Trung
Montreal 8.2019









BÀI VIẾT MỚI

Hướng về miền Nam Việt Nam


Sau 1975 tôi không còn lên tiếng công khai, thẳng thắn chân thành theo xác tín của tôi và những hiểu biết của tôi thời đó về những vấn đề thời cuộc. Nhưng không phải im lặng hoàn toàn, chỉ không công khai mà trong nội bộ, thường do yêu cầu nói theo quan điểm của mình, vì thế những phát biểu vẫn thẳng thắn và chân tình. Khi có chính sách đổi mới, tôi được nhà xuất bản Sự Thật đề nghị lên tiếng công khai về một vấn đề tôi đã biên sọan: Ðặt vấn đề Công giáo cho dân tộc, khác hẳn với trước 75 vấn đề dân tộc cho người công giáo. Có một tọa đàm 15 người do phía nhà xuất bản và tôi đề nghị. Trong cuộc tọa đàm đó, nhiều người về phía nhà xuất bản đã phát biểu thẳng thắng như Thiết Vũ nay đã qua đời: "Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, hàng loạt vấn đề phải đem ra đánh giá lại, suy nghĩ lại bằng chính cái đầu của mình. Ngay đến những vấn đề rất cơ bản như: "Ðảng ta bao giờ cũng đúng", "bảo vệ sự thống nhất của đảng như bảo vệ con ngươi mắt mình"... cũng cần phải suy nghĩ và đánh giá lại. Mục đích của sự đánh giá lại không có gì khác là phải tìm ra chân lý lẽ phải dẫn tới hành động cứu vãn được đất nước đang rơi xuống một cái vực không đáy, đang ở một thời kỳ tiền khủng hoảng; như Rosa Luxembourg đã viết cho Lenin: Tự do trước hết là tự do cho những người suy nghĩ khác với mình. Với ý nghĩ ấy tôi đã đọc tập "Vấn đề Công giáo đặt cho dân tộc" của Nguyễn Văn Trung. Anh Nguyễn Văn Trung đặt những vấn đề gì trong công trình này:

1. Công giáo VN có thực liên hệ mật thiết với thực dân đế quốc không?
2. Văn hóa Công giáo có thực lai căng mất gốc không?

Trên cơ sở giải đáp 2 vấn đề đó Anh Nguyễn Văn Trung đặt lại cho người đọc một cách nhìn khác, một cách đánh giá khác vấn đề Kito giáo ở VN. Cách nhìn ấy không chỉ nhằm thay đổi cách nhìn của cách mạng, mà của cả một dân tộc suốt cả mấy thế kỷ nay. Vấn đề lớn lắm chứ. Với 233 trang sách để giải đáp vấn đề rất lớn ấy tôi thấy anh NVT đã làm một việc táo bạo. Trước hết phải nói ngay đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc. Công phu ở chỗ sưu tầm trích dẫn tư liệu. Nghiêm túc ở cách lập luận và dẫn dắt đến kết luận: Nhìn nhận và đánh giá lại Kitô giáo và Kitô hữu ở VN." (in lại trong phần phụ lục cuốn Vấn đề Công giáo đặt cho dân tộc)

Về việc xuất bản cuốn Vấn đề Công giáo đặt cho dân tộc, linh mục Nguyễn Hưng, lĩnh ý tổng giám mục Sài Gòn, vận động dễ dàng được đủ số tiền in 20.000 cuốn đợt đầu, nhưng những biến cố Ba Lan đã đưa đến hậu quả bản thảo bị tịch thu ở nhà in và tôi được công an yêu cầu thu hồi những bản thảo đã phân phát.

Tôi lại trở về với phát biểu không công khai. Một nhóm đảng viên trẻ sinh viên cũ đang có nhiều day dứt về đảng họ theo, đề nghị tôi nhận xét về đảng cộng sản VN nghĩa là nói về đảng với đảng. Tôi có viết một bài nhằm đáp ứng yêu cầu của họ. Trong công trình biên soạn này có phần gọi là Quay về miền Nam gồm 3 chương sau:


1. Nhìn lại những lựa chọn đã qua. Viết theo yêu cầu của tạp chí Etudes Vietnamiennes Hanoi. Xin trích đoạn kết: "Tôi nghĩ rằng tình hình thực tế như bấy giờ, một phần dân chúng sống bằng ăn xin và ăn xin cả những người đã buộc phải bỏ nước ra đi, tất cả chúng ta đều đã bị lột trần, không ai còn nhân danh gì để phê phán người khác với bàn tay sạch... như vậy mọi phê phán theo tinh thần đổ tại người khác chỉ gây thêm phân hóa chia rẽ và do đó đưa đất nước này đến chỗ suy sụp hơn nữa mà thôi. Trái lại nên chịu ngồi lại với nhau, không phải để phê phán hoặc chỉ phản ánh cái tiêu cực mà để cùng nhau tìm hiểu tại sao đất nước lại đi tới tình hình hiện nay, tìm hiểu những điều kiện nguyên nhân khách quan nào đã quy định chi phối những lựa chọn căn bản có tính chiến lược lâu dài mà bây giờ mới thấy là sai lầm. Vấn đề không phải chỉ là ai thắng ai; mà tại sao miền Bắc đã thắng, miền Nam đã thua, và rút cục tất cả đều thua và thua chính mình. Hoặc nói cách khác, miền Bắc đã giải phóng miền Nam; nhưng xét về mặt nhận thức sau 13 năm có thể nói việc giải phóng miền Nam về chính trị đã giải phóng cả miền Bắc và miền Nam về nhận thức. Con đường đưa đất nước này đứng dậy đi lên, khỏi sa xuống vực thẳm, trút bỏ niềm tủi nhục mà mọi người đều cảm nhận khi xem tivi về Seoul 88 là trước hết nhận ra được những nguyên nhân khách quan nào đã đưa dân tộc đến thảm cảnh hiện nay, việc tìm hiểu giải thích một cách khoa học này không đưa đến phê phán kết án ai mà chỉ đưa đến một cảm nhận với niềm thông cảm và liên đới trách nhiệm."

2. Nhìn lại nền tự trị đại học ở miền Nam trước 1975, soạn thảo cho một hội thảo về giáo dục do trường đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh tổ chức. Xin trích đọan kết: "Vì thế nhìn lại nền tự trị đại học ở miền Nam trứơc 75 là đi tìm một hướng thoát khỏi tình trạng quan liêu bao cấp như trả lại cho giáo sư đại học quyền tự do giảng dạy, quyết định tuyển chọn nhân viên giảng huấn, trả lại cho giới bác sĩ, dược sĩ, luật sư nhà văn nhà báo không những quyền ra báo, mở văn phòng mà cả quyền lập các hội đoàn chuyên nghiệp để tự quản theo một nguyên tắc của xã hội dân sự: chỉ đồng nghiệp mới đánh giá được đồng nghiệp; và do đó mới có thẩm quyền chế tài từ cảnh cáo đến cấm hành nghề. Riêng ngành đại học, tự trị đại học không chỉ đảm bảo những điều kiện để phát huy đại học phát triển quốc gia về mặt kiến thức chuyên môn mà còn nhằm đảm nhận thực hiện việc đào tạo con người trí thức có thái độ trí thức như kẻ sĩ ngày xưa trong cách ứng xử với đời, đặc biệt trước những quyền lực chính trị kinh tế xã hội tôn giáo... tiêu biểu cho truyền thống đạo đức tinh thần dân tộc.
Tóm lại giáo dục đại học không chỉ có mục đích đào tạo viên chức nhà nước chỉ biết suy nghĩ làm theo chỉ thị từ trên. Chính trị là cái nhất thời, nay thế này, mai thế kia; cái vẫn còn trải qua những đổi thay chính trị là những giá trị đạo lý tinh thần của nhân loại và của quá khứ dân tộc. Một dân tộc không thể tồn tại nếu không có những con người là hiện thân sống động cho những giá trị tinh thần kể trên. Sứ mệnh cao cả của ngành giáo dục đại học là nhằm gây dựng nuôi dưỡng phát huy, bảo vệ nhân cách phẩm chất của nguời thanh niên mà sự phủ nhận là nguyên nhân chính sâu xa của sự trì trệ sa đọa về mọi phương diện."

3. Ðổi mới phải chăng là trở về với những cái cũ đã bị phủ nhận? Xin trích câu chót: "Bây giờ thấy nêu lên khẩu hiện đòi hỏi đổi mới. Nhưng cho đến nay chỉ nói nhiều về đổi mới trong kinh tế, chính trị mà ít nói hay chưa nói đến nền tảng của những sinh hoạt kinh tế chính trị là những tiêu chuẩn giá trị đạo đức. Về lãnh vực này không có gì mới vì đạo đức thời nào cũng cần có. Cho nên đổi mới ở đây không phải là sáng tạo ra một đạo lý nào khác mà chỉ là quay về với những giá trị đạo lý nhân loại trở thành truyền thống dân tộc đã bị phủ nhận ở miền Bắc sau 1945 và ở miền Nam sau 1975, một phủ nhận mà một đảng viên lão thành đã buồn phiền nói lên trong bài "Tâm sự với người Hà Nội" của Quang Lộc (Nhân Dân số 10328 ngày 03/10/1982).

Sau 75 tôi cũng tìm gặp những lãnh tụ các phong trào tranh đấu -đặc biệt trong giới Phật giáo, Công giáo đề nghị họ tự kiểm thảo tại sao để mất VNCH trong tinh thần nhìn nhận những khuyết điểm ảo tưởng về phần mình. Xin giới thiệu ở đây 2 trường hợp về những tranh đấu đưa đến việc xóa bỏ Ðệ Nhất Cộng Hoà và tạo điều kiện thuận lợi dẹp bỏ Ðệ Nhị Cộng Hoà.
Những suy nghĩ phân tích kể trên đều nhằm đóng góp cho những ý định đổi mới ở trong nước.

I. Silone, một nhà văn trong những người sáng lập đảng cộng sản Ý trước khi ra khỏi đảng nói với Togliatti, tổng bí thư đảng cộng sản Ý. "Cuộc chiến đấu sau cùng là cuộc chiến đấu giữa những người đảng viên và cựu đảng viên". Tôi thấy đúng hơn chính là giữa những đảng viên vẫn ở trong đảng. Gần đây tôi có viết bài giới thiệu nhật ký của một nhà thần học, Yves Congar, nổi tiếng vào thời kỳ những năm 1950-1970, ông bị cấm dạy học, xuất bản sách, đi lưu đầy. Trong nhật ký ông coi những người cầm quyền ở Roma đối xử với ông chẳng khác gì Gestapo của Ðức quốc xã nhưng ông vẫn thầm lặng chịu đựng, không bỏ đạo ra khỏi giáo hội cho đến một ngày thấy tên mình trên báo được mời vào ủy ban sọan thảo công đồng Vatican II. Tôi có gởi bài giới thiệu nhật ký của Yves Congar đăng trong nhiều báo ở hải ngoại và Công giáo dân tộc ở VN, cho những đảng viên mà tôi đã góp ý với họ nhằm đổi mới ở trong nước. Trong thư riêng cho họ, tôi viết: "Chị T, đảng cộng sản cũng đề ra một lý tưởng có những lý thuyết thể chế, những con người cụ thể với những tâm tình này nọ, vào thời kỳ khủng hoảng suy thoái, cũng thấy những thái độ tương tự như người Công giáo: Có người bỏ đạo ra khỏi giáo hội cởi áo dòng, hoặc một cách thầm lặng, hoặc lên tiếng tố cáo giáo hội, họ được những người thù ghét giáo hội hoan nghênh vì biện minh cho thái độ thù ghét của họ; hoặc vẫn ở lại trong giáo hội dòng tu, chịu đựng âm thầm những đau khổ bất công vì giáo hội, do giáo hội tạo ra cho mình, và đau khổ với giáo hội nghĩa là với những người khác trong giáo hội cũng đau khổ vì giáo hội như mình. Kinh nghiệm Công giáo cho thấy chỉ những người như Congar mới có thái độ đáng phục và thực sự xây dựng. Tôi biết chị và nhiều đảng viên khác vẩn giữ được thái độ chịu đựng trong thầm lặng, những đau khổ vì đảng, do đảng gây ra cho mình, cho đất nuớc dân tộc, nhưng vẫn kiên trì ở lại, mong thực hiện những thay đổi từ nội bộ, trong nội bộ, một giải pháp hiệu nghiệm mà ngay cả những người chống Cộng quyết liệt cũng công khai nhìn nhận không có con đường nào khác.
Tôi gửi chị và những người như chị chứng từ này của nhà thần học Congar để suy nghĩ."

Trong thời kỳ gọi là mở cửa, bạn bè ở nước ngoài về đọc những biên khảo của tôi đã nhận xét: Nhiều lối nhìn, phân tách của anh lỗi thời rồi. Ðúng thế, tôi bị cắt đứt với các trào lưu tư tưởng văn học phương Tây gần 20 năm. Nếu muốn những suy nghĩ của tôi thực sự hữu ích, tôi thấy phải ra nứơc ngoài học hỏi thêm làm những recyclages về thần học, triết học khoa học xã hội, văn học. Một lý do khác: tôi đang theo đuổi một công trình nghiên cứu về miền Nam hiểu như một vùng đất mới trong quan hệ với vùng đất cũ qua các cuộc di dân trong lịch sử, nay có cuộc di dân khác, từ vùng đất mới trong nước ra vùng đất mới ngoài nước, Bắc Mỹ mà tôi chưa biết gì hết, nên tôi cũng rất muốn tìm hiểu đặc biệt cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ. Nhưng nếu đi không về thì cũng bị cắt đứt với thực tế trong nước. Vậy phải đi đi về về. Tôi đi Canada cuối năm 1993 và năm nào cũng đi Hoa Kỳ; sau một thời gian tìm hiểu, tôi bắt đầu thấy được khả năng tiềm lực của cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ về kinh tế chính trị. Nhưng về văn học, tôi không khỏi ngạc nhiên trước hiện tượng ở Cali một số các nhà văn "mặc áo thụng vái nhau", phong cho nhau những chức vụ không hề có thời Việt Nam Cộng Hoà và nhất là phong cách chụp mũ tố Cộng là điều những người cầm bút đứng đắn thời Việt Nam Cộng Hoà thường né tránh để khỏi bị dư luận chê cười.

Vào năm 2000 đến tuổi 70, tôi viết 2 tập hồi ký:

- 1955-1975
- 1975-1995.


Tập I, tựa đề "Nhìn lại những chặng đường đã qua: Người cầm bút, kẻ bị cáo (1955-1975)", trong đó tôi trình bày những gì tôi viết đã gây ra những phản ứng đả kích, kết án loại trừ, từ phía những tổ chức giáo hội, truyền thông giáo dục xã hội, mặc dầu vậy, tôi vẫn viết được nhiều trong thời kỳ này (tức là thời kỳ 55-75). Tôi không thể không tự hỏi tại sao, và tôi thấy ngay giải đáp: Nhờ phong cách trí thức của những viên chức liên quan đến Bộ Thông tin-văn hóa-giáo dục. Vì có chính sách kiểm duyệt, tịch thu, vì lý do an ninh nên sách in ra phải kiểm duyệt, có giấy phép mới xuất bản được. Báo thì không phải kiểm duyệt, nhưng có thể bị tịch thu đưa ra toà. Trong khuôn khổ chính sách hạn chế tự do chính trị như vậy, nếu không xuất bản công khai, hợp pháp, vẫn có thể in ronéo, phổ biến bầy bán ngay cả trên các sạp báo và có thể bị tịch thu… Người cầm bút viết những điều cấm kỵ, phê phán chính sách này, chính sách kia của nhà nước, thậm chí họp nhau viết kháng thư phản đối, đăng trên báo mà không lo ngại về an ninh chính trị của bản thân gia đình bạn bè. Nói cách khác, viết phê phán phản kháng mà không sợ nhà nước.

Thời Việt Nam Cộng Hoà (1955-1975), những gì tôi viết thành sách đưa kiểm duyệt, cuốn được phép xuất bản, cuốn không, hoặc những bài báo sau gom lại thành sách đưa kiểm duyệt thường được phép, nhưng bỏ một số bài và có thể nói rõ những bài đó bị kiểm duyệt. Ðây là tình trạng chung, do đó người thời sau muốn tìm hiểu những người cầm bút thời kỳ 1955-1975 cần lưu ý tìm đọc không phải chỉ sách được xuất bản công khai hợp pháp mà cả những sách không xuất bản được, nhưng vẫn có và còn đó trong các tạp chí và chính những bài đăng trong các tạp chí không được xuất bản thành sách, mới phản ánh trung thực tâm tư người viết về thời kỳ họ sống. Việt Nam Cộng Hoà có hai thời kỳ -gọi là Ðệ Nhất, Ðệ Nhị Cộng Hoà- do những yếu tố chính trị quy định và người viết cũng phân biệt thành hai giới. Giới cầm bút trước 1955 tiếp tục sau 1955 qua cả hai thời kỳ Ðệ Nhất, Ðệ Nhị Cộng Hoà và có người tiếp tục viết ở hải ngoại mà không thay đổi bao nhiêu lối nhìn văn học, lập trường chính trị. Và giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới 10 tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Ðà Lạt, Ðà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sài Gòn như Vạn Hạnh, Minh Ðức v.v... Họ trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị, xã hội chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chiến tranh là thiết thân đối với họ vì bị động viên, đi quân dịch. Họ có tú tài nên nhập ngũ vào các trường đào tạo sĩ quan như Thủ Ðức, Ðà Lạt. Trừ Ðỗ Long Vân tốt nghiệp Ðại học ở Pháp, dạy Ðại học Huế đi trình diện ở trung tâm nhập ngũ, không xuất trình bằng cấp, làm binh nhì. Do đó, họ có một lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn lối nhìn của đàn anh họ viết từ trước 1963. Tự họ ra những tạp chí trong khuôn khổ đại học như tờ Tình Thương của trường Y khoa Sàigòn mà Ngô Thế Vinh là một trong những cây bút đã được biết đến, hoặc tờ Trâu Bò của một nhóm sinh viên chính trị kinh doanh Ðà Lạt. Họ tụ tập hát Tâm ca của Phạm Duy hay nhạc Trịnh Công Sơn, cùng nhau suy nghĩ về thân phận tuổi trẻ trong chiến tranh, tương tự thân phận trâu bò. Nhưng vì họ không phải trâu bò nên mới cảm nhận và viết ra những suy nghĩ của họ.. Hoặc vượt ra khỏi khuôn khổ trường học lập những nhóm như Việt, Cùng khổ, Ý thức, tạp chí Ngôn ngữ, tiếng nói quyết liệt và thâm trầm nhất của lớp trẻ Việt Nam. Khai Phá, đặc san văn nghệ của một nhóm cây bút trẻ miền Nam. Chim Việt, giai phẩm văn nghệ của bút đoàn Quảng Trị. Ðộng Ðất, tập san văn nghệ của một nhóm văn nghệ trẻ Tây Ninh. Văn Mới nguyệt san, chủ trương "một nền văn hoá gắn liền với hoàn cảnh một quốc gia nghèo đói, nội chiến, đang bị các thế lực đế quốc dùng làm thí điểm tranh chấp, tạo sinh lực đánh bật những ảnh hưởng của nền văn chương ngoại lai viễn mơ của các thế lực đế quốc trá hình". Thường những tạp chí này chỉ sống được vài số rồi buộc phải ngưng vì hết khả năng đóng góp tài chánh, hoặc bị tịch thu dài dài, hoặc họ tham gia những tạp chí của đàn anh, hầu hết trong giới giáo sư Ðại học đã viết trước 1963, nhưng sau 1963 đã chia sẻ số phận của những người trẻ là sinh viên của họ, bắt đầu là Hành Trình, Ðất Nước, Trình Bầy, Ðối Diện...

Những tạp chí kể trên đã giữ vai trò chuyển tiếp -tạm gọi là thế hệ cầm bút sau 63- nhưng trong sinh hoạt văn chương hải ngoại, không mấy ai nhắc đến họ. Chúng tôi sẽ sơ lược giới thiệu một số những sáng tác này (trong một dịp khác), sáng tác ít được để ý, nhưng bây giờ đọc lại thấy sống động và vẫn gây xúc động, vì những cảm xúc xuất phát từ thực tế, nhưng được trình bầy với tư cách người nghệ sĩ trí thức, phân biệt với con người cầm súng vì nghĩa vụ, do đó thơ văn của họ không phải hiếu chiến, chủ chiến hay chủ hoà, phản chiến nhưng bầy tỏ tính cách oan trái, bi thảm của thực tại, chan chứa tình người, tính nhân bản. Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.

Ngoài thơ văn của giới trẻ, còn có thơ văn của Nguyên Sa, một người đã cầm bút trước 1963, nhưng sau 1963, Nguyên Sa đã sát cánh với giới trẻ, trở thành cây bút chủ lực của Ðất Nước, Trình Bầy. Ông chia sẻ lối nhìn thời cuộc, quan điểm văn học nghệ thuật của họ, phê phán đàn anh trong đó có Nguyên Sa trước 1963. Tại sao? Vì Nguyên Sa cũng phải nhập ngũ như họ, hằng ngày đối diện với cái sống cái chết.. Tuy sau khi mãn khóa, Nguyên Sa không phải ra trận, nhưng chỉ nguyên thân phận làm lính cũng đủ buộc nhà thơ thay đổi lối nhìn theo giới trẻ. Rất tiếc là khi Nguyên Sa qua đời, hầu hết các bài viết về Nguyên Sa đều không đả động đến khúc quặt quan trọng, rất có ý nghĩa giá trị trong sự nghiệp thơ văn của Nguyên Sa viết vào thời kỳ làm lính. Nếu bây giờ đọc lại thơ văn thời kỳ đó, sẽ thấy thơ văn Nguyên Sa không phải chỉ là: Áo lụa Hà đông, Paris có gì lạ không em …, mà còn là: Giã từ khóa đàn anh, Giã từ nền văn chương trú ẩn… Nhắc đến Nguyên Sa, tôi lại nhớ đến báo Ðời ở California, số ngày 14-9-1985 ghi lại buổi họp mặt văn chương hết sức cảm động và đầy ý nghĩa có tên là "30 năm văn chương Võ Phiến". Buổi họp mặt nhằm xưng tụng Võ Phiến được coi là nhà văn chống Cộng số một của văn chương Việt Nam. Trong buổi họp mặt đó, Nguyên Sa đã ghi nhận văn chương miền Nam gồm 4 khối lớn: Nhóm Sáng Tạo của Mai Thảo, nhóm Ðất Nước của Nguyễn Văn Trung, nhóm Bách Khoa của Võ Phiến và nhóm thứ tư gồm những nhà văn nhà thơ ở ngoài 3 nhóm kể trên. Phát biểu của Nguyên Sa trong khung cảnh một buổi họp mặt nhằm vinh danh một người thực ra có tính cách xã giao chỉ nên nghe qua rồi bỏ, vì không một người cầm bút nào tham gia những sinh hoạt văn học từ 1955 đến 1975 nghĩ như vậy, và trước hết chính Nguyên Sa biết rõ hơn ai hết thời Nguyên Sa là cây bút chủ lực của Ðất Nước, Trình Bầy, tôi chỉ đứng tên, còn chủ động lo bài vở, quy tụ anh em, in ấn phát hành đều do Thế Nguyên và Diễm Châu.

Nhưng trong Văn Học miền Nam tổng quan, trang 193, Võ Phiến đã nhắc lại nhận xét của Nguyên Sa, không những thừa nhận mà còn minh họa cho rõ hơn vai trò của mình trong Bách Khoa. Tôi đã liên lạc với Lê Ngộ Châu và Huỳnh Văn Lang vừa ra Hồi Ký trong đó nói rõ về Bách Khoa. Trong thư viết cho tôi, Huỳnh Văn Lang khẳng định những ai là chủ động trong việc thành lập, những hội đoàn nào nâng đỡ Bách khoa về mặt tài chánh, những ai lo quy tụ về bài vở. Còn Võ Phiến không là chủ bút, viết trong Bách khoa cũng như cộng tác viên khác.

Một mặt khác, để tìm hiểu tâm lý độc giả của hai thời kỳ trước và sau 63, khách quan hơn cả có lẽ ta nên dựa vào những tư liệu văn học của chính thời kỳ này: Về thời kỳ trước 1963, Hành Trình có làm một trưng cầu ý kiến bạn đọc về những tác phẩm Văn học được nhiều người ưa thích nhất trong khoảng 10 năm (1954-1964) về 3 bộ môn tiểu thuyết, thơ, biên khảo. Số phiếu gửi đi mới chỉ nhận được 40 ý kiến. Kết quả dựa vào cuộc trưng cầu đó tuy khiêm tốn, nhưng cũng cho thấy một ghi nhận nào đó về người đọc thời kỳ này. Bản đúc kết cho thấy Mai Thảo chỉ có một tác phẩm được kể tới, trong khi Doãn Quốc Sỹ gần gũi với Sáng Tạo có hai tác phẩm. Tác giả có nhiều tác phẩm được đọc và ưa thích là Nhật Tiến ở trong nhóm Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, Tự Lực Văn Ðoàn… Về thơ, Nguyên Sa được nhiều người đọc ưa thích, Thanh Tâm Tuyền ít hơn. Nhưng được ít hay nhiều người đọc ưa thích chưa hẳn là tác phẩm được đánh giá đúng mức về tư tưởng và văn chương. Trong Văn học miền Nam, trang 216-217, Võ Phiến tán thành ghi nhận của cô Thủy Tiên trên tạp chí Nhân Văn số 31, tháng 11-1984, xuất bản ở San José, về tờ Trình Bầy và Ðối Diện là hai tạp chí đã có nhiều bài báo đóng góp rất lớn cho Cộng Sản trong việc thôn tính miền Nam. Võ Phiến bình luận thêm: "Ðóng góp cho Cộng sản là làm giặc rồi còn gì... Những tờ Hành Trình, Ðất Nước cũng đóng góp được đáng kể đấy... Nghiêm chỉnh trịnh trọng và ngây thơ, họ đóng góp đều đều chăm chỉ cho Cộng sản".
Nói như vậy, hiển nhiên Võ Phiến tố cáo những người ở trong ban biên tập như Phạm Cao Dương, những cây bút chủ chốt của Ðất Nước, Trình Bầy như Nguyên Sa, Thảo Trường hoặc những người cộng tác viết bài cho những tờ báo đó như Thế UyênNguyễn Mộng Giác, Ngô Thế VinhDu Tử LêLuân Hoán vv... đã sang Mỹ sau 1975... Trong số này, nhiều người đã ở trại cải tạo lâu năm như Thảo Trường, sĩ quan an ninh quân đội... Khi tố cáo Hành Trình, Ðất Nước, chính Võ Phiến cũng tự tố cáo, vì Võ Phiến nhận đứng đầu nhóm Bách Khoa. Võ Phiến biết rõ Vũ Hạnh với nhiều bút hiệu khác nhau, Lữ Phương là Cộng Sản nằm vùng, viết phê bình đều đều chăm chỉ trong Bách Khoa. Tại sao Võ Phiến không tố cáo họ, không phải chỉ với tư cách người trách nhiệm Bách Khoa, mà còn với tư cách viên chức bộ Thông Tin Chiêu Hồi? Vũ Hạnh thời Ðệ Nhất Cộng Hoà đã bị an ninh bắt. Tổng hội giáo giới đứng bảo lãnh xin trả tự do cho Vũ Hạnh (Nguyên Sa, Hồi ký 1998, trang 223). Thời Ðệ Nhị Cộng Hoà, Vũ Hạnh lại bị bắt. Thanh Lãng nhân danh Chủ tịch Văn bút -mà Võ Phiến là hội viên- can thiệp với công an xin trả tự do cho Vũ Hạnh, và Vũ Hạnh lại được tự do.
Hành Trình bị tịch thu, tôi được mời lên bộ Thông Tin gặp Thứ Trưởng Ðinh Trình Chính. Ông nói với tôi: "Hành Trình bị tịch thu vì luật lệ như vậy, đề nghị từ nay đừng bầy bán công khai trên sập báo. Khi in ra, xin nhớ gửi riêng cho tôi đọc vì tôi quý nó lắm." Thiếu Tướng Lê Nguyên Khang, tư lệnh quân đoàn 3, kiêm tư lệnh Thủy quân lục chiến biên thư cho tôi: "Tôi hoàn toàn đồng ý với anh, không phải chỉ súng đạn là giải quyết được Cộng Sản trên đất nước này. Mong gặp anh nói truyện nhiều hơn. Thân." (trích thư đề ngày 17-6-1965, được chụp nguyên văn sẽ công bố trong " Hồ sơ về tạp chí Hành Trình").

Vài trường hợp kể trên về một số viên chức nhà nước dân sự và quân sự của VNCH trước 1975 có thái độ hiểu biết, không quy chụp bừa bãi, tôn trọng những suy nghĩ của người trí thức, đã có thể cho chúng tôi viết và nói công khai về thời cuộc. Tự do phát biểu phê phán công khai đó không còn nữa sau 1975, tuy nhiên trong khuôn khổ nội bộ vẫn có thể nói thẳng, nói thật. Ở miền Nam, thể chế Việt Nam Cộng Hoà không còn nữa, nhưng dần dà những mặt tích cực của thể chế và phong cách con người được phục hồi, đề cao: Chẳng hạn bệnh viện Gia Ðịnh cũ còn đông đảo nhân viên Sài Gòn cũ, cấp lãnh đạo thành phố thường đến để đề cao và tuyên dương là bệnh viện gương mẫu. Ở hải ngoại, đặc biệt là Bắc Mỹ người ta vẫn nêu danh nghĩa VNCH, chào cờ Quốc Gia. Nhưng những cái hay, cái đẹp của phong cách con người thể chế VNCH đã bị phủ nhận chà đạp, còn những cái xấu xa tiêu cực như tố cáo chụp mũ được sử dụng tràn lan, đưa đến tình trạng không ai dám nói dám viết thực những điều mình suy nghĩ.

Gần đây, Võ Phiến xuất bản 6 tập Văn Học Miền Nam, gạt bỏ bộ môn biên khảo dịch thuật, báo chí, chỉ giới thiệu những người sáng tác Văn Thơ Kịch, và trong số này loại bỏ hầu hết những người sáng tác sau 1963. Ðặc biệt Thế Nguyên chủ bút Ðất Nước, Trình Bầy, Nghiên Cứu Văn học. Thế Nguyên không còn nữa, tôi muốn nhắc lại một kỷ niệm sâu sắc với Thế Nguyên mà có lẽ Võ Phiến đã quên: là giám đốc nhà xuất bản Trình Bầy, Thế Nguyên đã đọc lời chào mừng những người làm Văn học Nghệ thuật trong buổi tiếp tân tại Ðại lục lữ quán ngày 6-7-1969 nhân dịp nhà xuất bản Trình Bầy phát hành cuốn sách thứ 50. Một tháng sau, Thế Nguyên vận động 110 người cầm bút ra kháng thư phản đối hành động đàn áp giới văn nghệ sĩ của Bộ Thông tin và Chiêu hồi xuyên qua thái độ của bộ này đối với nhà văn Võ Phiến, làm tại Sài Gòn 5-9-1969, đăng trong Ðất Nước số 12. Nhiều người cầm bút thuộc giới trẻ đã ký vào kháng thư này, trong đó có những cây bút giá trị nhưng tác phẩm của họ không được Võ Phiến chiếu cố giới thiệu trích dẫn.

Chưa đánh giá về mặt tư tưởng, văn chương , nghệ thuật, chỉ ghi nhận số lượng thơ văn giới trẻ có đó, cùng góp mặt với những tên tuổi đã cầm bút từ trước 63, tạo thành bộ mặt của văn học miền Nam. Những người từ miền Bắc vào miền Nam sau 1975 trân trọng tìm đọc văn học miền Nam đưa ra một nhận xét rất đúng: phong phú và đa dạng. Có thể ghi nhận một đặc điểm chung của thơ văn giới trẻ viết sau 1963: chân thực. Họ viết thơ văn để khóc, tưởng nhớ bạn bè chết trận, mơ ước hoà bình, chứ không làm văn như trò chơi ngôn ngữ, làm dáng trí thức. Do đó bỏ quên thơ văn giới trẻ sau 1963 vì không biết đến hay có biết, nhưng vì một cách đánh giá nào đó, bỏ qua là một bất công đối với những người cầm bút trẻ thời đó, và là một thiệt hại cho văn học miền Nam thời VNCH, tạo cho người đọc bây giờ hình ảnh khuôn mặt về một nền văn học nghèo nàn, què cụt.

Tại sao Võ Phiến bỏ qua không nhắc đến giới cầm bút sau 1963? Tại sao Nguyên Sa không nhắc lại ở thời kỳ Nguyên Sa là cây bút chủ lực của Ðất Nước, Trình Bày, trong Hồi ký viết ở Hoa Kỳ? Tôi tìm thấy một giải thích: vì những người chống Cộng ở hải ngoại sợ những người chống Cộng như những người Cộng sản ở trong nước sợ người Cộng sản. Tôi có một chứng từ của một đảng viên nay đã qua đời, để lại cho tôi tập hồi ký của ông, kể lại nhóm của ông vào Nam hoạt động tình báo khuynh đảo bị bắt tù đầy. Sau 1975 ngồi lại với nhau để kiểm điểm công tác, và không thể làm việc đó mà không đụng chạm đến phê phán lãnh đạo, và vì thế có nhiều người rét không dám đi họp, nên ông viết: "Tôi nêu ra đây để muốn nói lên cái oai của ta như thế đấy: tất cả anh em họp đều có quá trình chiến đấu cao, thành tích lớn, gần hết có huy hiệu 40 tuổi đảng, tất cả đều trải qua hai cuộc kháng chiến, đều là cựu tù chính trị, được Ðảng tin cậy nhường đó mà sợ Ðảng thế đó". Tôi quen thân một Bác sĩ vừa được bầu làm Chủ tịch Cộng Ðồng. Ông điện thoại cho tôi, nói: "Từ nay tạm gác đi lại thăm nhau. Ông cũng nói với nhiều người khác xin đừng nhắc đến mối quen biết giữa tôi và ông để ông dễ làm việc."


Dẫu vậy, tôi vẫn muốn phục hồi những người làm thơ văn, thuộc giới trẻ cầm bút sau 1963. Hiện nay có nhiều người thuộc thế hệ này, ở nước ngoài, mong có được những thơ văn của mình đã đăng trong các tạp chí trước 1975 mà không mang đi được, vào thư viện có nhiều tư liệu Việt Nam như Cornell cũng không tìm thấy, vì những số báo đó đã bị tịch thu. Có thể những bạn đó cũng muốn có thơ văn của bạn bè, đặc biệt những người đã vĩnh viễn nằm dưới lòng đất, để tưởng nhớ, giữ một chút kỷ niệm của bạn bè. Tôi có thể thoả mãn ước muốn đó.

Rộng hơn một chút, con cháu chúng ta đang theo học, nhất là về môn văn học miền Nam.
Một cách cụ thể, hồi cuối năm 2001, Nguyễn Xuân Hoàng mời tôi nói chuyện cho một lớp Văn học Việt Nam gần 20 người tổ chức ở đại học Berkeley, tôi có hứa với các anh chị đó sẽ cung cấp cho họ tài liệu tương đối đầy đủ về khuôn mặt văn học miền Nam thời VNCH: phong phú và đa dạng.

Sau cùng, đã có nhiều bài báo, sách văn học sử, về văn học miền Nam thời kỳ VNCH được dịch, biên tập giới thiệu bằng các tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha vv... do người Việt Nam hay người ngoại quốc thực hiện. Phải nói thẳng: thật là thê thảm. Những tài liệu đó hoặc không nói đến, hoặc xuyên tạc, bôi nhọ văn học miền Nam thời kỳ VNCH. Do đó, hiện nay công chúng đang rất cần được cung cấp tài liệu để phục hồi hình ảnh trung thực, chính xác văn học miền Nam thời VNCH… Thiết tưởng , chỉ cần chụp photocopie với số lượng theo nhu cầu của các đại học, trung tâm Việt học, thư viện hay cá nhân muốn có.


Trở lại việc bỏ qua hoặc bôi nhọ văn học miền Nam thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa, xin dẫn chứng hai trường hợp cụ thể:

1- Nhà xuất bản P.U.F (Pháp) xuất bản một tự điển các triết gia của cả thế giới, Dictionnaire des philosophes. Paris. 2 vol.1984. Ðược coi là triết gia, những vị sau đây ở miền Bắc: Ðào Duy Anh, Hồ Chí Minh, Hồ Tùng Mậu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Duẩn, Lê Hồng Phong, Ðặng Thái Mai, Trần Phú, Trường Chinh, Nguyễn Ðình Thi, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), Phạm Như Cương, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Ðồng, Trần Ðức Thảo. Miền Nam gồm có: Nguyễn Ðăng Thục, Nguyễn Duy Cần, Kim Ðịnh, Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, mỗi người vài dòng.

Jean Chesnaux, sử gia Mác-xít trong "Fondements historiques du communisme Vietnamien" tạp chí L'homme et la société, số 4, tháng 12, 1969 nhận xét: "Mặc dầu con số đông đảo trí thức trong hàng ngũ những người sáng lập và cả trong số những người lãnh đạo, CS Việt Nam không bao giờ lại rung động bởi những cuộc khủng hoảng ý thức hệ lớn lao: không bao giờ nó tạo ra được một một nhà tư tưởng Mác-xít cỡ một Gramsci, một Li-da-Thao, một Lukacs, một Schaff. Nó không đóng góp về lý thuyết tổng quát cho phong trào Cộng Sản quốc tế, chỉ trừ một địa hạt -và đó là điều đáng kể- địa hạt quân sự." (trang 93). Nếu hiểu như J. Chesnaux, tự điển triết học không thể kể đến người Cộng Sản Việt Nam, trừ Trần Ðức Thảo. Nhưng Trần Ðức Thảo là người Tây phương gốc Việt, vì ngôn ngữ và nội dung triết học trong sách báo của ông là Triết học Tây phương, và viết bằng tiếng Pháp. Nhưng nếu hiểu người Mác-xít là người biến đổi thế giới, nghĩa là làm cách mạng, không phải giải thích thế giới như Marx đã quan niệm thì những người sáng lập, lãnh đạo đảng là Cộng sản, nhưng theo nghĩa đó thì không phải chỉ mấy người lãnh đạo, mà tất cả đảng viên các cấp đều là "triết gia" cả và đáng được đưa vào tự diển các triết gia thế giới. Dù sao, tôi được biết cuốn này do cán bộ viện triết học thông báo, nhưng không quảng cáo, giới thiệu chỉ nói nhỏ với nhau thế thôi, vì được khen mà lấy làm xấu hổ.

Tôi nêu vấn đề với giáo sư Trịnh Văn Thảo, người trách nhiệm giới thiệu các vị kể trên vào cuốn tự điển này, và cũng không nhận được lời giải thích thỏa đáng.


2- Trường hợp thứ hai, cuốn Mille ans de littérature Vietnamienne, une anthologie. Editions Philippe Picquier, édition établie par Nguyễn Khắc Viện et Hữu Ngọc. Cuốn này do nhà xuất bản ngoại văn Hà Nội in lần đầu năm 1979, lần thứ hai cộng tác với cơ quan ACCT của Pháp, và lần thứ ba do nhà xuất bản Philippe Picquier. Nguời chủ biên tủ sách việt Nam là Phan Huy Ðường, giới thiệu cuốn văn học sử này và là dịch giả nhiều truyện của mấy tác giả như Bảo Ninh, Dương Thu Hương... Trong lời giới thiệu, ông Phan Huy Ðường cho biết cuốn sách này đã được hầu như tất cả chào đón và nó xứng đáng được như vậy, mặc dầu ông nhìn nhận những khuyết điểm, đặc biệt khuyết điểm liên quan đến văn học hiện đại: không đả động gì hết đến văn học miền Nam thời VNCH mà ông đồng ý với các tác giả miền Bắc gọi là vùng do "Pháp Mỹ kiểm soát".
Ông Phan Huy Ðường còn viết giới thiệu văn học Việt Nam trong Dictionnaire universel de la littérature, P.U.F.,1994, trong đó phần về miền Nam , sau 1954, ông gọi là văn chương của những người di cư và văn chương của người miền Nam là một thứ thập tự quân chống cộng (Croisade anticommuniste).

Thưa ông Ðường, tôi chả biết nói gì với ông! Thật buồn, mãi đến 1996 mà ông chưa mở mắt ra. Ông ngồi ở Paris phán, mà chả hiểu gì tình hình miền Nam cả; xin thưa ông ở trong nước, miền Nam có những người trí thức trẻ tuổi, không phải chỉ có cảm tình mà còn đi theo cách mạng. Họ tiếp xúc với chế độ qua các thể chế và ngôn ngữ công khai, chính thức, lúc họ ra khu đi Hà Nội từ năm 1968 đến 1975, họ chán ngán ngay. Sau 1975, không thiếu những người trẻ đó như Nguyễn Ðắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ghé Paris, ông cứ hỏi, họ nói thật cho ông nghe.
Xuân Diệu có chân trong ban biên tập cuốn Văn học Sử Việt Nam có kể cho ông Trương Thi bạn thân của Xuân Diệu và là hàng xóm của tôi: Một viện Hàn Lâm Ðông Âu ngỏ ý phong viện sĩ cho ông, nhưng cho biết chỉ xét thơ Xuân Diệu trước 1945. Nhà thơ vui vẻ nhận và Ðảng cũng đồng ý với đảng nước anh em. Ông Nguyễn Linh, phó giám đốc nhà xuất bản Sự Thật của Trung Ương Ðảng kể lại cho tôi: Sau 1975, ông được Tố Hữu cử vào Nam tiếp quản văn hoá miền Nam. Về Hà Nội báo cáo với Trưởng Ban Tuyên Huấn: Ông đề nghị Tố Hữu chỉ đọc một cuốn truyện thôi: Loan mắt nhung của Thụy Long, và sau một tuần sẽ trở lại xin ý kiến. Tuần sau, Tố Hữu phát biểu: Miền Bắc ta không ai viết truyện hay như thế... (Tôi đã xin phép ông Nguyễn Linh phổ biến câu truyện này). Theo tôi nghĩ , miền Bắc có thể có nhiều người viết hay hơn Nguyễn Thụy Long nếu họ được tự do viết. Trở về trường hợp Phan Huy Ðường, khi những Bảo Ninh, Dương Thu Hương xuất bản truyện, ông hăm hở dịch giới thiệu với độc giả nói tiếng Pháp như những tác phẩm đầu tiên dám nói thẳng, nói thật về chiến tranh Việt Nam mà có lẽ ông không thấy là sau khi chiến tranh kết thúc, cả mười, mười lăm năm, miền Bắc mới được nói, và vẫn còn nói theo luận điệu chính thức; trong khi ở miền Nam, nhiều nhà thơ, nhà văn đã nói lên nỗi buồn chiến tranh, nỗi buồn quê hương ngay trong lúc chiến tranh đang diễn ra mà ông không biết đấy thôi. Và tôi xin mời ông cầm đọc những thơ văn đó.

Về những cái nhìn sai lệch của Bảo Ninh, Dương Thu Hương trong truyện của họ, đối với độc giả Việt Nam, có thể không quan trọng mấy, nhưng khi truyện của họ đã được ông dịch sang tiếng Pháp và độc giả Pháp đã tiếp nhận từ hai tác phẩm này, những cái gọi là "dã man" của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, thì tôi xin chuyển đến ông và qua ông đến hai nhà văn đó, bài: "Ðôi mắt người bị xử bắn trong rặng bình bát" của Nguyễn Bửu Thoại. Ông đã dịch Bảo Ninh và Dương Thu Hương, liệu ông có nên dịch thêm bài của Nguyễn Bửu Thoại, dù chỉ là để cho những người bị hai nhà văn này buộc tội, có quyền được trả lời? Riêng Nguyễn Bửu Thoại có lời nhắn nhủ: "Tôi mong bà Dương Thu Hương và ông Bảo Ninh đọc được truyện này. Tôi lặp lại lần nữa là tôi không có ý định viết chuyện để bênh vực người lính miền Nam, hoặc để phản bác lại hai tác phẩm của ông và bà vì một lý do rất đơn giản: tôi không hề là một nhà văn, nên không có tham vọng tranh dành, giật lợi bằng ngòi bút, theo lập luận đời thường đánh một người nổi danh để được nổi danh hơn.
Tôi chỉ là người lính chiến trong cuộc, chứng kiến sự thật, kể lại sự thật, một sự thật nhỏ bé, trong vô vàn sự thật to tát, từ cuộc chiến tự vệ của miền Nam , một cuộc chiến bị bóp méo, bị xuyên tạc, bị xỉ vả bởi những ngòi bút đứng trong hàng ngũ của kẻ thắng trận.. Ông Ðại đội trưởng và Tiểu đoàn trưởng trong truyện nay hiện đều định cư tại thành phố Houston sau nhiều năm trong trại cải tạo, còn bốn anh thương binh trong truyện có lẽ hiện vẫn còn sống, nếu không đủ cả bốn thì còn hai ba. Ðây là một ấn tượng sâu sắc trong đời các anh nên chắc chắn các anh phải nhớ. Nếu truyện này được phổ biến trong nước và thật sự các anh là người có chút liêm sỉ, các anh sẽ không thể quay lưng lại sự thật của Quá khứ."

*

Sau cùng , tôi vừa nhận được bản tin do tôi yêu cầu Ðặng Tiến ở Paris gửi, về Võ Phiến và đại học Paris mà tôi thông tin lại dưới đây (2).

Tôi không có ý kiến gì về luận án vì chưa đọc, chỉ ghi nhận ý kiến của Thụy Khuê, chắc chắn đã đọc kỹ Võ Phiến và Marcel Proust, một tác giả khó đọc, khó hiểu đối với những người không am tường văn học Pháp. Thụy Khuê nói: Khi nghiên cứu văn bản của Võ Phiến, không có gì giống Marcel Proust cả. Ngoài ra Thụy Khuê cũng phê bình "cách phê bình của Võ Phiến trong bộ Văn học miền Nam 6 tập không những không giúp ích gì cho sự tìm hiểu văn học miền Nam mà lại còn hại cho sự nghiệp văn học của Võ Phiến" (Bài "Vấn đề đoạn tuyệt với quá khứ...", tạp chí Hợp Lưu, Xuân Quý Mùi, số 68, tháng 12-2002 và tháng 1-2003, trang 34-37.).

Ðiều tôi lo ngại là bà Trương thị Liễu, nếu chỉ dựa vào bộ Văn học miền Nam của Võ Phiến để tìm hiểu về lịch sử văn học miền Nam (1955-1975) thì có thể hiểu sai: trước hết chính những tác giả mà Võ Phiến giới thiệu trong bộ sách đó, mà còn không hay biết gì về những người làm biên khảo (phê bình, văn học sử) và dịch thuật, là hai bộ môn mật thiết liên hệ đến văn học đối chiếu đã bị Võ Phiến gạt đi trong bộ sách của Võ Phiến. Ví dụ cụ thể, bà Liễu dịch Ðông Kinh Nghĩa Thục là Institut du Tonkin, bố Tây không hiểu là gì, kể cả Tây giám khảo! Tôi cũng lo ngại về khả năng am hiểu của bà về lịch sử văn học Việt Nam. Bà dựa vào Nguyễn Khắc Viện, soạn giả bộ Nghìn năm lịch sử Văn học nói ở trên, mục Glossaire, trang 400. Tại sao bà không tìm tài liệu của những người miền Nam như Nguyễn Hiến Lê mà Ðặng Tiến, người hướng dẫn luận án đã lưu ý. Cuốn đó không khó kiếm đâu. Lá Bối tái bản ở Hoa Kỳ, có bầy bán ở tiệm sách. Bà xem chú thích trang 44 và giải thích trang 47 sẽ rõ.
Sau cùng, tôi lo ngại dự định của bà muốn "khôi phục một thời kỳ văn học bất hạnh dưới một chế độ phôi pha tại miền Nam từ 1954-1975". Tôi không hiểu bà muốn nói chế độ phôi pha đó là gì, nhưng dù muốn đánh giá nó thế nào đi nữa, nó là chế độ đã cho phép -mặc dầu hạn chế- cho mọi xu hướng biên khảo, sáng tác được diễn tả, kể cả mảng thơ văn của giới trẻ Việt sau 1963 mà Võ Phiến gạt bỏ.

Võ Phiến trong Ðại học: Như vậy là Võ Phiến đã được xưng tụng ở hải ngoại hầu như qua tất cả những hình thức quen thuộc: Ngày Võ Phiến, những số đặc biệt của các tạp chí Văn học, những cuốn sách biên khảo, và sau cùng đề tài luận án Ðại Học.

Võ Phiến là một thần tượng: Về chính trị được coi là người chống Cộng số một. Về văn học: Lãnh đạo một trong bốn khối lớn văn học miền Nam trước 1975. Ðó là những vương miện mà một số người ở hải ngoại đội lên đầu Võ Phiến, và Võ Phiến chấp nhận… Dĩ nhiên, có những người khác có lối nhìn khác: Ðất nước Việt Nam đã bị khốn khổ, khốn nạn vì có những người Cộng sản số một và những người chống Cộng số một. Ngày nay, ý thức hệ đó kể như không còn nữa, nhưng đất nước Việt Nam vẫn chưa thoát ra khỏi được thân phận khốn cực, khốn nạn vì vẫn còn những người Cộng Sản sợ Cộng sản và những người chống Cộng sợ những người chống Cộng. Lời khen đối với một số người trở thành lời nguyền rủa hay than trách đối với những người khác.

Về đứng đầu một khối Văn học, những người đương thời đều thấy đó là một cách dựng đứng để xưng tụng mà thôi. Như trên đã nói, hồi ký của Huỳnh Văn Lang, người sáng lập ra tạp chí Bách Khoa, tựa đề Nhân Chứng một chế độ, tập 1, tác giả xuất bản, cho biết về nguồn gốc tờ báo và vai trò của Võ Phiến (trang 418-430) chỉ là một người cộng tác viết bài như những người khác. Hồi ký Nguyễn Hiến Lê (xuất bản Văn học , 414-431) cũng ghi nhận tương tự. Huỳnh Văn Lang viết:
"Võ Phiến chỉ là cây bút viết đều, viết nhiều cho Bách Khoa, không hề giữ vai trò quy tụ, điều hành nào của tờ báo này."


Thực tế của văn học miền Nam, theo Nguyễn Hiến Lê, "không có nhóm nào nổi bật, gây ảnh hưởng lớn trong văn chương như Nam Phong, Tự Lực Văn Ðoàn trước 1945. Bách Khoa không có một chủ trương mới mẻ, mạnh mẽ , cải cách cả về tư tưởng lẫn sự trình bầy như tờ Phong Hoá Ngày Nay. Trước sau vẫn giữ lập trường ôn hoà đứng giữa, không theo Cộng, không theo Mỹ, như vậy làm sao nói nó như một phong trào ảnh hưởng tới quốc dân được như Tự Lực. Còn khối Sáng Tạo, do một nhóm nhà văn trẻ ở Bắc di cư vào lập nhóm, và họ muốn làm một cuộc cải cách, nhưng họ không đủ kiến thức, tài năng, chỉ hô hào chống Cộng – điều này không có gì mới lạ – mà càng không sâu sắc, vì họ ít đọc sách báo ngoại quốc và đã trở lại lối viết của TLVÐ trước kia, mà người cầm đầu Sáng Tạo – Mai Thảo – lại có bút pháp cầu kỳ " làm duyên, làm dáng" không hợp thời chút nào, chính bọn họ cũng không theo. Rốt cuộc chẳng được tiếng vang nào cả. (trang 419).
Ý kiến của Nguyễn Hiến Lê phản ánh dư luận chung của người đương thời về Sáng Tạo. Nhưng người của các thế hệ sau hoàn toàn có quyền có lối nhìn khác, chẳng hạn, coi tiểu thuyết của Mai Thảo là sâu sắc. Tuy nhiên, về phương diện văn học sử, phải tôn trọng ý kiến của người đương thời. Ngoài ra, cả Bách Khoa, Sáng Tạo đều được thành lập để thực hiện một chủ đích chính trị của người Mỹ và những người lãnh đạo nền đệ nhất cộng hoà mà tôi sẽ nói ở chỗ khác.


Với tư cách nhà văn, Võ Phiến chắc chắn có chỗ ngồi trong văn học sử Việt Nam thời VNCH. Người đọc và phê bình văn học có thể đồng ý với nhận xét của Nguyễn Hiến Lê về Võ Phiến: "viết tiểu thuyết, nhưng thành công nhất về tạp bút (tùy bút) ý sâu sắc và lối viết dí dỏm" (trang 416), "tạp bút của ông được nhiều người thích hơn... Ðông Hồ khen là nhất miền Nam. Về loại đó, ông sâu sắc như Nguyễn Tuân mà tự nhiên hơn, dí dỏm hơn, đề tài phong phú hơn, đa dạng hơn, nhưng ông cũng có tật hay gợi đến vấn đề sinh lý." (trang 430).

Võ Phiến viết tiểu thuyết, tuỳ bút: được lắm, nhưng viết tùy bút liên quan đến chính trị, chọn đứng ở một phía, chỉ cho thấy cái lý của một phía trong khi thực tế ở Việt Nam, là chiến tranh ý thức hệ. Chỉ ở một phía mà muốn vượt trên cái lý của các bên, để đi đến cái bi đát, bi thảm là không thể, bởi vì cái bi đát, bi thảm không xóa bỏ cái lý mà chỉ vượt lên trên. Cho nên, nếu chỉ đứng ở một phía, nhà văn Võ Phiến không viết được cái bi thảm, bi đát, vì sự lựa chọn của ông, tự nó đã bỏ qua cái bi đát bi thảm của từng gia đình, kể cả gia đình Võ Phiến (ông có người em ruột ở phía bên kia), chưa nói đến cái bi đát bi thảm của đất nước. Võ Phiến bỏ lãnh vực sáng tác, bước vào lãnh vực phê bình văn học, rồi Văn Học Sử là hai địa hạt vượt khỏi chuyên môn và tài năng của Võ Phiến. Vì vậy, ông đã phạm những sai lầm thật trầm trọng.

*

Viết xong những dòng kể trên, đụng đến Võ Phiến , tôi đọc bài "Cây thông" của Phan Lạc Tiếp trong Tạp chí Ði Tới, Montreal số Xuân quý mùi 2003. Phan Lạc Tiếp ca tụng Võ Phiến thật tình và người đọc không thể không nhìn nhận lòng thành của ông.
Nhìn một người dựa vào một số dữ kiện: bề ngoài tính tình hiền hậu ăn nói hoà nhã, đã lớn tuổi không còn sống bao lâu qua nhiều lần giải phẫu, tuy vậy vẫn cố gắng sưu tầm viết về văn học miền Nam đã bị cộng sản xóa bỏ thì dù công trình đó thế nào đi nữa cũng đáng được trân trọng biết ơn. Nhìn như thế phải đi tới kết luận như vậy, thật hợp lý với lối nhìn đã lựa chọn và đúng trong khuôn khổ lối nhìn đó. Nhưng nếu dựa vào những dữ kiện khác, sẽ đưa đến một kết luận khác cũng thật hợp lý với lối nhìn đã lựa chọn và cũng đúng trong khuôn khổ lối nhìn đó. Cả hai kết luận đều đúng trong mỗi lối nhìn và do đó chỉ khác nhau.

Lối nhìn thứ 2 như sau: Nghiên cứu, giảng dạy văn học ở các trường trung học đại học thời VNCH chưa đạt được quy chế "statut" của một bộ môn khoa học như y học, luật học. Hai trường y khoa và luật khoa đào tạo những người chuyên môn về luật và y, ra làm luật sư bác sĩ. Những người không xuất thân từ những trường đó không dám đụng đến chuyên môn về y học luật học. Trái lại đại học văn khoa dạy văn chương, sử ký thì chưa. Tình hình chung là có người chỉ biết ít nhiều về văn chương VN, sử ký VN đọc thêm chút ít nữa viết ra một số bài là có thể trở thành nhà nghiên cứu văn chương, sử ký. Ðó là một thiếu sót tất yếu không thể tránh được; phải chờ đợi nhiều năm nữa Ðại học văn khoa mới có những người chuyên môn về văn sử, ngôn ngữ, hán nôm, Phật học, tốt nghiệp không phải ở các đại học Âu Mỹ mà ở các đại học Ðài Loan, Nhật Bản, Ấn Ðộ, tạm đủ để tạo một ban giảng huấn có học vị chuyên môn. Tạm thời Ðại học văn khoa vẫn phải trân trọng mời các vị học giả làm giáo sư của trường, hoặc giáo sư thỉnh giảng, đôi khi mời cả những người sáng tác đến nói chuyện cho sinh viên học hỏi kinh nghiệm viết văn như Thanh Lãng đã mời Tam Lang, Nhật TiếnNguyễn Thị Hoàng. (Xem những bài tường thuật trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học năm 1971)

Như vậy phải nhìn nhận có một tình trạng lạc hậu chậm tiến về mục tiêu tiến tới quy chế một bộ môn khoa học của ngành văn sử VN so với các ngành khác. Sự kiện này đã cho phép nhiều người không có tú tài hoặc có chuyên môn khác như luật sư, bác sĩ, bước vào lãnh vực văn, sử. Thật ra những lạm dụng danh nghĩa về văn sử trầm trọng cũng ít xảy ra, vì dư luận báo chí không buông tha. Trong tình hình như thế thật khó tưởng tượng một vụ đề cao Võ Phiến như thấy ở hải ngoại, đã có thể xảy ra trong thời VNCH. Tôi không biết ở nơi nào, thời đó, các đại học công tư như Vạn Hạnh, nơi quy tụ nhiều học giả, có ý định mời Võ Phiến nói một buổi về kinh nghiệm viết văn của mình. Tuy nhiên một tập giới thiệu tình hình văn nghệ miền Nam của Thế Phong 1957-1961, in roneo 50 bản, cũng nhắc đến Võ Phiến: "Võ Phiến qua Người tù, Chữ tình, những truyện ngắn đầu tay là kinh nghiệm sống rất đậm, kinh nghiệm ở khu kháng chiến, nói lên được khía cạnh nhân bản trong phi nhân bản mác-xít. Về sau này, thấy ăn khách và ăn tiền khai thác quá tay nên trở thành nhàm chán lố bịch." (trang 17)

Nhưng biến cố 30/4/1975 đã buộc một số đông người Việt bỏ nước ra đi định cư ở Bắc Mỹ. Trong cái rủi có cái may: đi Mỹ không phải đi du học mà đi định cư với cả gia đình, trở thành công dân nước giàu mạnh và có nền văn hóa sinh động nhất thế giới. Những người thiên về khoa học tự nhiên đã sớm hội nhập vào xã hội mới; còn những người viết văn, viết báo, đáng lẽ nên lợi dụng cơ hội ngàn năm một thuở này để học hỏi văn hóa, văn học Mỹ qua những tổ chức trong và ngoài đại học, nhằm giảm bớt những khoảng cách lạc hậu chậm tiến của mình so với trình độ tiên tiến của nước mà nay mình nhận là quê hương thứ hai, nhiều người lại lựa chọn tiếp tục lối sống, cảm nghĩ làm văn học như ở VN. Do đó xảy ra tình trạng là một số người tạo ra đủ các chiêu bài, giả vờ tin là thật, rút cục tin thật điều giả vờ, để tự lừa dối và lừa dối người khác. Võ Phiến thay vì bận tâm tự biện minh bằng cách so sánh việc làm của mình với của Hoài ThanhVũ Ngọc Phan đều đã lỗi thời từ lâu, nên nghĩ đến việc so sánh mình với những nhà biên khảo văn học nổi tiếng hiện nay của Hoa Kỳ hay của thế giới.

Tôi không trách Võ Phiến, như có người đã làm, về lối nhìn đánh giá chủ quan của ông. Tính chủ quan là không thể tránh được trong nghiên cứu những vấn đề sinh họat của con người mà kiến thức khoa học tây phương hiện nay đã chứng nhận. Tôi chỉ trách chủ quan của Võ Phiến là võ đoán, không dựa trên một lý luận văn học nào mang tính cách khoa học. Tôi cũng không trách Võ Phiến nói nhiều đến người này, nói ít về người khác, rất sơ sài về thông tin mà chỉ trách thái độ tùy tiện của Võ Phiến. Theo chỗ tôi biết có hai cách tiếp cận với tác giả tác phẩm, lịch sử hay phi lịch sử. Cách tiếp cận lịch sử đòi hỏi trình bày càng đầy đủ chính xác càng hay, những thông tin về thời đại, cuộc đời của tác giả và xuất xứ của tác phẩm; còn lối nhìn phi lịch sử, theo cấu trúc luận chẳng hạn, chỉ cần có đủ văn bản của một tác giả hay nhiều tác giả trong một thời kỳ hoặc nhiều thời kỳ để tìm ra những yếu tố bền vững phổ quát của một tác giả hay nhiều tác giả, bất xét những chi tiết về thời cuộc cuộc đời của tác giả. Cách làm của Võ phiến thật tùy tiện, đối với người này, hầu như chẳng có thông tin nào về tác giả tác phẩm, như thể Võ Phiến tiếp cận theo lối phi lịch sử. Ðối với người kia Võ Phiến kể một số thông tin về thời đại con người thực ra chỉ là những giai thọai nghe được biết được, không phải những sự kiện ghi nhận có kiểm tra, nêu xuất xứ. Võ Phiến nói không dám phê bình, thật ra Võ Phiến không phê bình khen chê dựa trên những lý luận mà dựa vào những đánh giá của người khác coi như của mình, và đôi khi bày tỏ một thái độ cao ngạo khinh miệt người khác.

Chẳng hạn nói về thơ Nguyên Sa, Võ Phiến viết về hình thức chối từ tiết điệu, gì chứ chuyện ấy thì ông Phan Khôi đã làm từ khuya, mới mẻ gì đâu. Học theo tác giả bài Tình già thôi. (Văn học miền Nam, thơ trang 2917). Nếu Nguyên Sa còn sống liệu có để yên không?

Nói về truyện của Nguyễn Thị Hoàng (NTH), Võ Phiến chỉ ghi một nét tiểu thuyết của nữ sĩ này ồn ào nhất trong số các nữ sĩ thuộc tầng lớp mình. Cái yêu đương của NTH nó ồn là bởi... nó ồn, hãy biết thế. Nói về cuốn "Vào nơi gió cát" Võ Phiến ghi nhận chữ nghĩa quấy động ầm ầm quả như một góc địa cầu sụp đổ. Sách ấy là truyện chăng? Là tiểu thuyết chăng? E không hẳn. Từ đầu chí cuối có truyện gì đâu, toàn là gào thét. Cũng là một nàng chinh phụ với một chàng vào nơi gió cát, nhưng ở Ðoàn Thị Ðiểm là Chinh phụ ngâm, ở NTH là "chinh phụ thét, chinh phụ rống". Nghe hãi lắm cơ, hãi lắm." Chưa hết. Võ Phiến lôi đời tư của NTH ra chê bai: "Tình cờ mà NTH với Kim Lefèvre cùng sinh vào năm 1939, cùng học ở Nha Trang, về sau cùng là văn sĩ tiếng tăm. Vào thập niên 50 ở Nha Trang có xảy ra hai mối tình thầy trò. Hai nữ sinh yêu thầy, mỗi người phản ứng mỗi khác". Tiếp theo Võ Phiến chê trách thái độ của NTH. Theo chỗ tôi biết ông thầy ở Nha Trang là Cung Giũ Nguyên năm nay trên duới 90 tuổi một nhà văn viết tiếng Pháp nổi tiếng cuối cùng vẫn còn sống từ thời đó cho đến nay. Tôi không thấy nhà phê bình nào lôi đời tư của nhà văn ra mà phê bình. Cuối cùng Võ Phiến khai tử sự nghiệp viết văn của NTH, coi như đã ngưng nghỉ từ lâu trứơc 75. Văn nghiệp của bà không có gì đáng kể sau cuốn Vòng tay học trò (Văn học miền Nam, truyện, tập 2 những trang từ 1093 – 1102).

Trong Văn học miền Nam (truyện, 1), có hai bài viết về Bình Nguyên Lộc; toàn bài đầu, Võ Phiến so sánh Bình Nguyên Lộc với Sơn Nam, đưa ra những giai thoại về chuyện ăn khách, không ăn khách, phá giá văn chương, viết hay, viết dở, ... không ăn nhập gì đến sự nhận định nội dung các tác phẩm của Bình Nguyên Lộc. sử dụng những vụ việc ngoài văn bản, để suy diễn và kín đáo "đánh giá" Bình Nguyên Lộc: "Nhất Linh mời Bình Nguyên Lộc cộng tác làm báo, nhưng Nhất Linh không đề cử Bình Nguyên Lộc vào Tự Lực Văn Ðoàn, không đưa sách ông vào các nhà xuất bản Phượng Giang, Ðời Nay, như đối với một số nhà văn khác lúc bấy giờ (Nhật Tiến, Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh, Duy Lam, ...). Tại sao vậy? Một cách đánh giá chăng?" (trang 529) Bài thứ nhì (nguyên là bài tựa trong tuyển tập Bình Nguyên Lộc do An Tiêm xuất bản, 1999), đứng đắn hơn, phần đầu cho người đọc biết một số chi tiết về cuộc đời Bình Nguyên Lộc cùng các tác phẩm đã bị thất lạc (theo Nguyễn Ngu Í). Nhưng tệ nhất, Võ Phiến đã

Nhất Linh không đề cử Bình Nguyên Lộc vào Tự Lực Văn Ðoàn, có thể chỉ vì ông coi Bình Nguyên Lộc như một đồng nghiệp, có kinh nghiệm làm văn, làm báo từ những năm 42, 43..., Bình Nguyên Lộc không phải là hàng đàn em như Nhật Tiến, Linh Bảo..., và không đưa sách Bình Nguyên Lộc vào nhà xuất bản Phượng Giang vì Bình Nguyên Lộc đã có nhà xuất bản Bến Nghé riêng, đã có tuần báo Vui Sống riêng, từ năm 1959. Cách đặt câu hỏi một cách mập mờ để gián tiếp ảnh hưởng độc giả, khi đã biết rõ câu trả lời, rồi từ đó "liên tưởng" tới những giai thoại khác như Sơn Nam mua Nhốt gió, đọc đi đọc lại thích, vì "giống như ca dao", để đi đến kết luận: ông (Sơn Nam) có đọc truyện đâu! Ông đọc ... ca dao! (trang 530)

Dùng những ý kiến của Cao Huy Khanh, Nguyễn Văn Sâm (không thích Bình Nguyên Lộc) để gián tiếp chê bai: "Về cái giảng giải khỏi cần dông dài: Một sự kêu trời rập ràng của hai vị Cao-Nguyễn vừa rồi đã đủ. Giảng làm chi chứ hả? Tiểu thuyết gia nào phải thầy cô của ai đâu; độc giả tìm đến cuốn truyện nào có ý học hỏi gì đâu mà tự dưng hạ người ta xuống phận học trò cho người ta í ới thảm thương!" (trang 531)
Một giọng văn giễu cợt, thổi phồng những nhược điểm, mà quên không nhắc ưu điểm, đặc biệt coi thường người mình phê bình, ít thấy ở một cuốn sách văn học sử hay tuyển tập phê bình nào.

Về Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến nhạo báng một cách khác:
"Vấn đề" là sự yêu thích, là sở trường của ông. Trong các cái ông viết nhân vật không có mẹ Lê, có Xuân Tóc Ðỏ, có cô Loan cậu Dũng nào. Tức không có những kẻ chúng ta vẫn gặp ngoài đời, trong xã hội quanh mình. Lại có toàn những ông Thành Cát Tư Hãn, gã Sơn Ca, có Thằng Cuội, Chức Nữ, Ngưu Lang, có Lưu Thần, Nguyễn Triệu, có một lũ quạ con nói leo lẻo, và có cả ông Trời luôn! Những nhân vật như thế, cái cốt cách như thế, ở vào thời đại xa xưa huyền hoặc như thế, cái cốt cách của họ khác ta, khác của người đời bây giờ; mà khung cảnh đất trời xung quanh họ cũng khác lạ" (trang 1802, truyện, 3). Sau đó, Võ Phiến trích một số đoạn trong Thần Tháp Rùa để dẫn chứng "sự khác lạ" này và đi đến kết luận về văn phong của Vũ Khắc Khoan: "Nó phảng phất lối văn của Nhất Linh thời Hồng Nương! Hồng Nương!" (trang 1803).
Rồi tiếp đó, lại mượn lời Uyên Thao để viết mấy trang về cái "ưỡn ẹo" của Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan và Nguyễn Thị Hoàng: "Về cách ưỡn ẹo, ông Uyên Thao kể tên Mai Thảo trước, Vũ Khắc Khoan sau. Lẽ ra tên ông Vũ nên được đặt trước: ông lớn tuổi hơn, lại bắt đầu văn nghiệp sớm hơn" (trang 1804). Phê bình tư tuởng của Vũ Khắc Khoan, Võ Phiến chế giễu: "Ông Vũ dấy động lên các vấn đề. Chuyện này là cái cớ của một vấn đề; chuyện khác lại là cái cớ để ông nêu ra vấn đề khác, không có chuyện gì ông cũng bịa ra vấn đề, ông quay cuồng giữa bao nhiêu là vấn đề, ông hô phong hoán vũ tạo ra vấn đề, để nói ngông chơi." (trang 1807)
Một cách viết "phê bình" như vậy, không còn "vấn đề" nghiêm chỉnh nào có thể bàn được, bởi chính "nhà phê bình" đã đưa nhà văn ra làm thằng hề để giễu cợt dưới mắt người đọc.

Về Mai Thảo, Võ Phiến bác bỏ toàn bộ văn phong của Mai Thảo:
"Ông dựng câu văn đẹp. Ðẹp thì tốt quá. Ðẹp thì gây xúc cảm, mỹ cảm, thì làm người đọc mê tơi. Nhưng người viết mải mê tìm đẹp có khi chệch cái, đâm hỏng. Ðó là cái hỏng của câu văn kêu." (trang 2369, kịch, tùy bút). Rồi ông trích những câu văn của Mai Thảo ra để "bình": "Bảo rằng chữ nghĩa rổn rang, danh từ to lớn, câu cú kiểu cọ... là thủ phạm thì oan", "phấn tốt, son cũng tốt. Nhưng quá đáng thì đâm ra dị hợm. Một vầng trán cao, hay lắm. Nhưng cao như trán hói, mất hay. Cái quá đáng trong son phấn, trong sự trang sức ấy, ông Nguyễn Hưng Quốc khéo léo dùng chữ "lòe loẹt". Ông Uyên Thao bảo đó là "ưỡn ẹo"" (trang 2370)
"Chắc chắn từ ngày khoa cử bằng chữ Hán bị bãi bỏ, không mấy ai sính văn biền ngẫu bằng Mai Thảo" (trang 2371)
"Lời đẹp là lời bóng bẩy, cầu kỳ. Câu muốn đẹp, ông xây dựng cho nó những kiến trúc thật lạ, thật rắc rối. Mải mê theo những cái ấy, lắm khi ông quên rằng chúng nó cũng cần có một cái nghĩa." (trang 2372)
"Trong hối hả, người duy mỹ vẫn nhất định vươn phóng. Vươn phóng quá quắt, mà cực nhọc quá chừng. "Một rú thét kín trùm". Chao ôi!" (trang 2374)
"Vội vàng, đã một bất lợi. Lại còn nỗi cực đoan, sốt tiết. Ðộng tới cái gì ông cũng phóng đại lên, đẩy tới chỗ tột cùng. Trong ngôn ngữ ông có cả một kho tiếng lớn. Như thể kho vũ khí hạng nặng để công phá ầm ĩ: "ngọn đỉnh đồi", "đêm ngà ngọc", "nhận thức luận về mọi hiện tượng của cấu thành và hủy thể" ..." (trang 2374)

Ðiều đáng ngại là một tuyển tập có tính cách văn học sử và phê bình, được người ta coi là "chính thức" như vậy về văn học miền Nam, sẽ cho người đọc một đánh giá sai lạc về những tác giả được giới thiệu. Một vài dẫn chứng trên đây cho thấy, theo Võ Phiến, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, chẳng có tài cán gì cả: Bình Nguyên Lộc thì hời hợt, chỉ biết giảng giải; Vũ Khắc Khoan bày các trò hề, chẳng có vấn đề cũng bịa ra vấn đề để nói ngông chơi; Mai Thảo, sốt tiết, dị hợm, đặt những câu văn vô nghĩa, v.v... Tất nhiên, ông có chêm vào một vài câu khen hoặc không chê, nhưng những câu này không được khai triển, chúng tắt ngấm, chìm lấp trong không khí nhạo báng, giễu cợt. Toàn thể bài viết, hầu như không có chỗ nào Võ Phiến muốn thật sự tìm hiểu những cái hay của của các tác giả này để trình bầy với người đọc. Xét về mặt đạo đức nghề nghiệp của người phê bình, ở đây đã không thấy có, chưa kể đến giọng mỉa mai, châm biếm, và hạ thấp các đối tượng mà Võ Phiến muốn giới thiệu với độc giả.
Ngày nay, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan đều đã qua đời, không ai có thể nói lại. Tôi là người cùng thời và còn sống, bắt buộc phải lên tiếng vì không thể bỏ qua.

*

Sau cùng, đúng như Võ Phiến đã thú nhận bỏ mà không quên trong việc Võ Phiến gạt ra ngoài bộ Văn học miền Nam, một mảng lớn thơ văn của những người trẻ viết sau 1963, vì lý do chính trị. Tố cáo những người đó viết trong các tạp chí của Cộng sản hay tiếp tay cho Cộng sản. Như vậy sự phủ nhận của Võ Phiến có khác gì sự phủ nhận văn học miền Nam của miền Bắc? Cả hai đều vì lý do chính trị, nhưng thực sự có khác về động cơ cá nhân của người phủ nhận. Những người viết phủ nhận văn học miền Nam, trong sách báo ở miền Bắc, có thể chỉ làm theo đường lối chính sách, nhưng trong thâm tâm thì thích thú và cảm phục. Còn Võ Phiến có chính phủ đảng cầm quyền nào ở hải ngoại buộc Võ Phiến phủ nhận đâu?

Tuy nhiên tôi thấy không thể thuyết phục được những ai xưng tụng Võ Phiến bằng lý luận dù hợp lý và vì thế phải đưa ra môt lối nhìn khác không dựa vào lý luận mà vào lối tiếp cận qua xã hội học, địa lý chính trị như tôi đã làm trong việc tìm hiểu văn học miền Nam thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Người miền Bắc khó hiểu được tại sao miền Nam có nhiều những ông đạo kể cả đạo Cao Ðài. Ðào Trinh Nhất, một ký giả nổi tiếng người Bắc vào sinh sống trong Nam viết cuốn Cái án Cao Ðài lúc đạo này mới xuất hiện. Lý luận rất có hệ thống hợp lý nhưng không thuyết phục được ngừơi Cao Ðài. Những nguời Pháp đứng đầu về an ninh hành chánh Nam kỳ nghiên cứu theo xã hội học hiện tượng Cao Ðài (Xem Le Caodaisme, Lalaurette et Vilmont, bản đánh máy 132 trang) đã đi đến kết luận Cao Ðài là một hiện tượng thuần túy Nam kỳ (Strictement cochinchinois) nhằm đáp lại một nhu cầu về tâm linh của người Nam kỳ. Do đó họ cho phép Cao Ðài hoạt động ở Nam kỳ, nhưng cấm ở Trung-Bắc kỳ và Cao Mên. Những người Âu châu vùng đất cũ cũng khó hiểu những đạo xuất hiện ở Bắc Mỹ vào những thế kỷ 18-19 mặc dầu những đạo đó đều bắt nguồn từ Kitô giáo mà không phải Công giáo hay Tin lành. Trong cộng đồng người Việt ở Bắc Mỹ hiện nay có những hiện tượng Trương Tấn Ðạt, một luật sư nguời Công giáo ở Sài Gòn trước 75, hiện tượng Thanh Hải vô thượng sư. Tôi có tìm hiểu bằng phỏng vấn trực tiếp độ 30 người trí thức trẻ người Việt và người Mỹ, Canada để tìm hiểu tại sao họ nhận Thanh Hải làm sư phụ mặc dầu họ là những người gốc đạo thiên chúa hay Phật giáo. Tôi cũng thấy Thanh Hải đáp lại một nhu cầu về tâm linh của họ. Kim Ðịnh một linh mục viết những sách về Việt nho, trước 75 mặc áo dài trắng như Cao Ðài được nhiều sinh viên ưa thích. Nhưng chỉ sang Bắc Mỹ những người ưa thích mới tổ chức thành nhóm trao đổi in sách của Kim Ðịnh, coi Kim Ðịnh như một thứ sư phụ, nhưng chính Kim Ðịnh lại cảm thấy cần một sư phụ. Tôi có đọc một thư của Kim Ðịnh gửi Thanh Hải vô thượng sư xin được làm đệ tử của Thanh Hải, nhận Thanh Hải làm sư phụ (thư này không giả mạo vì tôi biết chữ của Kim Ðịnh).


Tìm hiểu lối nhìn đánh giá của Võ Phiến trong Văn học Miền Nam tôi cũng nhận ra đây không phải là phong cách của người làm văn học, mà như thể của một thứ sư phụ trong văn học, không dựa trên lý luận, mà trên một uy tín tinh thần, đã được gán cho để khen chê người nọ người kia. Chẳng hạn nói đến Nguyễn Mộng Giác (NMG), một người đồng hương, Võ Phiến ca tụng dựa vào một cú điện thọai của Lê Tất Ðiều: "NMG viết truyện hay quá trời." Về con người NMG cũng được yêu thích, tóm lại không có điểm nào có thể chê trách NMG được. Nhưng đến NTH thì nhà văn nữ này viết truyện chỉ là gây ồn cũng như đời sống yêu đương cũng chỉ là ồn ào. Những người ngưỡng mộ Võ Phiến không thấy cung cách của Võ Phiến là không phù hợp với những đòi hỏi phê bình của nghiên cứu khoa học, vì thế nếu những người không chia sẻ lòng ngưỡng mộ Võ Phiến mà chê trách Võ Phiến, chỉ càng làm cho những người ngưỡng mộ Võ Phiến, ngưỡng mộ hơn mà thôi.

Vậy những ai không ngưỡng mộ Võ Phiến như một sư phụ thì xin cầm đọc một bộ văn học miền Nam khác. Trong bài "Sưu tầm lưu trữ khai thác vốn cũ văn học VN" (tạp chí Hợp Lưu số 47 /1999), tôi đã đưa ra đề nghị cụ thể: ước mong cộng đồng người Việt thiết lập một thư viện văn khố Việt Nam và tôi sẵn sàng đóng góp phần của mình -- ngày trước, tôi nhận được thư của ông Lê Ðình Ðiểu loan báo việc thành lập "Người Việt Foundation", và đóng góp 50 ngàn đô-la. Tôi đáp lời ông Ðiểu, nói: tôi không có tiền, nhưng có sách báo chả nhẽ bán đi mà góp tiền. Chẳng may ông Ðiểu qua đời, không rõ hội này bây giờ ra sao. Thực tế những ai cần đọc hoặc những bài của mình hoặc của bạn bè hay của cả tạp chí, chỉ xin liên hệ với chúng tôi để sao chụp, không phải chỉ các tạp chí Hành Trình, Ðất Nước, Trình Bày, Nghiên Cứu Văn Học, và cả Sáng Tạo, Thế kỷ 20, Hiện Ðại, Văn nghệ, Văn Hóa Ngày Nay, Văn, Bách Khoa...
Ðọc rồi thì đọc lại, chưa đọc thì đọc văn học miền Nam thời VNCH, chắc sẽ thấy nền văn học này phong phú đa dạng như những người miền Bắc nhận xét sau 75. Về tính chất, văn học này không có tính Ðảng hay Quốc gia hiểu trên phương diện ý thức hệ, mà chỉ có tính Việt Nam. Người Cộng sản nằm vùng chỉ có thể làm thứ văn chương biểu lộ tính VN tính dân tộc để quy tụ, tranh thủ những người Quốc gia chống Cộng tham dự các tổ chức sinh hoạt tranh đấu của họ. Trong Văn học miền Nam tổng quan, Võ Phiến nhắc tới tờ Tin Văn được sự chỉ đạo của Cộng sản, và vì thế "thuộc hẳn về giặc rồi, còn những tờ Trình Bày, Ðối Diện đóng góp rất nhiều cho Cộng sản trong việc thôn tính miền Nam, Hành Trình, Ðất Nước cũng đóng góp được đáng kể đấy. Nghiêm chỉnh, trịnh trong, ngây thơ họ đóng góp đều đều chăm chỉ cho Cộng sản." (trang 216-217). Xin mời đọc Tin Văn số 15 tường thuật cuộc hội thảo về phê bình văn nghệ ngày chủ nhựt 15-01-1967, quy tụ 250 nhân sĩ, trí thức, ký giả, văn nghệ sĩ trong số đó có những người như Hiếu Chân, Nhật Tiến, Bùi Hữu Sủng, Lê Xuân Khoa, Ðặng Văn Nhâm... Buổi hội thảo do mấy hội văn hóa của Thành Ðoàn, --cơ quan lãnh đạo bí mật nội thành của Ðảng CS-- và Tạp chí Tin Văn, Bách Khoa --mà Võ Phiến nhận là trưởng khối. Hai thuyết trình viên: Nhật Tiến và chủ nhiệm Tin Văn Nguyễn Ngọc Lương. Sau buổi hội thảo có lời tuyên bố do chủ tịch đoàn gồm những vị Bùi Hữu Sủng, Hiếu Chân, Ðặng Văn Nhâm, Bùi Chánh Thời, Thế Nguyên ký tên. Như vậy, 250 nhân sĩ trí thức có đóng góp tích cực vào việc thực hiện đường lối tranh đấu trên mặt trận văn hóa ở vùng Mỹ-Ngụy bị tạm chiếm hay không? 10 năm sau 1975, Thành đoàn xuất bản cuốn "Trui Rèn Trong Lửa Ðỏ", kể lại các thành tích đạt được trước 1975, trong đó, có bài của Vũ Hạnh nói về Tin Văn, --cơ quan của Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc. 25 năm sau sau 75, Lữ Phương chống đối công khai Nguyễn Ngọc Lương và Vũ Hạnh, oán trách Ðảng, than thở với bạn bè Sài Gòn. Khi chủ nghĩa nhân danh nó để hoạt động không còn thì sự lợi dụng chánh trị cũng không còn, chỉ còn bản thân tác phẩm của những tác giả với những tấm lòng chân thành, những ước vọng cao cả và những ý định tố cáo chính đáng, quy chụp tố Cộng, mặc dầu trong trường hợp Vũ Hạnh là đúng, nhưng vấn đề không phải là đúng hay sai mà người cầm bút làm văn hóa không thay thế vai trò của người làm công an. Do đó, tờ Tin Văn vẫn là của văn học Miền Nam thời Việt Nam Cộng Hoà, cần được trân trọng như những tạp chí khác.


*

Bài này viết từ Montréal, nhìn từ Bắc Mỹ. Tôi đi Âu châu: Luân Ðôn, Paris, Strasbourg, nhìn từ Âu châu và từ Việt Nam qua thư từ của bạn bè ở Sài Gòn, đặc biệt của Trần Thái Ðỉnh, tác giả cuốn Triết học hiện sinh, bán chạy, do Võ Phiến xuất bản.
Tôi và Ðoàn Xuân Kiên, gặp lại Diễm Châu ở Strasbourg. Diễm Châu với Thế Nguyên đã điều hành các tạp chí Hành Trình, Ðất Nước, Trình Bày, biết rõ những giao dịch với các bạn cầm bút cộng tác với các tạp chí kể trên và với những bạn khác có liên hệ như Võ Phiến. Diễm Châu kể cho tôi nghe những khó khăn, áp lực chính trị từ nhiều phía mà hiện nay chưa thể tiết lộ được. Riêng đối với Võ Phiến, Diễm Châu cho biết những gì Thế Nguyên và Diễm Châu đã trân trọng làm cho Võ Phiến như giới thiệu tác phẩm của Võ Phiến; và qua những người bạn của hai người, cung cấp cho Võ Phiến, những kiến thức về các nhà văn phương Tây như Marcel Proust... Võ Phiến đã viết thư cám ơn những giúp đỡ đó. Diễm Châu sang Hoa Kỳ, được đọc những lời Võ Phiến "tố cáo" Hành Trình, Ðất Nước, Trình Bày, và riêng Thế Nguyên là "cán bộ cộng sản". Diễm Châu vẫn giữ im lặng cho đến bây giờ. Diễm Châu và tôi, chúng tôi thấy cần lên tiếng về bộ Văn học miền Nam, nhất là công trình biên soạn này, được giới Ðại học ở một vài nơi coi như tài liệu đáng tin cậy. Theo chỗ chúng tôi nhận định, bộ Văn học miền Nam đã có những đánh giá sai lạc về mặt văn học, đối với nhiều nhà văn mà tôi đã kể ở trên, không đáng được coi là phê bình văn học nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, về mặt chính trị, chúng tôi hoàn toàn thông cảm với Võ Phiến, đã nói và viết về văn học miền Nam trong hoàn cảnh được xưng tụng là người chống Cộng số một, mà một người khác trong vị trí đó, có lẽ cũng phải làm như Võ Phiến.
Một cách tích cực, chúng tôi thấy cần phải giới thiệu một bộ Văn học miền Nam khác, đúng với tinh thần nghiên cứu đại học, mà chúng tôi nhận lãnh trách nhiệm biên tập (3).


*



Lời nói cuối: Vì con em chúng ta
Nguyễn Thụy Long ở trong nước cho biết: thời đổi mới hàng loạt sách trước kia bị cấm đọc nay được tái bản. Những sách của Tự Lực Văn Ðoàn được tái bản hầu hết. (Hồi ký viết trên gác bút, Văn Nghệ, 1999). Trước 1975, Thanh Lãng đã sưu tầm , quay ronéo hơn 20 tập giới thiệu các tạp chí trước 1945 cho sinh viên Ban Văn chương trường đại học Văn Khoa dùng, chưa in thành sách. Sau 1975, nhóm giáo sư dạy văn TPHCM đã đem in được vài tập. Không phải chỉ sách báo thời VNCH mà cả sách của hải ngoại cũng được tái bản. Bộ truyện dài Sông Côn Mùa Lũ của Nguyễn Mộng Giác đã được tái bản trong nước, không phải do tác giả yêu cầu mà một nhà xuất bản đề nghị, trả nhuận bút đàng hoàng, trân trọng giới thiệu, không một lời nào nói đến chính trị, không có ra mắt sách (về nước nhiều lần) để tác giả khỏi bị phiền hà ở hải ngoại.

Nhưng căn bản vấn đề là tư tưởng lý luận chỉ đạo và phương pháp luận: những cách tiếp cận. Mấy chục năm thực hiện chính sách xoá sạch đốt sạch văn hoá dựa trên tư tưởng lý luận nào? Bây giờ chủ trương đổi mới theo lý luận nào? Cho đến nay chưa có những trao đổi ý kiến thảo luận thẳng thắn về hai điểm của vấn đề căn bản này. Ðảng có một ban văn hoá tư tưởng. Công giáo cũng có một thể chế tương tự. Công đồng Vatican II nhằm mục đích đổi mới tưởng chừng đã có thể xoá bỏ được cơ quan phụ trách bảo vệ sự thuần khiết của tín lý, nhưng dần dà nó lại được phục hồi gần như cũ. Dù sao vẫn có những nhóm tư tưởng khác, ngay cả bị cảnh cáo cấm đoán vẫn tiếp tục dóng lên tiếng nói của mình, và ảnh hưởng sâu đậm trong cộng đồng tín hữu. Ở hải ngoại, không có đảng lãnh đạo, không có ban văn hoá tư tưởng để duy trì một Hội Nhà Văn, trái lại có quá nhiều hội nhà văn, ba bốn trung tâm văn bút, xưng tụng đề cao nhau, không ai bảo được ai. Rút cục sinh hoạt văn học cũng bị trì trệ. Vậy phải giải quyết thế nào nhu cầu tư tưởng chỉ đạo và những cách tiếp cận về phương pháp luận.

Ngoài ra chủ trương phá sạch đốt sạch cũng đưa đến hậu quả: tạo ra một khoảng trống về nhân sự, không có người được đào tạo để thực hiện đổi mới và lãnh đạo đổi mới. Vẫn những quan chức cũ tiếp tục điều hành đường lối đổi mới. Ðường lối đổi mới đó có chủ trương trân trọng văn học miền Nam, nhưng làm sao những người trước đây đã vùi dập, mạt sát nó có thể hiểu và thực sự đề cao nó được? Khoảng trống đó cũng ảnh hưởng đến những quốc gia có quan hệ văn hoá với Việt Nam, chẳng hạn như nước Pháp. Vì giao lưu văn hoá bị gián đoạn nên nước Pháp không có điều kiện đào tạo những nhà Việt học trong khoảng hai ba chục năm liền. Ðến thời Việt Nam mở cửa, Pháp chỉ có sẵn những người đã từng hoạt động ở Miền Nam trước 1975, chỉ có thể nghiên cứu giảng dạy về lịch sử văn học chính trị Việt Nam thời Pháp thuộc. Còn phải đợi nhiều năm nữa mới có thể đào tạo một thế hệ những nhà nghiên cứu Pháp am hiểu chữ nôm, chữ nho, Phật học, Nho học…

Tôi được biết, người ta đang hy vọng sẽ có trong tương lai gần đây, những nhà nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam xuất thân từ các trường đại học Âu Mỹ. Họ mới chỉ là số ít tiếp xúc được với văn học, văn hoá Việt Nam. Ða số lớp trẻ hơn hấp thụ những kiến thức khoa học hiện đại về những lối tiếp cận văn học, sử học, xã hội học. Chỉ thiếu liên hệ với thực tế Việt Nam. Tôi thật ngỡ ngàng khi đọc những bộ sách giáo khoa về các ngành khoa học xã hội mà con em chúng ta học ở các lớp cuối trung học và đầu đại học, vì tôi có thể tìm thấy những giải đáp cho những thắc mắc mà tôi vất vả tìm đọc tại những nơi khác. Ngoài ra, đọc các luận văn của các con cháu, tôi thấy con em chúng ta đã liên hệ thật trung thực những kiến thức lý luận với thực tiễn Âu Mỹ. Do đó, thật cần thiết giúp đỡ con em chúng ta tiếp cận văn hoá Việt Nam không chỉ thời hiện đại mà có thể cả những thời kỳ trước kia. Chắc chắn khi ấy con em chúng ta sẽ có thể đưa ra những lối tiếp cận văn hoá Việt Nam mới mẻ và độïc đáo, lại mang tính khoa học. Lúc đó chúng ta sẽ có một đội ngũ đông đảo những nhà Việt học được đào tạo đến nơi đến chốn tại Tây phương, từ trong nước gửi ra du học và tại chỗ. Họ không có gì để chia rẽ với nhau, và chỉ có một đồng thuận làm sao đưa nghiên cứu lý luận văn học Việt Nam lên trình độ quốc tế.

Muốn cho con em chúng ta lưu ý đến văn hoá, văn học Việt Nam, những bậc đàn anh đã làm văn hoá văn học trước hết phải cho con em chúng ta không phải chỉ biết kính trọng vì tuổi tác mà còn kính phục về kiến thức và tư cách. Người ta thường nói: người tài giỏi chỉ hữu ích cho đời phần nửa đời trước, còn nửa đời sau chỉ làm hại vì cung cách sống lâu lên lão làng, lão hoá. Muốn tránh lão hoá, cần khiêm tốn nhìn nhận những thiếu sót, ảo tưởng của mình, và trân trọng người trẻ ngay cả khi họ bày tỏ một thái độ bất kính. Vì sự kính trọng đích thực lại bắt đầu từ thái độ bất kính. Và từ chỗ bất kính tiến đến sự kính trọng, là cả hai bên đã trải qua một quá trình thử thách: Thế hệ già phải nhìn nhận những nhược điểm của mình, nếu cần, rút lui đúng chỗ, để thế hệ trẻ tiếp tục con đường; thế hệ trẻ cũng phải thắng những kiêu căng cường điệu của tuổi trẻ để tìm hiểu những kinh nghiệm của người đi trước, và từ đó làm điểm tựa để tiến tới tương lai.

Montréal, Luân Ðôn, Paris, Strasbourg, tháng 1-2/2003
Nguyễn Văn Trung

© Copyright Nguyễn Văn Trung 2003
----------------------

Chú thích:
1. Tolle lege bắt nguồn từ sự tích thánh Ôgustinô, đứa con hoang đàng, trong lúc giao động, tưởng như nghe tiếng gọi thúc dục cầm đọc đọan Thánh Thư của Phao lồ khuyên từ bỏ thú vui trác táng. Thánh nhân đã đọc và quyết định trở lại đạo.

2. Võ Phiến tại Ðại học Paris (bài của Mai Chi, do Ðặng Tiến gửi)
Tại Ðại học Paris 3, Sorbonne Nouvelle, ngày 9-10-2001, bà Trương thị Liễu đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ văn học đối chiếu với đề tài Võ Phiến, Văn hoá dân tộc và văn học Phương Tây, do các ông DH. Pageaux, giáo sư đại học Paris 3 và Ðặng Tiến, giảng viên Ðại học Paris 7 điều khiển. Ngoài ra ban giám khảo còn gồm có các giáo sư J. Bessière, Paris 8, chủ khảo, giáo sư Trịnh Văn Thảo, Provence Aix-Marseille 1, và J. Dugast, Rennes 2, phụ khảo.
Luận án công phu và nghiêm túc gồm phần luận văn 400 trang và phụ lục, 200 trang, trình bày thư mục, chú giải và dịch thuật 4 truyện ngắn.
Phần lý luận giới thiệu thân thế và toàn bộ tác phẩm Võ Phiến, nhấn mạnh vào những truyện huyền ảo (Fantastique). Phần 2, phân tích ảnh hưởng văn chương phương Tây, từ A.Daudet, S. Maugham đến D. Buzzaty, M. Butor. Và đặc biệt trong khoảng 100 trang cuối, tác giả đã đề xuất những giao thoa với tác phẩm M. Proust: Những chủ đề, kỹ thuật kể chuyện, phương pháp dự tưởng như phản ánh huyền thoại Orphée…
Các giám khảo thừa nhận công sức lao động và công lao khai phá, mở đường cho văn học đối chiếu vào một mảnh đất còn là một hoang địa là văn học Việt Nam hiện đại. Ngoài ra , tác giả còn khôi phục một thời kỳ văn học bất hành, dưới một chế độ chính trị phôi pha tại miền Nam từ 1954 đến 1975. Hai mươi năm trong văn học lịch sử thế giới có là bao.
Công trình bà Liễu gian nan: Từ việc truy lùng tài liệu đến xử lý văn bản: đọc Võ Phiến và Proust không phải đơn giản. Sau đó là phần lập thuyết và lập ngôn.
Một ví dụ cụ thể, có giám khảo đã nhận xét dịch Ðông Kinh Nghĩa Thục ra là Institut du Tonkin là tùy tiện, trả lời: dịch theo Nguyễn Khắc Viện. Một giám khảo khác cho biết lối dịch này phổ biến ít nhất là từ Jean Chesneaux (1955). Nhóm ngoại văn ở Hà Nội dịch: École de la juste cause, không biết dựa vào đâu. Tư liệu về Ðông Kinh Nghĩa Thục thì nhiều, nhưng không ai chịu khó giải thích "Ðông Kinh" nghĩa là gì, trừ Nguyễn Hiến Lê, trong một cuốn sách khó kiếm (1956). Mới đây, trường Viễn Ðông Bác Cổ kết hợp với nhà xuất bản Văn Hóa có ấn hành một cuốn thơ văn Ðông Kinh Nghĩa Thục, dịch ra tiếng Pháp là Prose et Poésies de l'école Ðông Kinh (1997).
Tóm lại, bên cạnh những chi tiết có thể bàn lại, công trình của bà Trương thị Liễu ngoài tính cách khoa bảng, còn có tác dụng giới thiệu, khai phá và đóng góp. Hội đồng đã đồng thanh cấp danh vị Tiến sĩ hạng Tối ưu với lời khen (Mention très honorable avec Félicitations du Jury.)
Giáo sư Pageaux đã đề nghị tác giả thu gọn luận văn thành 200 trang để có thể xuất bản trong loại sách Tương Lai của Quá khứ (Avenir du passé) của nhà xuất bản L'Harmatan, Paris.

Mai Chi.



3. Công trình sưu tầm biên tập về văn học miền Nam (1955-1975) sẽ được thực hiện bằng cách giới thiệu các tạp chí vì hầu hết các tác giả đều có bài đăng trong tạp chí, không bị kiểm duyệt, trong khi ra sách phải qua kiểm duyệt, cho nên có tình trạng: thơ, văn chỉ xuất hiện trên tạp chí mà thôi.
- Các tạp chí sẽ được giới thiệu toàn tập, nếu chỉ có dưới 10 số, như Thế Kỷ XX, Hiện Ðại, và tuyển tập nếu có nhiều số.
- Việc giới thiệu tạp chí sẽ do chính chủ nhiệm, chủ bút -nếu còn sống- làm; còn các bài sẽ do chính tác giả lựa chọn, đề nghị. Trường hợp các tác giả đã qua đời, sẽ do bạn bè họ làm. Các tác giả được yêu cầu cung cấp một tiểu sử ngắn gọn, với danh sách đầy đủ các tác phẩm, ghi chú nhà xuất bản, nơi và năm xuất bản.
Ban chủ trương sẽ chỉ giới thiệu hoàn cảnh qui định sự xuất hiện và ngừng hoạt động của các tạp chí, không làm việc phê bình, giới thiệu tất cả các tạp chí và tác giả, không phân biệt xu hướng văn hóa và chính trị.
Buổi đầu, chúng tôi sẽ giới thiệu những tạp chí sau đây: Bách Khoa, Sáng Tạo, Thế Kỷ XX, Hiện Ðại, Văn Nghệ, Văn, Hành Trình, Ðất Nước, Trình Bày, Nghiên Cứu Văn Học ... Vì không có tài chánh, chúng tôi chỉ sao chụp, thực hiện những tuyển tập, toàn tập theo yêu cầu của người đọc.

Ðịa chỉ liên lạc:

Nguyễn Văn Trung
1956 Emile Legrand
Montréal, Québec, H1N 3H5, Canada
Ðiện thoại: (514) 899-1135.
Email: vantrungnguyen@hotmail.com

Diễm Châu Phạm
14 rue Tacite
67200 Strasbourg
France

Ấn loát:

Trịnh Viết Ðức (Nam Sơn)
11883, Bois de Boulogne
Montréal. QC. H3M 2X5.
Canada





















trái: Phan Nguyên, Nv Nam Dao, Cô Trần Thị Minh Chi và Gs Nguyễn Văn Trung 
Montreal hè 2019








Lục Châu Học















Trở về













MDTG là một webblog "mở" để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ