" cuộc phỏng vấn văn nghệ [ tạp chí Bách Khoa/ Sài Gòn] : NGUYỄN MẠNH CÔN / Nguiễn Ngu Í -- trích : https://www.hocxa.com>
NGUYỄN MẠNH CÔN
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn (1920-1979)
Sanh ngày 7 tháng 4 năm Canh thân (l5-3-1920).
Từng làm chủ nhà in (1940), sĩ quan trong một bộ Tham mưu lục quân Nhật (l942-43), đại biểu đoàn thể (Cách mạng hải ngoại) trong Quốc hội 1945, dân quân du kích xã (1948-49), nhân viên trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (1949-50), giáo sư tư thục (1953-54), thiếu úy (đồng hóa) quân đội Việt Nam Cộng Hòa (1956-59), hiện giờ giúp đài Phát thanh quốc gia và viết báo.
Cộng tác với báo Đông Pháp (1939), chủ bút tuần báo Thông tin (1944), quản lí báo Thống Nhất (1945), chủ nhiệm báo Phục Quốc (1946), chủ nhiệm nhật báo Tin Tức (1954), sáng lập báo Chỉ Đạo (1956) và làm chủ bút báo này một dạo (1961), chủ bút báo Văn Hữu (1959).
Đã xuất bản: Việt Minh, ngươi đi đâu? (1956), Chống Mác-Xít (1957), Đem tâm tình viết lịch sử (1957, kí Nguyễn Kiên Trung), Kỳ Hoa-Tử (truyện, 1960), Truyện ba người lính nhảy dù lâm nạn (truyện, 1960).
Tôi đến thăm anh vì nghe tin anh bất thình lình bị đau. Trong căn phòng tối mờ mờ, hai con mắt tôi ở ngoài nắng mới vào chỉ nhận thấy một ngọn lửa ở giữa đi-văng, và, phía sau ngọn lửa, một bóng người quàng chăn mỏng, ngồi dựa lưng vào tường. Tôi bắt tay, hỏi thăm, hai bàn tay lành lạnh mà dâm dấp mồ hôi.
Có lẽ đoán được ý tôi muốn hỏi về bệnh trạng của anh, anh để nở một nụ cười mệt nhọc:
- Phải gió, anh ạ! Phải gió thì rất thường nhưng "surmenage" (lao lực quá độ) kéo dài lâu quá đến lúc quị thì kích-thích-tố tiêm vào người như nước lã.
Nghỉ một chút anh nói tiếp:
- Bọn chúng mình viết bài ăn tiền, không cố gắng, không đúng hẹn, không đủ sống. Mà cố gắng mấy hôm nay tôi tự nhiên thấy sợ tương lai, thấy mình già hẳn đi, mệt mỏi, lo lắng không biết sau này hết khả năng lao động rồi thì kiếm sống bằng cách nào!
Nghe anh nói mà buồn. Nhưng tôi lại nhớ đến một vài ý kiến gần đây thường cho anh thuộc loại nhà văn được "chiêu đãi", tôi muốn nhắc đến điều đó, nhưng nghĩ anh đương mệt nên lại thôi. Nhưng sau cùng, chúng tôi cũng thông cảm được với nhau: chủ nhân thỏa thuận với tôi, bằng lòng trả lời bất cứ câu hỏi nào của tôi, về đời riêng cũng như về lập truờng văn nghệ. Theo ý anh, sự ao ước thứ nhất của con người cầm bút là được đi vào văn học sử, mà đã đi vào được văn học sử thì không còn cá nhân riêng tư, bởi vì một thái độ quan trọng của một người có thể do một hoàn cảnh tâm lý rất tế nhị tạo ra, nếu người đó giữ kín thì về sau không ai có thể biết và những nhà nghiên cứu văn học về sau sẽ hiểu lầm hết cả.
Vậy đồng ý không có chuyện giữ bí mật, kể cả về gia đình, về tiền bạc, về tính tốt cũng như tính xấu của người ngồi đối diện với tôi. Trừ trường hợp bí mật liên hệ đến người khác, mà người đó muốn giữ. Kể ra thì hoàn cảnh cũng có phần nào đặc biệt thật. Tôi thấy cần phải mở cho anh một con đường rút lui, bằng cách hỏi thẳng anh:
- Ý kiến mà anh nói đây là ý kiến anh vẫn có từ lâu, hay anh chỉ mới có nó được ít bữa.
- Xin anh yên tâm, nó không phải là sản phẩm của bệnh hoạn đâu. Tôi có quan niệm này từ lâu rồi, nhưng không ai hỏi, thì không nói ra đấy thôi.
Tôi được biết như vậy rồi, bèn trở lại ngay vấn đề "kiếm sống" của anh.
Tôi hỏi:
- Tôi nghe mấy anh em nói anh hiện thuộc vào hạn kiếm được nhiều tiền nhất. Hình như mỗi tháng hai ba chục ngàn, có phải không?
Anh trả lời không nghĩ:
- Đâu có anh! Có lẽ mấy anh bạn tôi gộp số tiền tôi lĩnh hàng tháng năm ngoái vào số tiền hiện tôi kiếm được hàng tháng bây giờ.
- Sao lại có sự khác biệt như vậy?
- Vì năm ngoái tôi được một cơ quan nghiên cứu chính trị và xã hội trợ cấp cho mỗi tháng 10 ngàn để viết văn chống Cộng, nhưng cơ quan này không phải là một tờ báo, nên 10 ngàn thật ra là cho không. Tôi lĩnh được một năm, thấy mình sắp sửa đâm lười biếng, vội xin thôi ngay. Tôi bỏ trợ cấp, đi làm cho "Sài-Gòn Mai" được 15 ngày, rồi được làm tờ Chỉ Đạo, lương tháng 8 ngàn, viết giúp Ngôn Luận, tính tiền bài, và Văn nghệ Tiền phong tính tháng, cộng tháng nào đủ 3 bài cho Ngôn Luận thì được 8 ngàn nữa. Như thế được 10 tháng, rồi không làm Chỉ Đạo nữa, tôi viết cho đài Phát thanh Sài-Gòn, cộng chung mỗi tháng muốn kiếm được độ 12 ngàn đồng, tôi phải viết 50 ngàn chữ, tức là khoảng 130 tờ đánh máy, giá trung bình 4 chữ được 1 đồng. Nhưng cái khó, khó hơn cả viết ra, là nghĩ làm sao cho có từ 15 đến 20 đề tài mà viết.
Tôi hỏi:
- Anh nói đề tài ở đây, có phải đề tài chính trị không?
- Không nhất định, anh ạ. Đài Sài-Gòn thì luôn luôn đòi bài tố Cộng, V.N.T.P. thì đúc kết tin tức "Bẩy ngày đêm tính quẩn chuyện đời", còn Ngôn Luận thì lại muốn tôi viết về xã hội, tâm lý hơn về chính trị. Nói tóm lại, là bình luận.
Tôi hỏi tại sao anh không viết bài bình luận hoặc sáng tác văn nghệ.
Anh cho biết:
- Bình luận văn nghệ thì không có chỗ đăng. Sáng tác thì không làm được vì tôi viết loại này khó khăn lắm. Có khi băn khoăn cả tháng không viết được một bài.
Tôi nhắc lại, gần đây anh viết trong tờ Tin Sách. Bài "Tâm sự tác giả", có lẽ anh viết thuần theo tưởng tượng mà cũng theo anh, anh có sức tưởng tượng phong phú lắm. Anh giải thích:
- Vâng thưa anh, tôi có cảm giác rằng khả năng tưởng tượng của tôi có phong phú thật, bởi đôi khi nó làm cho tôi quên hắn được thực tại. Nhưng tưởng tượng không, không đủ. Hay nói cho đúng là, đối với tôi trong lúc này, chưa đủ. Vì tôi còn mang một nhược điểm rất nặng là luôn luôn muốn viết truyện có luận đề. Có lẽ thằng người luân lý trong tâm hồn tôi lúc nào cũng phẫn nộ vì thái độ hèn hạ của kẻ này, vì hiếu lầm dại dột của kẻ khác, nên vẫn chưa thoát khỏi cái tư tưởng "thầy đời" rất thông thường trong những con người còn bị quá khứ của nó ám ảnh. Tôi tự thấy mình còn kém xa các nhà văn Tây phương là những người có thể hiện thực cái tốt cũng như cái xấu ở đời một cách hoàn toàn khách quan, như André Gide, Steinbeck chả hạn.
- Anh cho nhà văn nên có thái độ khách quan đối với đời sống hay sao?
- Vâng, hiện nay thì tôi nghĩ như vậy, có lẽ vì tôi hoàn toàn viết theo chủ quan nên kính phục thái độ khách quan, mà tôi cho là có khả năng nhìn rõ vào đời sống xã hội hơn. Nhưng rất có thể có thời gian nào đó, tôi cố gắng tiến tới được thái độ khách quan, chắc lúc đó lại ngưỡng mộ những ngòi bút chủ quan có sự thành khẩn, sự tha thiết với đời sống. Nói tóm lại, có lẽ là "đứng núi nọ tưởng núi kia là cuối" đó thôi!
Tôi nhắc lại bài tựa cuốn Kỳ-Hoa-Tử, trong đó anh viết rằng anh viết truyện là viết theo chỉ thị cấp trên, và hỏi:
- Như thế anh viết cho anh, cho xã hội, hay cho ai?
- Sự thật, tôi đã nói rồi, là tôi say mê lắm mà không dám nghĩ mình có thể viết truyện ngắn, truyện dài gì được. Chắc anh còn nhớ, vào hồi 1940-1945, chỉ có viết truyện mới được gọi là nhà văn, hai chữ "nhà văn" đẹp gấp nghìn vạn lần tấm Bắc Đẩu bội tinh, cho nên bọn người có học, ai cũng ham. Cũng bởi thế, những người viết xã thuyết, bình luận chỉ được gọi là "nhà báo", hay cao hơn nữa, là "học giả": hai chữ học giả cũng đã kêu lắm, nhưng vẫn chưa bằng nhà văn. Tôi từ nhỏ, vẫn được các bậc cha chú cho là có khiếu "chính trị", cho nên đến lúc ra đời, tôi viết và làm chính trị với một tinh thần chủ quan khá hỗn xược và kiêu ngạo, cả sau khi bị bắt mấy lần rồi vẫn thế. Nhưng về văn nghệ - ở đây là viết truyện - có lần tôi viết một truyện ngắn dài hai cột, đăng trên tờ báo do tôi làm chủ bút, mà đến khi cắt bài này đem đến "thỉnh thị" anh Nguyễn Tuân, thì anh Tuân ngồi uống xong bữa rượu có 3 tiếng đồng hồ không nói câu nào, mà tôi thì buồn đi tiểu đến chết được mà vẫn không dám đứng lên, sợ đứng lên giữa lúc anh định cho biết ý kiến.
- Ý kiến anh Tuân thế nào?
Sau cùng, tan bữa rượu, tôi phải về, cố thu hết can đảm hỏi anh một lần nữa, anh mới chợt nhớ ra, đem tờ báo ra xem lướt thật nhanh, rồi nói: - "Ừ, cũng có tâm sự đấy chứ!"
- Anh có giận anh Tuân không
- Thú thật với anh là có giận, và buồn, điếng cả người.
- Sau đó, anh nghỉ không viết nữa phải không
- Vâng, tôi nghỉ luôn cho đến cuối năm 1956, tôi bắt đầu viết những truyện mới được in gần gây. Đó là trường hợp viết do chỉ thị cấp trên mà anh vừa nói đến vừa rồi.
Đến đây, tôi chợt thấy tôi có cơ hội để đặt một câu hỏi mà, xưa nay, rất ít người trả lời thành thật. Tôi hỏi:
- Trong thời gian nghỉ sáng tác hơn 10 năm, anh có lần nào thấy được thèm khát được viết không? Nói cho rõ hơn, là tôi xin anh cho các bạn đọc của B.K. biết anh có thấy công việc sáng tác văn nghệ là cần thiết cho đời sống của anh không? Và, nếu có, xin anh cho biết vì lòng yêu nghệ thuật hay vì lẽ gì?
Anh cười:
- Tôi sẽ trả lời "tôi không thể sống không sáng tác", anh sẽ nghĩ trong bụng rằng tôi nói dối, nhưng vì lẽ này lẽ khác, anh sẽ không nỡ nói ra. Anh sẽ viết lại câu nói của tôi, để cho một vài bạn đọc mũi lòng thương con người "bạc đầu vì văn nghệ". Như thế sẽ có lợi cho tôi, phải không anh?
"Nhưng bây giờ tôi xin trả lời anh:
- "Tôi chẳng hề thấy cần phải sáng tác vì yêu văn nghệ. Trừ một trường hợp là, trong mấy năm gần đây, đã thỉnh thoảng được khen tặng đôi câu rồi, thì có vài lần chợt có một cốt truyện thích thú đặc biệt, tôi quả có ý nóng ruột muốn viết ra, đăng trên báo cho nhanh chóng, để được khen nữa. Nói tóm lại, tôi viết vì nhu cầu (về chính trị, về kiếm sống) bà viết để được có danh tiếng".
Tôi hỏi;
- Còn trường hợp anh bị phê bình, anh có nóng lòng trả lời không?
- Có chứ, nóng ghê lắm.
Tôi yêu cầu anh cho biết một ví dụ. Anh nói:
- Như vụ tôi bị buộc, trong một bài đọc sách, là có tư tưởng chủ bại. Tác giả bài đó lại không nói thẳng, mà chỉ gián tiếp nhắc đến đời tư của tôi. Tôi cho làm như thế là sai về tư tưởng, thấp về tâm hồn, nên tôi hết sức nóng nẩy, muốn trả lời một cách thật mạnh.
"Tôi nhớ có đọc bài trả lời này trong tờ Chỉ-Đạo, dưới hình thức một bức thư gửi cho ban Giám đốc tờ báo. Bức thư có vẻ bình tĩnh, không đến nỗi nóng nẩy lắm".
Anh giải thích một cách thành khẩn:
- Tôi nói nóng nẩy là sự nóng nẩy trong tâm hồn tôi. Vì nóng nẩy nên sinh ra độc ác, tôi viết bức thư ngỏ đó, ngoài sự tự bênh vực, còn có dụng ý đề cao và, do đó làm cho ban Giám đốc xấu hổ vì thái độ bất chính của người viết bài đọc sách.
Tôi hỏi:
- Nghe nói sau vụ đó, tác giả bài đọc sách kia đã phải nghỉ việc ở tòa báo ấy có phải không anh? Anh có lấy thế làm hài lòng không?
- Không, tôi không dám theo dõi vụ đó, vì bài tôi đăng lên báo rồi, tôi thấy mình hèn quá, nên cố quên.
- Sao anh lại nghĩ anh hèn? Tôi tưởng anh có thể cho anh là anh có quyền trả lời, còn câu chuyện nội bộ của tờ báo kia, anh làm thế nào mà đoán trước được?
- Không đoán được, nhưng muốn cho nó xẩy ra, hành động cho nó xẩy ra. Có lẽ tôi có thể cãi rằng bức thư của tôi chỉ nói lên sự thật và lẽ phải. Nhưng nguy nhất là tôi biết trong thâm tâm tôi có ý mong muốn cho người viết bài phải mất việc. Riêng cái ý muốn cho địch thủ bị thiệt hại đã là tồi lắm, tôi lại còn nghĩ mình hơn tuổi - do đó, hơn kinh nghiệm, thủ đoạn v.v... mà dùng thủ đoạn như thế để hại người ít hơn mình lối 20 tuổi, thì quả là hèn quá! Tôi tiếc nhất là không thể xin lỗi tác giả như hồi trước xin lỗi Thế Phong.
- Tại sao không thể xin lỗi?
- Vì tác giả cũng có lỗi về tinh thần.
Tôi nhân thấy anh nói "hồi trước xin lỗi", bèn hỏi anh có thể thuật lại việc đó hay không? Anh cho biết:
- Hồi đó tôi mới đến làm chủ bút tờ Văn-Hữu, tờ nguyệt san này lại mới chỉ sắp ra số 2. Mọi sự giao dịch giữa ông chủ nhiệm và tôi đều tốt đẹp. Đến một buổi tối, ông đến chơi nhà tôi, nói chuyện công việc một lúc rồi ông nhắc đến cuốn sách của Hoàng Trọng Miên, và cho tôi biết trong tờ V.H.A.C. có bài buộc H.T.M. và ngỏ ý yêu cầu tôi bênh vực họ Hoàng. Tôi nhận lời, hoàn toàn tin vào một là quyền hạn, hai là sự ngay thật của anh chủ nhiệm. Sự sơ xuất của tôi nặng nề nhất là tôi không biết cả rằng cuốn sách của H.T.M. chính là do cơ quan ấn hành tờ Văn-Hữu giúp vốn in. Tôi chỉ vùi đầu vào đọc có bài của Thế-PhonG (ký là Đ.B.B. mà, lúc đó tôi cũng không hỏi cho biết là ai) và cuốn sách của H.T.M. Thế rồi tôi viết bài bênh H.T.M. và tấn công Thế-Phong. Bởi đúng như tôi đã viết trong bài của tôi lúc đó, tôi không có cuốn sách cửa Nguyễn-Đổng-Chi, nhưng tôi bênh vực H.T.M. bởi vì bài công kích H.T.M. viết kém quá. Tôi cứ suy lối viết văn mà đoán tác giả còn đi học, và luôn dùng chữ "em" để chỉ, mặc dầu tôi không có ác ý, mà đọc lên thì rõ ràng là có ác ý. Bài của tôi đăng lên báo rồi tôi mới biết một là tác giả là người, dù còn trẻ, dù mới viết, vẫn có thể gọi là đồng nghiệp với tôi, hai là cuốn sách của H.T.M. quả có giống cuốn sách của Nguyễn-Đổng-Chi, đủ giống để gọi được là đạo văn. Tôi biết thế rồi thì ân hận lắm, và sau đó, tôi đã đi với Đỗ-Tốn - tác giả Hoa Vông Vang - đến gặp và xin lỗi Thế-Phong ở nhà hàng Thiên-Thai.
- Xin lỗi một bạn trẻ hơn nhiều như thế, anh có lấy làm hổ thẹn không?
Anh trả lời:
- Tôi nghĩ mình có lỗi, mình xin lỗi xong thì nhẹ hẳn tâm hồn đi, chứ sao lại hổ thẹn. Tôi cho rằng chỉ đáng hổ thẹn nếu mình có lỗi, mình cứ cãi bừa đi, nhưng rút cuộc vẫn bị người đời biết rằng lỗi ở mình.
- Ví dụ?
- Vâng, tôi có đến gặp người giữ mục đó. Tôi trách anh ta sao lại cho đăng những sự kiện trái hẳn với sự thật, có thể có hại cho tôi. Anh có biết anh bạn ấy trả lời thế nào không?
- Anh ấy bảo tôi - đúng nguyên văn - rằng: "Cậu mà cũng để ý đến loại tác giả những bài lăng nhăng ấy hay sao? Mình bí quá, đăng bừa đi. Bọn mình đã ngồi xổm lên dư luận rồi còn cần gì bọn chúng!"
Tôi giật mình, bật ra câu hỏi vô ý:
- Ai? Ai thế?
Anh không chịu trả lời, viện lẽ tên người đệ tam thuộc quyền họ, được giữ bí mật, anh không có quyền tiết lộ.
Tôi nhận thấy anh đã tỏ dấu mệt nhọc. Anh phải cắt một câu thành nhiều đoạn ngắn để nghỉ. Tôi liếc nhanh vào cổ tay: từ lúc tôi đến, đến bây giờ đã qua hai tiếng đồng hồ. Trước khi đứng lên, tôi nói đùa anh:
- Thế mà bảo là thành thật! Anh bảo anh không yêu văn nghệ, chỉ viết vì nhu cầu, vì tiếng khen thôi, mà mệt lử người rồi còn cố nói mãi!
Anh chớp mau đôi mắt:
- Sự thật thì "được tiếng khen, ho hen chẳng còn", người đời tranh nhau một tiếng khen, đến chết cũng còn dám, nữa là mệt lử mà thôi hay sao?
NGUIE N NGU Í
thực hiện
==================
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ