" Người Khách Lạ Lùng trên Biển Cả"/ Julien Green / Trần Thị Bông Giấy dịch -- source: Việt Văn Mới ( 12/ 07/ 2021)
NGƯỜI KHÁCH LẠ LÙNG
TRÊN BIỂN CẢ
JULIEN GREEN, nhà văn Mỹ nhưng viết bằng Pháp ngữ. Ông chào đời năm 1900 tại Paris và là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết (Adrienne Mesurat, 1927; Moira, 1950; Un Mauvais Lieu, 1977; Les Pays Lointains, 1987…) cùng những bản kịch (l’Automate, 1985) Tác phẩm của ông thường phô diễn sự thống khổ hằng ngày trong đời sống, sự tàn nhẫn hung bạo không thể chống cự, sự gia ơn và đôi khi lại là những điều tối tăm hắc ám. Léviathan là một truyện ngắn được viết vào năm 1927 và đăng lần đầu trong Collection, Les Cahiers Libres năm 1928.
I.
Ông ta đợi đã được năm phút trên cái cầu ở phía đàng trước chiếc tàu Bonne Espérance mà cái mũi to lớn của nó đã che khuất hẳn toàn thể cửa sông. Đám trẻ ranh chơi đùa trên các đống than và những cái chóp thùng rượu gần đó. Ông hẵn phải nghe tiếng la gào và tiếng cười rần rần của lũ trẻ, nhưng trong cái cách cúi đầu xuống, ông tỏ ra như chẳng hề biết đến điều gì khác chung quanh. Dáng cao cao, mặc một chiếc áo dạ đã cũ sờn có những cái túi lớn, ông thọc tay vào trong ấy. Cái vành mũ được kéo xuống tận mắt, che khuất cả khuôn mặt, ông đứng đó, bất động, chiếc valise kềnh càng để dưới chân.
Cuối cùng, khi một thủy thủ tìm đến thì ông tự cúi xuống xách valise lên; sức nặng của nó làm cho cổ tay ông rung động; và ông bước theo sau người chỉ đường trên chiếc cầu nhỏ dẫn lên sàn tàu. Người thủy thủ đưa ông tới căn buồng dành cho riêng ông. Khi còn lại một mình, ông đóng cánh cửa sổ ở thành tàu, xiết chặt ổ khóa và kéo tấm màn nhỏ bằng nỉ lại, xong bỏ nón ra. Ông khoảng độ bốn mươi, khuôn mặt buồn rầu, đường nét đều đặn và không có nếp nhăn. Tuy nhiên sự chán nản, nghi ngờ trên đôi mắt, cũng như một cái gì đó trên màu da đã nói lên rằng ông không còn trẻ nữa.
Nhấc chiếc valise đặt lên giường, ông mở ra, xổ tung các vật dụng trong ấy với cái vẻ của một người quyết tâm không để dư thừa thì giờ vô ích và cố gắng đánh tan mọi nghĩ ngợi bằng cách tự làm cho bận rộn trong một công việc tay chân nặng nề nào đó.
Tới xế chiều, một thủy thủ thay mặt thuyền trưởng đến mời ông dùng cơm tối trong phòng ăn chính của tàu. Ông không trả lời theo lời mời, mà chỉ hỏi mấy giờ thì chiếc tàu Bonne Espérance sẽ nhổ neo? Người thủy thủ trả lời rằng có thể vào lúc mười một giờ khuya đêm ấy.
“Vậy thì tốt!”, người khách nói, “tôi không dùng cơm đâu.”
Và rồi ông không rời khỏi buồng riêng.
Ngày hôm sau, thuyền trưởng Suher nhắn rằng muốn gặp người khách.
Vị thuyền trưởng có tất cả cái vẻ của một người hoàn toàn chân thật đến thành ra khiếm nhã. Ông nói với người khách một cách cộc cằn:
“Thưa ông, ông biết là tôi gần như không bao giờ nhận khách trên chiếc tàu này. Dĩ nhiên trong bản nội quy có cho phép làm điều ấy, nhưng tàu của tôi ưu tiên là để chở hàng hóa. Tôi đang làm một việc đặc biệt lợi ích cho ông đấy.”
Thuyền trưởng ngừng lời như để cho người khách cô độc có thì giờ nói tiếng cảm ơn. Nhưng người đàn ông kia vẫn im lặng. Vị thuyền trưởng bèn thọc tay vào trong túi và nhổm người trên hai gót chân với cái vẻ hơi tức cười:
“Tôi bắt buộc phải xem giấy thông hành của ông.”
“Tôi sẽ trình nó ra cho ông nếu thấy cần thiết”, người khách nói một cách giản dị.
“Trên tàu này, tất cả những gì tôi muốn đều là cần thiết cả”, vị thuyền trưởng trả lời cũng cùng giọng điệu.
Có một thoáng im lặng rơi xuống trong khi người khách sửa lại cặp kính đeo mắt, rồi lục tìm cái thẻ thông hành trong túi áo khoác và đưa trình nó ra. Thuyền trưởng cầm lấy, xem xét rất cẩn thận. Ông ta có một khuôn mặt mập mạp mà trên đó, sự tò mò bày tỏ ra nơi vô số các lằn nhăn bé nhỏ, đôi mắt lại có cái vẻ hau háu thèm khát khi nhìn vào tất cả mọi sự.
“Thật đáng tức cười khi ông có tư tưởng du hành trên một chiếc tàu chở hàng”, cuối cùng thuyền trưởng vừa nói, vừa trao trả tờ giấy thông hành lại cho người khách. “Chúng ta sẽ phải vượt biển trong hai mươi ngày, ông biết chứ?”
“Tôi biết”, người khách gật đầu. Rồi ông xếp giấy thông hành lại.
“Dĩ nhiên là giá có rẻ hơn một chút”, thuyền trưởng tiếp lời với một chút giả tạo. “Không còn nghi ngờ lý *do tại sao…”
Thuyền trưởng không nói dứt câu nhưng nhổm dậy trên mười đầu ngón chân và trước khi tự bật người trở lại trên hai gót, ông có vẻ như chờ đợi lời giải thích của người khách, nhưng người đàn ông kia vẫn im lặng. Thuyền trưởng tiếp:
“Vả lại, đó cũng không phải là việc của tôi.”
Ông ta nhún vai và quay lưng bỏ đi. Người khách cũng rút về buồng mình khi đó.
II.
Mặc dầu biển động mạnh nhưng những nguyên liệu to lớn đã bảo đảm cho chiếc tàu Bonne Espérance được gần như hoàn toàn vững chắc, và dưới bầu trời vần vũ như muốn có bão, chiếc tàu vẫn thẳng đường đi một cách chậm chạp nặng nề nhưng an toàn.
Những ngày đầu thật là khổ nhọc cho người khách. Ông không có cái vẻ gì của một thủy thủ. Với đôi chân bước đi không vững và nét lo âu đượm trên khuôn mặt, người ta có thể ngờ rằng ông chẳng hề đặt chân lên một chiếc sàn tàu nào trước đó. Phần lớn thì giờ trong ngày, ông ở lại trong buồng riêng và dường như tự thấy thích thú với nơi chốn ấy. Có những người có khả năng thích ứng ngay theo cùng một cách với bất cứ nơi nào xem ra họ phải ở lại lâu ngày tại đó. Làm sao để họ thu xếp được như thế thì đó là một sự bí mật, nhưng tất cả mọi điều họ làm chỉ là đổi chỗ một vài món đồ và bằng một phương pháp không thể giải thích, căn phòng khách sạn họ ngủ qua đêm sẽ có cái vẻ của một nơi chốn mà họ phải ở lại lâu ngày hoặc là của một căn nhà mà họ sẽ không bao giờ từ bỏ. Phải có điều gì đó trong họ chống đối lại với tư tưởng thay đổi và điều này giữ gìn để cho những sự vật chung quanh có một cái nhìn chắc chắn bền lâu hơn.
Có lẽ đó cũng là động lực thiên bẩm đã làm cho người khách trên tàu Bonne Espérance biến đổi càng nhiều càng tốt sự bày trí trong căn buồng riêng. Ông lật chiếc chăn màu xám tro trên giường ngủ ra, làm giấu đi cái mền đắp chân có mang những chữ đầu tên của một công ty. Ông cũng gỡ cả cái bao lưng của cái ghế dựa và để bày ra cũng cùng những chữ đầu tên được thêu bằng chỉ màu sáng. Có vài quyển sách đặt trên một kệ nhỏ, nguyên thủy được dùng làm kệ để giày dép. Cuối cùng, cái bàn bây giờ kê trong một góc rõ ràng là không được dự trù để tiếp nhận nó, giống như thể nó đã được đặt trước đó ở một nơi sáng sủa mà những dấu chân vẫn còn hằn trên mặt thảm. Nơi để cái bàn hiện tại chỉ là một chỗ gập ghềnh trên tàu, nhưng bằng phẳng hơn những nơi khác, sẽ không làm cho cái bàn nghiêng trúc. Tuy nhiên, người khách không biết điều đó bởi vì ông có rất ít sự hiểu biết về biển cả.
Ngay từ lúc bắt đầu cuộc du hành, những cơn mưa lớn ập xuống trên chiếc tàu Bonne Espérance , dữ dội đến nỗi làm cho người ta nghĩ là phải đưa nó trở lại bến.
Tuy nhiên, đã bao giờ có trường hợp một chiếc tàu quay lại bến chỉ vì trời mưa chưa? Vị thuyền trưởng tỏ ra coi thường tất cả cái thời tiết kinh khủng đó. “Ông là nguyên nhân của mọi nỗi này” , ông những muốn nói với người khách một cách xấc xược khi họ gặp nhau trên lối đi nhỏ. Trong khi ấy, người khách cao ráo sửa lại cặp kính và buông ra tiếng cười buồn rầu giống như một tiếng ho.
Một bữa, thuyền trưởng thẳng thừng nhắc nhủ người khách:
“Ông là khách của tôi nên ông sẽ phải dùng cơm nơi bàn ăn với tôi.”
Rồi ông chắp đôi bàn tay mủm mỉm bé nhỏ ra sau lưng và nói tiếp bằng một giọng cố làm cho ra vẻ khôi hài:
“Ê! Có phải điều ấy làm cho ông phiền rầu chăng?”
Người khách lắc đầu.
“Này”, thình lình thuyền trưởng hỏi, “có phải rằng ông không bao giờ trò chuyện?”
Nếu ở vào ba ngày trước, hẳn là vị thuyền trưởng đã không muốn đưa ra câu hỏi quá thân mật và không dính líu gì đến ông như thế; nhưng bởi vì ông chiến thắng được biển khơi nên tự cảm thấy mình quan trọng hẳn lên. Đùa giỡn như vậy một chút cũng không sao trên một lộ trình dài bốn trăm dặm tính từ bờ biển nước Pháp. Khuôn mặt người khách nhăn lại trong một cái cười gượng và ông cúi đầu rút lui.
Kể từ buổi ấy, họ dùng bữa với nhau trên một bàn ăn đặt trong căn phòng nhỏ tọa lạc phía đàng trước mũi tàu. Xuyên qua cánh cửa rộng, người ta có thể nhìn thấy toàn thể chân trời vô tận. Một luồng ánh sáng chói chang chiếu thẳng xuống trên chiếc bàn có hai người đàn ông đang ngồi đối diện.
“Giờ đây”, thuyền trưởng vừa nói vừa ngã đầu ra trên ghế, “ông thấy là mình đang hoàn toàn ở trên biển. Quay đầu về hướng nào cũng chỉ thấy biển và biển mà thôi.”
Rồi ông tâm sự, trong tất cả mọi phòng trên tàu, chỉ có nơi này là được ông ưa thích hơn hết. Ông cũng kể rằng ông là người sinh ra để sống trên biển. Ông không thích đất liền và các thành phố. Ông chỉ vui thú với sự cô đơn trên chiếc tàu của ông. Thuyền trưởng hỏi người khách:
“Ông nghĩ là tôi vui vẻ chứ gì? Tôi nhận đúng vậy bởi vì tôi ưa giễu cợt. Nhưng thật ra tôi chỉ thích làm vui cho những con người buồn rầu ủ dột mà thôi.”
Rồi dường như theo ông nghĩ, điều tâm sự ấy đáng được đền bù một lời tâm sự khác, nên ông nhìn thẳng mặt người khách và kêu lên:
“Đã có chuyện gì xẩy ra cho ông vậy? Hãy cho tôi biết về ông đi! Sao ông chẳng chịu nói gì cả?”
Điều ấy đúng. Người khách đã không hề thốt lời nào. Ông ăn trong im lặng, nhìn vị thuyền trưởng xuyên qua đôi kính đeo mắt, gật đầu, nhưng vẫn không nói. Tuy nhiên, người khách cũng không tỏ ra nhút nhát; đôi mắt ông ta có cái đặc tính quả quyết của những người bị cận thị mà sự tàng tật và sự cần thiết phải nhìn chăm chú vào người khác để trông cho rõ hơn, đã là một điều quen thuộc với mọi người chung quanh. Dẫu vậy, thỉnh thoảng cũng có một dấu nét nào đó hiện lên trên mặt người khách nhưng nhanh đến nỗi vị thuyền trưởng không nhận kịp ra được. Có phải điều ấy nẩy sinh từ một trạng thái khó chịu bất ngờ? Đột nhiên, đôi con ngươi của người khách đâm ra mơ hồ xa vắng và dường như mở lớn hơn, rồi ông cúi đầu xuống. Một nỗi tuyệt vọng ghê gớm trải dài trên dung mạo ông, lưu lại chốc lát rồi tan biến tức thì trong một cái nhăn nhúm của toàn thể khuôn mặt. Điều ấy giống như một sự khích động bất ngờ, và cứ hễ mỗi lần sự kiện này xảy ra thì người khách lại gỡ kính và cúi đầu xuống một chút.
Họ dùng tráng miệng, rồi vị thuyền trưởng nghịch với con dao ăn, làm cho nó đứng thẳng băng trên ngón tay trỏ của ông.
“Phải”, thuyền trưởng lập lại, “ông không hề nói gì hết. Nhưng tôi sẽ không nản chí. Vài ngày nữa trên biển, ông sẽ trở thành một người nói nhiều mà thôi.”
Người khách nhún vai, gỡ kính ra và bắt đầu lau chùi nó. Ông như dường muốn nói: “Rồi chúng ta sẽ thấy!”
Chắc chắn là vị thuyền trưởng đã có lý. Một tuần lễ trên chiếc tàu chở hàng có nghĩa gần như hoàn toàn cô đơn đối với một người khách, làm thay đổi một người đàn ông. Ngay cả đến tính đa sầu đa cảm cũng không thể chống cự nổi với sự cô đơn ấy. Người ta phải trò chuyện, phải làm quen, phải kết giao với người khác cho dù sau đó có phải bỏ lơ họ khi tàu vừa đến bến. Nhưng phải chăng là một điều bình thường khi mà sau năm hay sáu ngày trên biển, một con người bắt đầu nghĩ ít hơn về điểm đến của họ? Càng tới gần nơi chốn ấy bao nhiêu thì họ lại càng có khuynh hướng quên nó đi bấy nhiêu? Sự buồn tẻ đều đặn của chuyến du hành thấm vào người họ, và rồi một ý tưởng kỳ lạ sẽ nẩy sinh rằng những gì kéo dài trong nhiều ngày liên tiếp sẽ có thể không bao giờ chấm dứt. Giá có một trò tiêu khiển nào trong chốc lát, hay giá mà được đi ngang qua một hòn đảo nhỏ, hoặc chỉ trong khoảng cách có thể nhận biết ra cái mũi đất của một lục địa nào! Vậy mà chẳng có gì hiện đến để ngăn lại con đường vô tận của biển khơi và biển khơi vẫn cứ hiện hữu khi người ta vừa thức giấc cho tới các bữa ăn và trong suốt cả ngày dài. Với một người tánh khí nóng nảy thì cái quang cảnh độc điệu này sẽ là một nỗi khổ tâm đến gần như một trò tra tấn hành hạ họ. Vì thế những người trên tàu phải trông cậy vào đám đông đồng hành như một vị cứu tinh, ngay cả khi họ có lòng chán ghét đám đông chăng nữa. Để được sống còn, họ phải thoát ra khỏi mối dày vò buồn bực trong những ngày dài, thoát khỏi biển khơi và thoát luôn cả chiếc tàu to lớn giống như một con thủy quái kia, là những thứ luôn luôn âm thầm rình mò để mà đi theo sau họ.
III.
Có phải là tôi đã nói rằng chiếc tàu Bonne Espérance khởi đi từ Pháp qua Mỹ không? Đúng vậy, nó phải vượt qua trên một lộ trình rất dài, thẳng về hướng Savanah. Vị thuyền trưởng tỏ ra vô cùng mãn nguyện. Ông sống trên biển đã lâu và thường tự đánh tan sự cô đơn của mình bằng những cuộc chuyện trò với các thủy thủ, đôi khi cùng với những người khách trên tàu. Mà mỗi người khách thì cũng chẳng khác nào một cơn gió mạnh thổi bất ngờ từ non cao ra biển rộng rồi mất hút.
Giống như những con người có một kiến thức trung bình và đã từng đọc vài quyển tiểu thuyết, vị thuyền trưởng cũng rất hãnh diện theo sự hiểu biết về những gì mà ông gọi là tâm lý học. Ông tự tiêu khiển lấy mình trong sự quan sát những người chung quanh ông. Ông nghĩ rằng mình đã có được một sự thông minh to lớn trong óc. Và ông tin chắc là bằng vào một sự diễn tả nào đó mà ông ưa thích, thì với trí thông minh sẵn có, chỉ sau vài giờ trò chuyện cùng ai đó, ông có thể tìm ra cái dạng thức của người mà ông đang chú ý* đến.
Tôi sẽ không đi quá xa để nói rằng ông đã không ghi vào sổ tay những gì ông quan sát, mà lại chỉ muốn đưa chúng vào ngay trong cá tính của ông. Khi ông đã ban xong những mệnh lệnh cho mọi người và giám sát xong những việc trên tàu thì một ngày dài trước mắt cần phải được lấp kín. Vì vậy, đối với ông, người khách sẽ là nhân vật cung cấp cho ông nhiều trò tiêu khiển quí báu. Và như một nhà toán học xoa hai tay vào nhau mà biết trước cái đáp số của một bài toán đố khó, vị thuyền trưởng tự cho là may mắn khi có sự hiện diện của người khách trên chiếc tàu của ông. Chắc chắn là như thế! Rồi khi nghĩ tới điều ấy, ông đâm thích cái lối lạnh lùng của người khách. Sự lặng im mà thoạt đầu có thể làm cho ông nổi giận cùng với sự giữ gìn cẩn trọng trong tất cả mọi nỗi của người khách sẽ là những thứ kéo dài cuộc chơi và làm cho nó trở nên thú vị nhiều hơn.
Trong khi ấy, người khách dường như quyết định duy trì sự im lặng. Điều đó chứng tỏ rằng những cái nhìn tò mò của vị thuyền trưởng đã làm cho ông bất bình và nghĩ đến những giờ ăn chung như một điều quá ư khó chịu. Nhưng ông cố gắng che đậy mọi xúc cảm riêng và tất cả những gì ông bộc lộ chỉ là thái độ tự coi thường chính mình.
Giả sử vị thuyền trưởng giữ đúng như ông nghĩ ở trên thì hẳn là ông sẽ đoán ra được rằng người khách đang sợ hãi ông; đàng này thuyền trưởng lại nghĩ theo một cách khác nên đã tin chắc rằng ông chỉ đang giao dịch với một người chán đời và kiêu ngạo. Hài lòng với sự khám phá ấy, bây giờ vị thuyền trưởng lại đi quá trớn với sự khôn ngoan để mà đặt những câu hỏi khéo léo với người khách hầu tâng bốc cái tánh tự cao tự đại của mình; đồng thời cũng gợi cho người khách tâm sự tất cả những gì liên hệ đến ông. Tuy nhiên chiến thuật kiểu này đã bị hỏng. Ngay từ bước đầu tiên, thái độ thô lỗ cộc cằn và những câu hỏi khúc chiết đã làm cho vị thuyền trưởng bị thất bại. Người khách chẳng nói gì cả. Kết quả duy nhất chỉ là lúc vị thuyền trưởng trở nên quá nằn nì thì người khách cúi đầu thấp xuống, giống như người ta thường làm khi đứng trước một cơn gió mạnh hay một tiếng hét chói tai.
Đương lúc bấy giờ, bầu trời trở nên trong sáng và chiếc Bonne Espérance dường như được đền bù những ngày khá hơn. Khí hậu ấm áp. Sự im lặng ngự trị khắp nơi, thỉnh thoảng mới bị cắt ngang bởi những đợt sóng vỗ ầm ì hai bên mạn tàu. Tuy vậy, người khách vẫn không rời khỏi buồng riêng. Ở đó, xem ra ông thấy dễ chịu hơn. Phải nói rằng ông sợ tất cả mọi thứ bên ngoài căn buồng đó và cứ mỗi lần băng qua ngưỡng cửa của nó là ông lại như đang ở vào một sự nguy hiểm nào. Có đôi lúc, các người thủy thủ lại nhìn thấy một khuôn mặt trắng bệch đượm đầy vẻ do dự nơi một trong những cửa sổ khi họ đi ngang qua trên sàn tàu. Rồi bất thần, một cách hoảng sợ, khuôn mặt ấy biến mất tức thì.
Đứng trước sự lặng im của người khách, thoạt đầu vị thuyền trưởng sững sờ kinh ngạc; sau ông trở nên tức giận. Ông mời người khách ngồi ăn chung bàn, đối xử thành thật như với một người bạn –một người bạn cũ- và ngay cả tâm sự về một vài điều thật trong đời tư của ông mà chẳng nhận lại được gì cả! Hẳn nhiên, dò xét sự bí mật của một người trầm mặc ít nói bằng cách chỉ dùng đến sự quan sát và trí thông minh thì quả là một điều thú vị. Nhưng sau gần ba tuần lễ, vị thuyền trưởng đã thấy chán lắm rồi. Trên nét mặt phiền rầu của người khách có cái vẻ từ khước nào đó. Và sự lặng im của ông đã không còn khiến cho vị thuyền trưởng cảm thấy thú vị nữa.
IV.
Chuyến du hành sắp kết thúc. Một con chim hải âu đáp xuống trên sàn tàu rồi xoải rộng đôi cánh cong cong mà bay trở lại, đã báo trước cho biết là tàu sắp vào đất liền.
Một bữa, vị thuyền trưởng nhổm dậy khỏi bàn, tới trước mặt người khách đã không nói gì từ lúc bắt đầu bữa ăn. Ông nhón người trên mười đầu ngón chân rồi để rơi xuống trên hai gót.
“Ông biết không, chúng ta sẽ đến bến vào ngày mai”, vị thuyền trưởng nói.
Người khách ngẩng đầu lên. Cái vẻ nghiêm khắc của vị thuyền trưởng rõ ràng làm cho ông sợ hãi. Ông coi bộ lúng túng, gỡ kính ra và trả lời bằng một giọng thầm thì vừa đủ nghe:
“Tôi biết.”
Sự phiền muộn của người khách xem ra sâu xa đến nỗi khiến cho mối kích thích trong lòng vị thuyển trưởng phải nhường bước cho sự xúc động của lòng trắc ẩn. Sau một lúc, ông hỏi người khách:
“Ông có sao không? Ông không bệnh chứ?”
Người khách lắc đầu.
Khi người khách trở về buồng riêng, bất ngờ một cái lắc của tàu xô ông ta ngã từ bức tường mà ông đang vịn vào như một vật chống đỡ, tới cạnh những chiếc xuồng được treo trên những cái móc ở be tàu. Ông xoải hai cánh tay một cách rối loạn, vồ lấy sợi dây cột ở móc sắt và nhìn trừng trừng xuống mặt biển với vẻ khủng khiếp của một con người bất ngờ bị mang tới đối diện với Tử Thần.
“Đừng sợ!”, thuyền trưởng kêu lên khi đi theo sau người khách một quãng ngắn. Ông bước tới giúp người khách trở về buồng riêng.
Ngày hôm ấy trôi qua cũng giống như mọi ngày khác, ngoại trừ sự kiện vị thuyền trưởng ít đặt câu hỏi với người khách hơn lệ thường. Rõ ràng là ông trở nên bị khuất phục trước sự lặng im mà không một cố gắng nào của ông có thể phá tan được. Và cũng dường như do cái động lực của lòng tốt vẫn làm cho ông tôn trọng nên ngay lúc đó, vị thuyền trưởng đã cố gắng tỏ ra dễ chịu với người khách hơn là ông có thể làm. Có phải do bởi cái vẻ phiền muộn quá sức của người khách đã làm cho thuyền trưởng phải động tâm? Nhiều lần ông liếc nhìn người khách và lắc đầu buồn bã. Người khách ăn rất ít, hầu hết thì giờ còn lại nơi bàn ăn chỉ là nghiêng người trên chiếc đĩa của mình và không ngừng xoa lòng bàn tay trên đầu gối. Từ chiếc nút trên cao của chiếc áo khoác ngoài kiểu thầy tu và cái vẻ nghèo nàn nhưng sạch sẽ của ông, người ta có thể lầm rằng ông là một nhà giáo.
Ngày cuối cùng, trời có sương mù nhưng biển rất lặng. Khi hai người đàn ông ngồi lại với nhau lần sau rốt nơi bàn ăn, bầu trời bỗng dưng sáng chói. Một luồng gió lạnh tạt qua mang mùi thơm trong đó người ta có thể phân biệt và nhận ra được mùi thơm của đất đai và cây cối.
“Tốt lắm”, vị thuyền trưởng vừa nói vừa rót rượu vào ly người khách. “Chúng ta hãy chia tay nhau như những người bạn tốt và hãy uống mừng sức khỏe của nhau.”
Người khách dường như ngây người choáng váng và đau đớn. Ông giơ cao cái ly rồi giữ nó lại một lát trong không gian. Bất thần, ông lại để nó rơi trên chiếc khăn ăn và lọt xuống luôn trên sàn tàu.
“Tôi có vài điều muốn nói với ông”, người khách thì thầm.
Khuôn mặt ông trở nên xanh mét và ông lập lại những lời vừa nói bằng một giọng to hơn, như thể sợ rằng người đối diện không nghe rõ được. Còn vị thuyền trưởng lại dường như bị một mối vui mừng và ngạc nhiên xâm chiếm. Ông cười lớn:
“Thấy chưa? Tôi đã nói với ông. Tôi biết là ông sẽ phải kết thúc bằng một cuộc trò chuyện. Tôi hiểu biển cả lắm mà!”
Rồi ông lại cười lớn, nhưng trong cái cười có phô bày cả một nỗi ngượng ngùng luống cuống.
“Ông hãy bình tĩnh lại”, vị thuyền trưởng tiếp lời khi nhìn thấy cái vẻ run sợ của người khách. “Ông có thể nói với tôi bất cứ điều gì. Tôi là một ông cha rửa tội hoàn hảo.”
Người khách đặt hai tay lên bàn, cúi đầu trong thái độ của một người đang tập trung tư tưởng. Và ông kể về câu chuyện của ông.....
…..
Khi người khách dứt lời, vị thuyền trưởng hỏi:
“Rồi sao?”
“Chỉ có vậy”, người khách đáp.
“Cái gì? Chỉ có vậy mà khiến ông phải từ bỏ quê hương xứ sở sao? Ông điên rồi! Ông sẽ được yên ổn trên nước Pháp…”
“Nhưng tôi không được yên ổn trong tâm hồn.”
“Rồi ông sẽ được yên thôi. Không ai nghi ngờ ông gì cả.”
Người khách lắc đầu. Vị thuyền trưởng tiếp tục:
“Nào! Phải có một cái gì khác nữa kìa. Đấy mới chỉ là một tội ác được hoạch định thôi mà!”
Trên những lời cuối này của vị thuyền trưởng, người khách ngước nhanh lên và nhìn thẳng vào người đối diện. Thình lình, ông đấm mạnh xuống bàn bằng quả nắm của bàn tay và la lớn:
“Tất cả những gì tôi vừa nói với ông chỉ là giả dối. Tôi đã đánh lừa ông. Tôi không phải là kẻ phạm tội.”
“Nhưng ma quỷ nào đã khiến ông nói với tôi những điều ấy?”, thuyền trưởng hỏi.
“Bởi vì chính ông đã thúc đẩy tôi. Ông nhìn chăm chú không ngừng vào tôi. Ông đưa ra với tôi tất cả mọi câu hỏi. Ông giống như một nhà trinh thám đang đi tìm dấu vết của một vụ án mạng và đó là ý nghĩ đầu tiên đã đi vào óc tôi.”
Người khách đấm mạnh xuống bàn lần nữa và la lên bằng một giọng nghẹn ngào:
“Tôi sợ. Ông làm cho tôi kinh hoảng. Tôi đi Mỹ vì công việc riêng. Tôi chẳng phải là kẻ phạm tội gì cả.”
Vị thuyền trưởng nhún vai một cách bình thản và mỉm cười. Ông nói:
“Phải, chính ông là một tội phạm. Nhưng ông không việc gì phải sợ tôi. Tôi sẽ không nói điều ấy với ai đâu.”
Người khách cúi đầu để rơi đôi kính trên mặt bàn. Ngay lúc ấy có tiếng còi vang lên như xé không gian và tiếng một người nào đó la lớn: “Đất liền!”
Vị thuyền trưởng nhổm dậy khỏi ghế trong một cái nhảy vọt và nhìn nhanh qua lỗ cửa nhỏ bên hông tàu.
“Đất liền!”, giờ đến lượt ông la lớn. Và thêm:
“Cảm ơn Thượng Đế! Tôi đã nhìn thấy đất liền từ mười phút trước rồi.”
Xong, ông rời khỏi phòng ăn trong cái vẻ kiêu hãnh tự phụ, đi xuống lối nhỏ dẫn lên sàn tàu và ra lệnh cho các thủy thủ đang qua lại trên ấy. Những con chim bay vòng quanh cái ống khói tàu, phát ra những tiếng kêu hoang dã. Ở cuối chân trời, một đường dài có màu đậm hơn mặt nước là dấu hiệu chỉ định vùng trời đất Mỹ.
Rồi ông quay người về hướng phòng ăn có sáu cái lỗ nhỏ phía trên thành tàu, đặt tay lên miệng làm ống loa và sung sướng la lên:
“Này, ông khách ơi! Chúng ta đến nước Mỹ rồi!”
Nhưng vài phút trước đó, người khách đã gục chết.
[]
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ