Vũ Thư Hiên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Buớc tưới chuyển hướngBước tới tìm kiếm
Vũ Thư Hiên (18 tháng 10 năm 1933) là nhà văn Việt Nam, còn có bút danh là Kim Ân, từng đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu. Ông là con trai của Vũ Đình Huỳnh (1905 - 1990) - thư ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh[1] trong thời gian dài, sau làm Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao, Vụ trưởng trong Ban Kiểm tra Trung ương Đảng.
Vũ Thư Hiên
Sinh18 tháng 10, 1933 (86 tuổi)
Hà Nội
Nơi cư trú Pháp
Tên khácKim Ân (bút danh)
Dân tộcKinh
Nghề nghiệpNhà văn
Nổi tiếng vì
Tác phẩm nổi bật
Cha mẹVũ Đình Huỳnh
Phạm Thị Tề
Giải thưởngGiải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu
Ông là một trong những nhân vật của Vụ án Xét lại Chống Đảng. Sau đó, ông trở thành một nhân vật bất đồng chính kiến với Nhà nước Việt Nam và sau đó bỏ trốn ra nước ngoài. Năm 1997, hồi ký Đêm giữa ban ngày của ông được xuất bản, trong đó ông tự tuyên bố về một số chi tiết của vụ án này, lên án xã hội theo mô hình cộng sản chủ nghĩa.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]


Vũ Thư Hiên sinh ngày 18 tháng 10 năm 1933 tại Hà Nội, cha là Vũ Ðình Huỳnh và mẹ là Phạm Thị Tề đều là thành viên của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, tiền thân của Ðảng Cộng sản Ðông Dương.
Ông thuở nhỏ đi học, hay vào Phủ chủ tịch chơi, được Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu mến, hay nhờ những việc lặt vặt.
Năm 1946, đi ca hát, đóng kịch trong một đội Tuyên truyền xung phong.
Năm 1949, đi bộ đội.
Năm 1953, công tác trong lĩnh vực điện ảnh.
Từ 1955 đến 1958, đi học viết kịch bản điện ảnh tại Liên Xô.
Năm 1959, làm việc cho Xưởng phim Việt Nam tại Hà Nội.
Năm 1960, làm biên tập viên và phóng viên Báo Ảnh Việt Nam.
Từ năm 1967 đến 1976, trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, ông bị chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bí mật bắt và giam giữ sau khi đã bắt cha ông (Vũ Ðình Huỳnh) 2 tháng trước đó. Công an chìm bắt giữ ông lên ôtô và đưa về nhà tù Hỏa Lò ngay trong lúc ông đang đạp xe trên phố Hà Nội. Mãi về sau gia đình ông mới hay tin. Ông bị giam 9 năm, trong đó bị giam trong xà lim cá nhân bốn năm rưỡi, qua các nhà tù Hỏa Lò, Bất Bạt (Sơn Tây) và Tân Lập (Phú Thọ), Phong Quang (Hoàng Liên Sơn). Chính quyền thả ông không án cũng như không xét xử.
Ra tù năm 1976, nhưng còn bị quản thúc bằng lệnh miệng của chính quyền mãi cho tới mùa thu năm 1980 mới được phép vào Nam.
Năm 1977, làm công nhân cao su.
Năm 1979, làm kỹ thuật hóa.
Năm 1989, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1991, làm kinh doanh.
Năm 1993, ông qua Nga với tư cách phiên dịch cho công ty xuất nhập khẩu Vũng Tàu-Côn Đảo VIECO (hợp tác với tổ hợp Minh Phụng) rồi ở lại làm đại diện cho công ty ở Moskva. Tại đây ông bắt đầu viết cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày về chín năm bị giam cầm, trong đó ông muốn chia sẻ với người đọc những điều suy ngẫm về mô hình nhà nước chuyên chính vô sản.
Cuối năm 1995, sau một vụ tấn công mà ông cho là của mật vụ VN, ông thấy không thể ở Moskva lâu hơn nữa, nên tìm cách qua Ba Lan. Ðến cuối năm 1996, sau một chuyến đi Paris, trở về Ba Lan ông được mật báo về tình hình nguy hiểm có thể xảy ra cho ông nếu nấn ná ở lại nước này để hoàn thành cuốn hồi ký[cần dẫn nguồn]. Do đó ông quyết định qua tỵ nạn tại Pháp. Tại đây, ông đã hoàn thành tập hồi ký Đêm giữa ban ngày.
Năm 1997, xuất bản hồi ký Đêm giữa ban ngày tại Hoa Kỳ vào tháng 4.
Ông ở Strassbourg (Pháp) 1 năm, Bern (Thuỵ Sĩ) 1 năm, Đức 2 năm (2000-2001) sau khi đến Pháp theo lời mời của International Parliament of Writers, German PEN Club và Uỷ ban Nhân quyền thành phố Nuremberg.[2]

Đánh giá[sửa | sửa mã nguồn]

Có những phân tích chỉ ra rằng cuốn hồi ký Đêm giữa ban ngày có nhiều tình tiết mà Vũ Thư Hiên đã hư cấu để nâng cao uy tín của cá nhân cha con ông, hoặc hạ thấp uy tín những người có mâu thuẫn với gia đình ông, ví dụ như:
  • Trong "Ðêm giữa ban ngày", Vũ Thư Hiên nói rằng ông quen và được kính nể bởi nhiều cán bộ cao cấp, tướng lãnh, các nhà văn tên tuổi. Nhưng chuyện này là vô lý vì lúc đó, Vũ Thư Hiên chỉ là một phóng viên trẻ khoảng 30 tuổi, không thể có chuyện các nhân vật cao cấp lại chia sẻ với ông nhiều câu chuyện "bí mật" mà ông viết trong cuốn hồi ký này. Việc nhắc đến các nhân vật quan trọng đó có thể là để nâng cao "uy tín" của các câu chuyện mà Vũ Thư Hiên tự kể trong cuốn hồi ký[3]
  • Vũ Thư Hiên viết rằng ông đi xem bói, thầy bói bảo cha ông là người Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến đời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế! cương cường quá, thẳng thắn quá, nên mới bị tại vạ. Cự môn đắc địa gặp Hỏa tinh, Thất sát...". Trong tử vi, Cự môn không thể gặp Thất sát, nhân vật thày bói của Vũ Thư Hiên nhiều khả năng là hư cấu[4]
  • Trang 232, Vũ Thư Hiên viết "Vào những năm này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Đức Thọ một hồi được Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y... Nhưng cả hai (Vũ Đình Huỳnh và Tướng Ðặng Kim Giang) im lặng. Với một Lê Đức Thọ quyền sinh sát như thế, giữ im lặng là phải". Tuy nhiên, ở thời điểm năm 1960 (thời điểm mà Vũ Thư Hiên nói rằng câu chuyện này diễn ra), thì Lê Đức Thọ mới chỉ là ủy viên trung ương, là phó của Lê Văn Lương (ủy viên dự khuyết bộ chính trị) về công tác tổ chức. Với chức vụ đó thì không thể có chuyện Lê Đức Thọ có "quyền sinh sát" như Vũ Thư Hiên viết được[4]
  • Vũ Thư Hiên đã "tự thăng cấp" cho nhiều nhân vật bị bắt trong vụ án mà ông có dính líu để người đọc nghĩ vụ án đó thêm phần quan trọng. Chẳng hạn, Lê Liêm, Bùi Công Trừng.... chỉ là ủy viên dự khuyết trung ương thì Vũ Thư Hiên lại viết thành ủy viên trung ương chính thức. Nguyễn Minh Cần chỉ là phó chủ tịch Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội, đã bỏ sang Liên Xô từ mấy năm trước thì được ông Hiên gán cho chức danh "Phó Bí thư thành ủy Hà Nội"[3]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Tù nhân chính trị kể chuyện đón Tết”. BBC. 14 tháng 2 năm 2010.
  2. ^ “Nhà văn Vũ Thư Hiên trò chuyện với X-cafe (tiếp theo)”. x-cafevn.
  3. a ă "Vũ Thư Hiên chưa hết bệnh nói dóc: phần 4", Việt Thường. Tạp chí Người dân số 169, xuất bản tại Mỹ. tháng 10/2004.
  4. a ă "Vũ Thư Hiên chưa hết bệnh nói dóc: phần 3", Việt Thường. Tạp chí Người dân số 169, xuất bản tại Mỹ. tháng 9/2004.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Những tác phẩm của ông đã xuất bản khi còn ở Việt Nam:
  1. Lối thoát (kịch, 1954)
  2. Bông hồng vàng (dịch của tác giả Paustovsky, 1960)
  3. Truyện ngắn Paustovsky (dịch, 1962)
  4. Luật rừng (truyện, in chung, 1985)
  5. Khúc quân hành lặng lẽ (truyện nhiều tập, 1985-1989)
  6. Luật rừng (kịch bản, 1988)
  7. Miền thơ ấu (tiểu thuyết, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh 1988); và một số kịch bản điện ảnh.
Nhà văn đã được nhận giải A văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1988 với tác phẩm Miền thơ ấu.
Sau khi định cư tại nước ngoài, ông viết thêm một số tác phẩm, trong đó có Đêm giữa ban ngày, Kẻ Vô Ơn (truyện ngắn).

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]