bài liên quan : " nhạc sĩ PHẠM ĐÌNH CHƯƠNG [1929- 1991 usa.] -- nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phạm Đình Chương
Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. |
Mục từ "Hoài Bắc" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại bài Hoài Bắc (định hướng).
Phạm Đình Chương | |
---|---|
Tên khai sinh | Phạm Đình Chương |
Sinh | 14 tháng 11 năm 1929 Hà Nội, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 22 tháng 8 năm 1991 California, Hoa Kỳ |
Thể loại | Nhạc tiền chiến, tình khúc 1954-1975 |
Nghề nghiệp | nhạc sĩ, ca sĩ |
Ca khúc tiêu biểu | Hội trùng dương, Đôi mắt người Sơn Tây, Nửa hồn thương đau, Ly rượu mừng, Đón xuân, Mộng dưới hoa, Xóm đêm |
Ca sĩ trình bày thành công | Thái Thanh và Ban Thăng Long |
Phạm Đình Chương (1929 – 1991) là một nhạc sĩ tiêu biểu của dòng nhạc tiền chiến và là một tên tuổi lớn của tân nhạc Việt Nam. Ngoài ra ông còn là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc.
Mục lục
[ẩn]Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]
Phạm Đình Chương sinh ngày 14 tháng 11 năm 1929 tại Bạch Mai, Hà Nội. Quê nội ông ở Hà Nội và quê ngoại ở Sơn Tây. Phạm Đình Chương xuất thân trong một dòng họ mà hầu hết đều làm văn nghệ, chú là nhà thơ Thế Lữ, nhà văn Trúc Khê, nhạc sĩ Phạm Ngọc Cẩn, anh là họa sĩ Phạm Văn Đôn, nhạc sĩ Phạm Văn Chung.
Cha của Phạm Đình Chương là ông Phạm Đình Phụng. Người vợ đầu của ông Phụng sinh được hai người con trai: Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm. Phạm Đình Sỹ lập gia đình với nữ kịch sĩ Kiều Hạnh và có con gái là ca sĩ Mai Hương. Còn Phạm Đình Viêm là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.
Người vợ sau của ông Phạm Đình Phụng có ba người con: trưởng nữ là Phạm Thị Quang Thái, tức ca sĩ Thái Hằng, vợ nhạc sĩ Phạm Duy. Con trai thứ là nhạc sĩ Phạm Đình Chương. Và cô con gái út Phạm Thị Băng Thanh, tức ca sĩ Thái Thanh.
Phạm Đình Chương theo học trường Bưởi đến trung học thì nghỉ vì thời cuộc. Ông gia nhập các đoàn ca kịch lưu động đi về thôn quê (1946). Năm 1951, ông về Hà Nội lập ra ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng.
Năm 1953, ông lập gia đình với ca sĩ Khánh Ngọc rồi chuyển vào Sài Gòn sống.
Sau 1975, Phạm Đình Chương định cư tại California, Hoa Kỳ. Ông mất 22 tháng 8 năm 1991 tại California.
Sự nghiệp âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]
Ông được nhiều người chỉ dẫn nhạc lý nhưng phần lớn vẫn là tự học. Trong những năm đầu kháng chiến, Phạm Đình Chương cùng các anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Thị Quang Thái và Phạm Thị Băng Thanh gia nhập ban văn nghệ Quân đội ở Liên Khu IV.
Phần nhiều những nhạc phẩm của Phạm Đình Chương thường được xếp vào dòng tiền chiến bởi mang phong cách trữ tình lãng mạn. Các nhạc phẩm đầu tiên như Ra đi khi trời vừa sáng, Hò leo núi... có không khí hùng kháng, tươi trẻ.
Năm 1951, ông chuyển về Hà Nội. Với nghệ danh Hoài Bắc, ông cùng các anh em Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng lập ban hợp ca Thăng Long danh tiếng, du ca khắp các thành thị lớn của Việt Nam lúc đó. Thời kỳ này các sáng tác của ông thường mang âm hưởng của miền Bắc như nói lên tâm trạng hoài hương của mình: Khúc giao duyên, Thằng Cuội, Được mùa, Tiếng dân chài... Thời gian sau đó, ông viết nhiều bản nhạc nổi tiếng và vui tươi hơn: Xóm đêm, Ly rượu mừng, Đón xuân...
Sau khi cuộc hôn nhân với ca sĩ Khánh Ngọc tan vỡ, ông bắt đầu sáng tác tình ca. Ông đem tâm trạng đau thương vào những bài nhạc tình da diết, đau nhức, buốt giá tâm can: Đêm cuối cùng, Thuở ban đầu, Người đi qua đời tôi, Nửa hồn thương đau.
Có thể nói Phạm Đình Chương là một trong những nhạc sĩ phổ thơ hay nhất. Nhiều bản nhạc phổ thơ của ông đã trở thành những bài hát bất hủ, có một sức sống riêng như: Đôi mắt người Sơn Tây (thơ Quang Dũng), Mộng dưới hoa (thơ Đinh Hùng), Nửa hồn thương đau (thơ Thanh Tâm Tuyền), Đêm nhớ trăng Sài Gòn (thơ Du Tử Lê)... Phạm Đình Chương cũng đóng góp cho tân nhạc Việt Nam một bản trường ca bất hủ Hội trùng dương viết về ba con sông đại diện cho ba miền: sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long.
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
- Danh sách này không đầy đủ; bạn có thể giúp đỡ bằng cách mở rộng nó.
- 1946
- Ra đi khi trời vừa sáng[1]
- 1948
- Thanh niên tiến lên
- 1949
- Kiếp Cuội già
- Trăng rừng
- 1950
- Bài ca tuổi trẻ
- Chiều buồn
- 1951
- Mười thương
- Sáng rừng
- 1952
- Đợi chờ[2]
- Hò leo núi
- Ly Rượu Mừng
- 1953
- Đón xuân
- Được mùa
- Thuở ban đầu
- 1954
- Hội trùng dương (trường ca gồm 3 bài Tiếng sông Hồng, Tiếng sông Hương, Tiếng sông Cửu Long)
- Chia tay ngày hè
- 1956
- Đất lành
- Lá thư người chiến sĩ
- Xuân tha hương
- 1957
- Mộng dưới hoa[3]
- Mỗi độ xuân về
- Tiếng dân chài
- 1958
- Lá thư mùa xuân
- 1960
- Mắt buồn[4]
- 1961
- 1962
- Xóm đêm
- 1963
- Heo may tình cũ[7]
- 1964
- Anh đi chiến dịch
- Định mệnh buồn
- 1966
- Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội[8]
- 1967
- Dạ tâm khúc[9]
- 1968
- 1969
- 1970
- Nửa hồn thương đau[9]
- 1980
- 1981
- 1982
- Ta ở trời tây[15]
- Chưa rõ
- Đến trường
- Khúc giao duyên
- Nhớ bạn tri âm
- Thằng Cuội
- Trăng Mường Luông
- Quật cường
- Chiến thắng ca
- Lạc hướng
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ đồng sáng tác với Phạm Duy.
- ^ đồng sáng tác với Nhật Bằng.
- ^ thơ Đinh Hùng.
- ^ thơ Lưu Trọng Lư, tặng Lệ Thu.
- ^ thơ Huy Cận.
- ^ thơ Nguyên Sa.
- ^ thơ Cao Tiêu.
- ^ đồng sáng tác với Hoàng Anh Tuấn.
- ^ a ă â b thơ Thanh Tâm Tuyền.
- ^ thơ Quang Dũng.
- ^ a ă â b thơ Du Tử Lê.
- ^ thơ Trần Dạ Từ.
- ^ thơ Hoàng Ngọc Ẩn.
- ^ thơ Thái Tú Hạp.
- ^ thơ Kim Tuấn (nhà thơ)
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ