Thứ Ba, 6 tháng 2, 2018

Thế Phong Với Những Tiếng Cười Chua Cay Mà Ngạo Nghễ / Trần Thị Bông Giấy -- https://www.tvvn.org > Blogs > Blog của TranThiBongGiay



                           Thế Phong với những tiếng cười chua cay mà  ngạo nghễ/

                                                trích từ  ĐIỆU MÚA CUỐI CÙNG CỦA CON THIÊN NGA/ TRẦN THỊ BÔNG GIẤY 

                                                                            (Văn Uyển xuất bản, San Jose/ USA 2005.)



                                                                               Trần Thị Bông Giấy+ Thế Phong
                                                                           (ảnh: Âu Cơ chụp ở phi trường Tân Sơn Nhất.)


                                                                             River of Time by Trần Thị Bông Giấy
                                                                         translated  from the Vietnamese by THY HÀ
                                                            


                                                                                            Thế Phong và tranh Tạ Tỵ
                                                                                            ảnh: blogtiengviet.net (2009)



                                                                              Thế Phong bước vào tuổi 86 [2018 ]
                                                                                      - photo by KHÊ, his wife


                                                                Thế Phong qua ống kính Nguyễn Cao Đàm (Saigon 1963.)

                      " ... Phải chăng Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ có khuôn mặt trầm buồn, 
                                                đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió ..." - lời Tạ Tỵ.




Thế Phong Vi Nhng Tiếng Cưi Chua Cay Mà Ngo Ngh

TranThiBongGiay đăng bài. Lần xem: 42


    THẾ PHONG VỚI NHỮNG TIẾNG CƯỜI CHUA CAY MÀ NGẠO NGHỄ

    (tuyển tập tâm bút)

    (trích “Điệu Múa Cuối Cùng Của Con Thiên Nga”)

    Trần Thị Bông Giấy


    I.

    Thế Phong không chỉ “đồng nghiệp” mà còn là một người anh, một người bạn, thân nhất trong số những con người ít ỏi quý mến tôi ở trên tôi đã viết; lại là vị có lòng nhất trong việc phổ biến văn chương tôi đến tay giới văn nghệ VN. Anh lớn hơn tôi nhiều tuổi, thuộc thế hệ Uyên Thao, Văn Quang. Từ bài viết Phạm Duy, Ông Là Ai? được Phan Diên gửi về cho anh mà vào đầu năm 2000, mối duyên bằng hữu đậm đà đã mở ra giữa tôi với anh, kéo dài cho đến hôm nay.

    Tính cách anh thâm trầm sâu sắc, nhưng lại hay cười đùa trong những câu chuyện kể “toàn là cay độc” (như lời Phan Diên nhận xét). Từ thuở ngày xưa, trong làng chữ nghĩa, đã có lắm đồng nghiệp “sợ” anh vì lối viết cay độc đó. Một kiểu như có lần trong một lá thư gửi cho tôi ngày 9 tháng 4/2005 mới đây, anh đã tâm sự:

    “Khi tôi 22 tuổi, bước vào nghề văn & báo mới được hai năm, cuốn truyện đầu tay được xuất bản, cộng với một công việc làm (ủy viên báo chí cho tổng trưởng Bộ Thông Tin), thấy tương lai mình phía trước thật sáng sủa và đầy hứa hẹn. Hằng ngày đụng chạm với bao bất công tại sở làm, tôi nai mình ra tranh đấu để mong lấy lại được sự công bình cho chính bản thân, đồng loại, nhưng hoàn toàn thất bại. Cho đến vài chục năm sau, đọc Những Khuôn Mặt Văn Nghệ Hôm Nay (nxb Lá Bối, Sàigòn 1972), thấy Tạ Tỵ bình phẩm về công việc làm văn chương và sự múa may quay cuồng tưởng là sẽ đem lại sự công bằng ấy của tôi, hóa ra chỉ là: ‘...những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra, đều ẩn nấp những ý nghĩ chống đối, những chua chát não nề dù đã được ngụy trang bằng đam mê nhục dục. Những chữ những câu dùng để tự xỉ vả, buồn thay, lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ vì những thứ ấy đã tạo nên cho tác giả trở thành như thế!’ "

    Còn nữa, phần kết đánh giá về tôi, bây giờ ở tuổi trên 70, phải thừa nhận lời anh Tạ Tỵ nhận xét rất bén: “Phải chăng Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có khuôn mặt trầm buồn, đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió trên khắp nẻo đường phiêu bạt, nhân vật điển hình trong Don Quichotte de la Manche, cuốn tiểu thuyết bất hủ của đại văn hào Tây Ban Nha, Miguel de Cervantes (1547-1614)? Nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca, tượng trưng cho ý thức, hiện diện đàng sau hay bên cạnh.”

    Văn Quang và Uyên Thao cũng không có mấy cảm tình cho anh vì lối viết “cay độc” vừa nói.

    Riêng cá nhân tôi thì lại thấy không có gì là ghê gớm nơi con người cao lớn có cái cười mím chi, đôi mắt nheo nheo tinh nghịch đang hướng về tôi và Âu Cơ trong buổi gặp gỡ đầu tiên lúc nửa khuya trên sân bay Tân Sơn Nhất, năm 2000, một ngày cuối tháng Sáu. Giữa một đám đông ồn ào người đi kẻ đến ở phi trường, tôi “nhận ra” anh ngay. Để rồi trên chuyến xe khuya đưa tôi và Âu Cơ về Dalat, ngoài Thế Phong còn có sự hiện diện của Mỹ Vân, anh Phùng Kim Ngọc và anh Hoàng Vũ Đông Sơn, những câu chuyện văn chương từ muôn kiếp cứ được tuôn ra giữa riêng tôi và Thế Phong, mà không là với người khác. Tự nhiên, tôi thấy “thân” với anh, một thứ tình thân khó thể giảng giải ra bằng lời lẽ giữa hai người bạn. Anh không làm cho tôi sợ hãi như tiếng đồn về anh trong giới văn nghệ Sàigòn cũ. Tôi cũng không khiến anh phải lánh xa như cái tiếng vang “dữ dằn” mà đám văn nhân hải ngoại đã gán cho tôi. Từ tôi, anh đã nhìn ra một mẫu người cô đơn, như có lần trong một lá thư gửi anh Nguyễn Đắc Sơn, dịch giả Những Bức Thư Tình Hay Nhất Thế Giới, anh đã viết:

    Sự cô đơn của TTBG quả thực lớn (với tình trạng hiện tại), ông nên luôn an ủi, khích lệ cô ấy. Bởi lẽ rất cô đơn nên BG đã viết hai cuốn Tài Hoa Mệnh Bạc (như một hình thức tự yểm trợ) về một số tác giả tương đồng với mình trên mặt tinh thần.(Thư viết từ Sàigòn đêm 23/11/1999).

    Và từ anh, tôi bắt gặp ngay một mẫu nhà văn rất khác biệt, như trong một lá thư trước đó, tôi đã từng nhận xét với anh:

    “... Từ trước, vẫn biết rằng thiên hạ bảo anh ‘du côn’ lắm, nhưng lần đầu nhìn ảnh thấy cái cười rất ấm và đọc thư, thấy nét chữ rất đẹp, BG đã nghĩ ngay: ‘Người thế này không thể nào là người cứng ngắc, du côn!’ Mình có chút gì khác người là người đã vội đổ cho bao tiếng xấu. Nhưng mình thà ‘lập dị’ chứ không ‘lập lại’, dù cũng chẳng bao giờ chủ trương lập dị, phải không anh?” (Thư viết từ Cali, ngày Dec 1/1999).

    Nói cách khác, có đọc anh và biết về anh thì mới thấy đó là một người lữ hành cô đơn trong bước hành trình chữ nghĩa. Với nhận xét này, tôi được xác định từ một đoạn trong lá thư anh gửi cho tôi ngày 31/1/2000 ở Sàigòn:

    Vào năm 1962 đến giữa năm 1963, tôi sống cô độc ở phía sau nhà thờ Tân Sa Châu, hàng ngày tinh thần bị căng thẳng với sự sợ hãi đe dọa từ mật vụ chính phủ Diệm vây bủa; nào là nhật báo Tiếng Dân (của Trung tá Nguyêãn Văn Châu, Cục Tâm Lý Chiến) đăng tin kịch sĩ Năm Châu và nhà văn Thế Phong bị đưa đi Trung tâm Nhân vị Vĩnh Long tẩy não (các chú bán báo rao inh ỏi cái tin vào buổi chiều đi bán báo lẻ); nào là bản tin Viet Nam Press ( 3 thứ tiếng: Việt, Anh, Pháp) đều nhất loạt cải chính rằng: ‘Nhà văn Thế Phong vẫn đi dạo hằng ngày trên đường Lê Lợi, Tự Do...(*)

    Báo chí hôài ấy nhất loạt không dung nạp tôi, dầu chỉ gửi một truyện ngắn vô thưởng vô phạt (để có tiền trả chủ nhà trọ và cơm hàng, cháo chợ) cũng chẳng báo nào đăng. Khi dịch cuốn L’Amour de Rien của Jacques Perry rồi giới thiệu thành một cuốn sách nhỏ như một biện minh cho lối sống có lý tưởng đeo đuổi văn nghệ của tôi hồi ấy, cũng chẳng yên lòng. Nên ở cánh gà bìa sách tôi có ghi câu: ‘Tuyệt đối cấm bọn văn nghệ sĩ nô lệ trí óc kiểu Phanariote (**) đọc sách này”, chẳng hạn vậy...”

    Cái ngạo khí có sẵn từ trong huyết mạch, cộng với cuộc sống bị bức bách tinh thần thời kỳ đó (như trong hai thư điển hình anh kể) đã là kết quả cho “những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ” trong những tác phẩm ký tên “Đinh Bạch Dân, Đường Bá Bổn”... ngoài bút hiệu Thế Phong.

    Anh viết rất nhiều và rất nhanh. Đủ mọi thể thức. Đủ mọi đề tài. Tổng kết số tác phẩm của anh, tôi nghĩ rằng phải sống đến 30 năm nữa (!?) may ra tôi mới với kịp con số! Bài viết này, tôi không mang ý định phơi bày cái độ dài của dòng thời-gian-chữ-nghĩa mà anh đã bước; ở đây, tôi chỉ muốn đưa ra độ-sâu-thân-quý của một nhà văn đã dành cho một nhà văn trong đoạn đường 5 năm rất ngắn so với gần trọn cuộc đời cầm viết của anh.


    II.

    Một lần ở Mỹ, tôi nghe cô bạn Người Cali nhận xét:

    “Thế Phong là tay rất ‘khó chơi’, không kiêng dè ai hết và cũng bị nhiều người trong giới văn nghệ ghét. Vậy mà đọc các bài viết của BG về các chuyến du lịch VN, thấy ông ta rất ‘chiều’ BG thì phải kể BG là một con người thật đặc biệt!”

    Tôi không biết câu nói của cô bạn đúng hay sai về cái khoản đặc biệt kia, mà chỉ thấy rằng, một cách rất tự nhiên, tôi quý trọng Thế Phong và được anh quý trọng lại với không chút gì thắc mắc từ hai phía. Thứ tình cảm đơn sơ mà thật đầy như không khí, như ánh sáng ban mai, như ánh trăng buổi tối, hay như chuyện trời mưa thì mát, trời nắng thì nóng. Thứ tình cảm không bợn chút bụi nhơ như đôi lần anh đã tự nhận:

    Tôi cũng thật được hậu đãi vào thời kỳ này, còn được một người bạn trai làm văn chương (bị bà mụ nặn nhầm thành gái) viết thư trao đổi, thư viết thật dài, đọc thật đã, rất chân tình, cởi mở mà mỗi lần nhìn thấy nét chữ bay bướm đẹp một cách phóng khoáng ấy, niềm vui mới hưng phấn lại đến trong tôi...” (Thư ngày 31/1/2000).

    “Đọc thư BG rất thú, như của một người bạn thân lâu ngày không gặp, tâm sự thoải mái đầy tin cậy. Ý nghĩ này đến với tôi ngay trên tảng đá Núi Đá Tiên (bàn cờ của hai vị tiên giận nhau ném đổ vỡ) vào ngày 16/3/2000, (trong chuyến đi Dalat , cà-phê, cà-pháo ở Nhà hàng Thủy Tạ, với Nguyễn Quốc Thái và Vương Đức Lệ). Đến Dalat ở đâu đó như có bóng dáng kỷ niệm của BG kể lại trong các tác phẩm và tôi là người đọc, đi tìm dấu vết.” (Thư 30/3/2000)

    Nói cách khác, sẽ thật là một điều rất kỳ khôi với những con người như anh và như tôi, nếu gặp nhau mà KHÔNG quý trọng nhau.


    trích từ 'ĐIỆU MÁU CUỐI CÙNG CỦA CON THIÊN NGA/ TTBG


    *



    Anh hay đùa, và cười to rất thoải mái mà không cần biết đến cái chuyện có làm cho kẻ khác buồn phiền hay không nếu như họ bị “nhột” vì là “nạn nhân” của những câu chuyện đùa do anh chủ động kể. Nếu chỉ nhìn thoáng qua thì có lẽ cái lối đùa của “Thằng Phải Gió” nơi anh là “ác”, nhưng thật tình tâm anh không ác, mà những lời đùa đó (từ ngoài miệng lưỡi vào đến trong chữ nghĩa) chỉ là một cái mặt nạ được đeo lên cho qua ngày đoạn tháng của một tâm hồn lúc nào cũng sẵn sàng nổi loạn vì những điều đáng ngán ngẩm chung quanh.

    Một điều lạ là tôi chưa bao giờ “bị” làm đối tượng cho kiểu đùa như vậy. Ngồi chung một bàn, anh không uống rượu trong khi tôi uống, và uống nhiều nữa; anh không hút thuốc lá nhưng bao giờ cũng xin “bập bùng” vài điếu cùng BG “cho vui!” Vậy mà chuyện trò với tôi, anh thường tỏ ra “nhân nhượng” bằng chỉ những câu nói phô bày tính nghiêm trang lịch sự. Có lần nghe tôi kể:

    “Ở Cali đang có phong trào viết ‘cực dâm’ trong hàng ngũ các nhà văn nữ. Điều này BG không hề biết vì chẳng bao giờ muốn đọc văn chương VN hải ngoại, nhưng được nhiều người, nhất là giáo sư Lê Hữu Mục cho biết. Bác ấy nói thế này: ‘Đàn bà con gái gì mà trơ trẽn, cứ ưa banh... cái đùó ra trên chữ nghĩa! Đọc lên thấy cứ muốn lợm giọng!’ Bác còn nói rõ thêm tên tuổi từng nhà văn nữ trong ‘trường phái kích dâm’ này, ‘dẫn đầu là cô Lê Thị Thấm Vân ở San Jose, người nhỏ nhất trong số bốn chị em gái cùng có mặt cách này cách khác trong giới văn nghệ, mỗi cô làm chủ một tiệm phở cùng lấy tên Phở 99’ (lời bác Mục). Sau cùng bác kết luận: ‘Chữ nghĩa tởm đến độ mỗi lần có dịp đi San Jose, ai có mời đến ăn ở tiệm phở 99, bác từ chối ngay!”

    Tức thì Hoàng Vũ Đông Sơn cười khà khà, lên giọng:

    “Các cái ngữ này mà cho gặp ‘sư phụ’ Thế Phong thì phải biết! Chỉ mỗi sư phụ mới trị nổi đệ tử. Học không tới, chẳng những không làm rạng danh sư phụ, lại gây thêm ô nhục cho người chửi rủa thì cách tốt nhất là sư phụ kêu về đét cho vài roi vào đít, bắt học tiếp là xong!”

    Thấy tôi có vẻ ngẩn ngơ theo câu nói tối nghĩa của Hoàng Vũ Đông Sơn, Thế Phong chỉ cười mím chi nhưng không đáp lời nào cả. Khi tôi chợt “à” ra dáng hiểu, bấy giờ anh mới bật cười to:

    “Hiểu? Bây giờ BG mới chịu hiểu!”

    Từ đó, có lẽ anh biết tôi là đứa cả tin, và nhất là không biết cách đùa “đáp lễ”, vì vậy mà trong các cuộc vui chung giữa nhiều văn nghệ sĩ, tôi lúc nào cũng được anh “tha” không bắt nghe các câu chuyện có cùng đề tài như trên!


    III.

    Ngày 7/12/1999, tôi gửi cho anh lá thư:

    Anh Thế Phong thân,

    Cảm ơn anh rất nhiều về những lá thư anh gửi, và nhất là lời chia xẻ nỗi cô đơn của BG. Thật vậy, từ khi cho chào đời Một Truyện Dài Không Có Tên tập I tháng 10/1994, BG bị cô lập hẳn bởi văn giới hải ngoại. Tệ hại hơn là sau đó kéo theo cả một sự tan vỡ gia đình. Đó là cái giá BG phải nhận cho lòng yêu sự thật và phô bày sự thật ấy ra trong chữ nghĩa, nhưng là một cái giá xứng đáng, bởi vì bù lại, BG vẫn còn được rất nhiều độc giả ưu ái (trong đó có bác Tạ Tỵ, bác Lê Ngộ Châu, anh Nguyễn Đắc Sơn, anh Phan Diên và... cả anh!) Cuộc sống thực tế của BG cũng vậy, chẳng ai dám giao thiệp và BG cũng chẳng thèm giao thiệp với ai. Chỉ thỉnh thoảng nhận điện thoại thăm hỏi của các độc giả ở xa, và của các anh Đắc Sơn, Phan Diên, bác Tạ Tỵ.

    Đời sống ngắn ngủi, ngày giờ xứ Mỹ qua như tên bắn, BG không còn muốn thù tạc thiên hạ nữa, quay vêà nói chuyện với cái đầu gối của mình coi bộ thú hơn, khỏi lo bị nó phản phé đâm sau lưng! Ngay cả anh Thanh Thương Hoàng mới qua Mỹ, thấy cũng “né” BG, dù rằng bác Tạ Tỵ và anh Thanh Chương cứ hay điện thoại hỏi thăm xem anh ấy đã có gọi cho BG chưa? Nhưng BG thông cảm được cho anh ấy. Trên nước Mỹ, anh ấy là người chân ướt chân ráo nên cần tìm chôã đứng ổn định trong văn giới hải ngoại. Nếu giao thiệp BG, hóa ra là tự cắt con đường tiến thủ của mình sao? Cuộc đời mà anh! Người thật của thật bao giờ cũng hiếm. BG đã “chai” rồi trước mọi nhân tình thếthái, bây giờ mình thuộc loại “thép đã tôi thế đấy!” nên không còn cảm nghe chút nào xót xa vì mọi điều như thế nữa, anh.

    Từ 1995, BG chấp hành cuộc sống biệt lập với Âu Cơ (12 tuổi) ngay giữa lòng phố thị, viết văn, dạy học trò, chăn 3 con mèo, 13 con gà, uống rượu hút thuốc lá một mình, sống với “những người trăm năm cũ”, tâm hồn bình an, không bon chen thiên hạ. Hiện tại, BG đang sắp hoàn tất cuốn tự truyện Trân Sa, cũng đang kết thúc song song hai cuốn Tài Hoa Mệnh Bạc (III và IV). Riêng cuốn IV trình bày về một mình Dostoievski. Thì giờ dành cho cái bàn viết kín mít đến độ chẳng mấy dịp dẫn được con bé Âu Cơ đi đâu. Mà con bé cũng lạ anh ạ, y hệt như mẹ, nghĩa là chỉ mê đọc sách, mê cái bàn viết của nó và không bao giờ muốn rời khỏi nhà trừ khi đi học. Âu Cơ cũng là một thành viên quan trọng, có bài viết thường xuyên trong Văn Uyển từ 1995, nhưng chỉ viết tiếng Anh rồi tự dịch sang tiếng Việt và nhờ mẹ đánh máy giùm. Cháu nói tiếng Việt rất giỏi, lại toàn dùng những chữ văn chương.

    Điểm sung sướng của BG là vì bị văn giới cô lập nên đâm ra rất tự do, đường mình mình cứ bước thẳng, chẳng cầu cạnh, cũng chẳng hề sợ ai.

    Biết anh lớn hơn nhiều tuổi, vậy mà cứ gọi anh bằng anh thì có hơi “hỗn”, nhưng xin anh bỏ qua cho. Từ bé, BG đã không có tánh đỏng đảnh như mọi con gái bình thường khác, giao thiệp toàn con trai nên cũng thẳng thắn như con trai. Đó cũng là điểm thất bại trong tình trường của BG. Đàn ông thường mê những người đàn bà đỏng đảnh. TNH [Trần Nghi Hoàng] bỏ BG ra đi cũng chỉ vì người đàn bà kia rất đỏng đảnh. Anh Đắc Sơn mê bà Yến cũng chỉ vì cái tánh đỏng đảnh và giọng nói ngọt như mía lùi của bà ta. Mình biết vậy, nhưng bắt chước kẻ khác là điều không bao giờ nghĩ đến. Thà cô đơn hơn giả dối, đó là chủ trương của BG trên tất cả mọi vấn đề giao thiệp chung quanh.

    Bên này, đã vào đông nên trời rất lạnh. Lá rụng bay tràn phố thị. Nhìn các cây thông Nô-En đầy màu sắc trong các ngôi nhà đi qua mà lòng càng thêm giá rét. Một hạnh phúc lớn lao anh đang được hưởng là còn ở lại quê hương trong những ngày lễ lớn thế này đó anh. Hãy nên tận hưởng! BG chủ trương thà làm chủ căn nhà rách nát của mình hơn là làm công trong một lâu đài sang trọng thuộc về kẻ khác. Đừng thèm mơ tưởng chuyện xứ người anh ạ. Ai bỏ quê hương ra đi cũng đều nhân danh hai chữ Tự Do, nhưng thật sự ở nước Mỹ không có tự do nếu nhìn theo cái nhìn về vật chất. BG dám nói, BG mà còn kêu là “mất tự do” thì chẳng bất cứ ai có tự do cả. Các anh Thanh Thương Hoàng, Uyên Thao, Nguyễn Đình Toàn, Thanh Chương..v.v, BG thấy thật tiếc cho các anh ấy. Mà thôi, cuộc đời, chẳng kinh nghiệm nào giống kinh nghiệm nào. Biết đâu mấy anh ấy thích đời sống vật chất ở Mỹ?

    BG tạm ngưng. Cho BG kính lời thăm chị và các cháu.

    Thân ái, TTBG.

    Để từ đó, cả ba anh Thế Phong, Hoàng Vũ Đông Sơn và Văn Quang vẫn gọi tôi là “người đàn bà thép”! Chữ “thép” này được lập lại nhiều lần trong các lá thư Thế Phong (và 2 anh kia) gửi cho tôi, như ngầm nói lên sự cảm phục, lòng thương xót và nỗi lo lắng theo những hoàn cảnh đau buồn nào tôi đang phải trải.

    “... Đọc thư rất dài, lại nhiều sự việc diễn ra trong một thời đoạn sống của BG thật gay go, vẫn được bình tĩnh diễn tả hết lại cho bạn bè nghe, tôi nhận thấy hệ thần kinh thép này cần được bảo trì ưu tiên một. Nó rất cần thiết, chẳng may sự căng thẳng làm nó dãn ra thì bọn nhơn nhơn mắt trắng dã, lòng dạ hiểm độc sẽ vỗ tay reo mừng...” (Thư 31/1/2000)

    Anh vẫn quan tâm đến tôi và Âu Cơ, kiểu quan tâm của một người anh ở rất xa cho một đứa em và một đứa cháu. Anh không lịch sự được như Văn Quang, chẳng cầu kỳ kiểu cách như Đông Sơn, không hờ hững như Uyên Thao, mà cũng chẳng sôi nổi như Phan Diên trên những dữ kiện dù vui dù buồn, dù đau khổ hay hạnh phúc đưa đến cho mẹ con tôi. Ở anh là một sự trộn lẫn tình cảm của cả bốn người kia hợp lại. Ví dụ, mùa Noel đến, tôi sẽ không nhận được từ anh một tấm thiệp với những lời cầu chúc ước lệ “một mùa Giáng Sinh êm đềm ấm áp..v..v.” (như Đông Sơn hay Văn Quang có thể gửi), mà là một sáng thức dậy, ngồi vào bàn viết, bỗng dưng sẽ thấy hiện ra trên máy mình một đoạn thư như đại loại:


    Sàigòn, Friday 19 Nov. 2004 (9:56 PM)

    Bông Giấy ơi,

    Thế là Noel sắp đến vì mới đây nghe Khánh Ly ca khúc hát Giáng Sinh về Dalat, lại một khoảng thời gian quá vãng xa lắc lư trở về với hiện tại. Và lại nhớ đến mẹ con BG với những ngày đêm ở Dalat vào mùa hè năm 2000...”

    Hoặc nếu như đọc thấy những lời “than vãn” của tôi:

    “Bên này hiện tại BG làm việc dữ lắm, thật đúng là đang rơi vào giai đoạn hoạn nạn, tương lai thấy tối hù như trời đêm 30 Tết. Buồn nhất là không biết đến bao giờ mới lại được tung hê hết thực tế để lại đặt chân lên một chuyến bay với Âu Cơ, trở lại VN thăm anh như trong những mùa hè xưa. Chưa bao giờ BG thấy tuyệt vọng như giai đoạn này anh ạ. Nhiều khi cứ nghĩ ‘Xử thế nhược đại mộng. Hồ vi lao kỳ sinh’ như Thái Bạch, nhưng rồi cũng chẳng thực hiện được. Trên hai vai, trách nhiệm gia đình còn nặng quá, không thể khước từ hay có ai để cùng chia sẻ, nên cứ phải ỳ ra mà gánh, gánh và gánh cho đến tận cùng. Nhiều đêm khuya lái xe giữa đường vắng một mình, trời lạnh căm căm, sương mù phủ kín thành phố, lại tự thấy thương thân mình vô kể. BG đâu phải là kẻ tầm thường anh nhỉ? Vậy mà ở giai đoạn này, lại thấy mình thua cả một con Phi Luật Tân, con Mễ, con Ấn Độ làm chung theo cái nhìn đơn giản về hạnh phúc và sự hưởng thụ trong cuộc đời...” (Thư ngày 18/1/2005)

    Thì cứ y như rằng, sau đó, tôi sẽ nhận được những lời không đá động gì đến tâm sự tôi, mà là “một mũi thuốc khỏe” bơm vào người cho tôi “lại đứng lên”:

    “Chúc BG có sức khỏe, tinh thần mạnh rắn như đồng, một lúc thi hành hai nhiệm vụ cực kỳ gian nan: vừa là mẹ vừa là bố. Phần tôi, xin cúi đầu khâm phục chí khí của BG và tôi rất lấy làm vinh hạnh được làm bạn văn chương của BG.” (Thư 14/3/2005)

    “Có điều quan trọng hơn hết là phải giữ gìn sức khỏe, ngủ tối thiểu phải năm tiếng đồng hồ một ngày, nếu không một khi ngã bệnh, mọi việc sẽ bị đình trệ. BG nên luôn nhớ rằng hiện nay BG đang là chủ gia đình, phải đảm đương mọi sự một cách hoàn hảo. Tránh sơ suất mọi việc (nhất là sức khỏe). Cây bông giấy ở sân thượng nhà tôi năm nay có một cành toàn là hoa, từ dưới nhìn lên y hệt một cây lúa trổ bông rực đỏ.” (Thư Feb 12/2005)


    IV.

    Từ xưa trong giới văn nghệ VN đã có cái hiện tượng “áo thụng vái nhau” thật là đáng chán. Điều này, ở hải ngoại bây giờ, lại thấy càng có nhiều hơn nữa. Nhan nhản mỗi ngày trên các báo, tôi đọc được từ những bài phê bình, bài giới thiệu một cuốn sách, một tập thơ mới ra lò nào đó, toàn những lời “bốc tận mây xanh một cách thật là đao to búa lớn”. Điển hình như một vị lão thành trong giới văn nghệ Sàigòn cũ, sẵn sàng đem thơ Tagore ra mà đặt ngang hàng với những câu trong thi tập đầu tay của một phụ nữ mới chập chững bước vào con đường thi ca. Hoặc như Diệu Tần, một “nhà văn viết văn chưa sạch nước cản” nhưng vì đã từng được Mai Thảo phóng bút “xoa đầu” bằng những câu những chữ làm dáng một cách thật là Mai Thảo

    (“một cõi viết mới mở”, ”một trầm tĩnh viết, một ung dung viết”, “Càng thấy Diệu Tần không phải là một người viết chỉ. Chỉ mới, chỉ đây. Mà một người viết đã. Đã nhiều, từ lâu.”..v..v.) (*)

    nên đã không ngần ngại “xoa đầu lại” một anh “thi lão lăng quăng” bằng những câu những từ cũng rất “lăng quăng”:

    “Dương Huệ Anh làm thơ rất dễ dàng, đề tài nào cũng có ông. Chuyện lặt vặt trong nhà, đưa con cháu đi học, về nhà cuốc đất là nảy ra thơ. Ngồi xe buýt hay dạo bộ cũng ra thơ. Nếu chuyện Lý Tống, chuyện một người vợ phi công Mỹ chết ở VN, chuyện thiên tai, chuyện đói khổ Phi Châu, chuyện tình Diana-Charles cảm hứng thành thơ đã dễ hiểu, nhưng ngay như chuyện kẹt xe giờ tan sở, chuyện ghé qua tiệm sách... cũng làm thơ được như họ Dương quá mẫn cảm. Chuyện gì cũng thành thơ: vào bệnh viện thăm bạn, động đất ở Cali, Nam Mỹ có sóng thần, lại có thơ. Một phụ nữ có bầu đứng xếp hàng chờ lãnh eo-phe hay là cái phiền toái 30 Tết cũng là cái cớ để Dương Huệ Anh cảm xúc thành thơ.” (Thơ Dương Huệ Anh, Tổng tập I, NXB Phương Đông, 1997)

    Để rồi tới một tập mới ra lò khác của “nhà thi lão lăng quăng”, ông Diệu Tần lại phóng bút:

    “Một lần nữa, tôi lại được có đôi lời về tác phẩm 'Những Cánh Thư Hồng' của tác giả Dương Huệ Anh. Trong dịp bàn về thơ, tôi đã SO SÁNH Dương Huệ Anh đa năng, đa tài chẳng khác gì nhà văn Ernest Hemingway (!)

    Cái chuyện so sánh văn chương và con người một đại văn hào của thế kỷ với chữ nghĩa và cuộc sống “rất lăng quăng” của một “thi lão lăng quăng” thời hiện đại thế kỷ 21 thì thật là một điều rất đáng tội nghiệp cho Hemingway và cũng đáng kinh hoàng cho chuyện văn chương, thi ca VN! Cái hiện tượng quái đản đó xẩy ra không phải là ít trong giới văn nghệ hải ngoại. Nó làm cho chữ nghĩa VN nhìn vào thấy như bị bại liệt, làm cho tên tuổi (nếu có) của kẻ viết lời giới thiệu hay kẻ được viết tới trong các bài Tựa, bài Bạt, trở thành lố bịch một cách rất đáng thương!

    *



    Thế Phong là nhà văn không nằm trong cái dòng sinh hoạt văn chương VN tàn tật đó. Nơi anh có điểm đặc biệt là cái tính lân tài và rất không đố kỵ với kẻ có tài. Anh đã từng “không sợ” đưa ra những lời thẳng thừng tàn nhẫn trong các tác phẩm của mình, mục đích đả phá những cái hủ bại làm ô danh giới văn chương nghệ thuật, thì anh cũng “không sợ” chối đi những lời nhận xét tốt của chính anh khi đọc văn người. Nhiều lần giới thiệu cho tôi một tác phẩm của ai đó trong hay ngoài nước bằng câu nói: “Anh này viết tốt lắm!” “Tác phẩm kia đạt lắm!”, tức là cái tốt, cái đạt tôi cũng đã cảm nhận chính xác sau khi trang cuối cùng được lật xong.

    Những lời khen của độc giả, hơn nữa, của một người cầm bút, trên đứa con tinh thần mình đã sáng tạo, là một món quà đền bù rất lớn cho sự lao động trí não của tác giả. Nhưng phải nhận định cho rõ ràng “kẻ khen mình là ai, có đủ vô tư và thẩm quyền hay không trong sự định giá cái hay cái đẹp của chữ nghĩa?” Trong cuốn MTDKCT tập I, tôi từng nói với Đào Khanh, tác giả tập truyện Đôi Mắt . (nxb Trống Đồng 1986):

    “Tôi thà nhìn tác phẩm mình bị dìm chết đi trong quên lãng ‘một cách cố ý’ bởi những tay viết đố kỵ khác, còn hơn được một người có sự thẩm thấu và hiểu biết về văn chương ‘cỡ như anh’ ngợi khen!”

    Và trong Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau tập II, tôi cũng nói với một người bạn:

    “Nhà văn nào thì độc giả ấy. Tầm cỡ đã định, giống như câu tục ngữ ‘tiền nào của nấy’, không sai chạy đâu được. Vậy không nên bắt độc giả phải hiểu tác phẩm theo cái đầu của nhà anh phê bình. Riêng độc giả cỡ như tôi,khi đến với một tác phẩm văn chương, trước hết là đến bằng chính tâm cảm của mình đối với tác phẩm; sau nữa, tìm hiểu về tiểu sử tác giả để biết thêm do từ hoàn cảnh gia đình và xã hội nào mà tác phẩm được viết? Chứ tôi không bao giờ thèm đọc các bài phê bình văn chương trước rồi mới tìm đọc tác phẩm sau.” (...)

    “Riêng các tác phẩm văn chương, với tôi, bài 'Tựa' đóng vai trò khá quan trọng. Đó là cánh cửa đầu tiên mở ra cho độc giả hiểu được chủ ý tác giả trong nội dung câu chuyện. Đọc sách ngoại quốc, thấy các tay viết Tựa thường không phải tầm thường trong kiến thức nhận định văn học. Nhưng với văn chương VN, điều này trở thành rất dở. Đa số nhà văn nhà thơ VN thường không tránh được cái bệnh nhờ người nổi tiếng viết Tựa cho tác phẩm mình cấu tạo. Và các tay nổi tiếng VN lại thường không có mấy kiến thức văn chương, hoặc nếu có thì cũng không đủ thẳng thắn để đặt bút đúng đắn trong một bài Tựa về tác phẩm mà mình đang được (hay bị!) nhờ viết! Vì vậy, các tay ấy luôn viết láo, viết nịnh cho khỏi mất lòng kẻ nhờ cậy. Rốt cuộc, chỉ độc giả là bị lừa, đọc bài Tựa và tác phẩm, thấy một trời một vực cách xa nhau!”

    (NNBNN II, nxb Văn Uyển 1996)

    Nói như thế có nghĩa rằng tôi không phải là kẻ ưa thích hay chờ đợi những lời khen giả dối. Cái hiện tượng bốc thơm nhau một cách thật lố bịch nói trên khiến tôi kinh tởm. Nhưng phải nhận thực rằng, ở hải ngoại, người ta “sợ” khen tôi, người ta “sợ” không dám đưa ra ý nghĩ thật của một nhà văn khi thẩm định văn chương tôi. Tệ hại hơn là dù rằng đã được phân phối qua tay các nhà mại bản sách thì mọi tác phẩm của tôi vẫn đều bị cái số phận hẩm hiu là không được bày ra trên các kệ sách. Điều này sở dĩ biết là từ những lời phàn nàn “không làm sao kiếm ra tác phẩm TTBG, ngoại trừ đọc chùa ở thư viện Mỹ” qua những cú điện thoại độc giả gọi đến tôi.

    Thế Phong khác. Anh không ngần ngại kể ra với tôi những lời thẩm định của kẻ khác theo những gì tôi đã viết:

    “Ảnh hưởng sách của BG đối với những người cầm viết ở VN đọc (cả những cây bút miền Bắc hiện ở Sàigòn) phản hồi ý kiến: sách viết hay, xúc động, rất thật, bản lĩnh, can đảm phi thường, hấp dẫn (không thể bỏ dở dang), có tầm cỡ của một nhà văn lớn (quốc tế)..v..v. 
    (Thư 31/1/2000)

    “Hôm thứ ba Aug. 2/2005, cùng HVĐSơn, Ý Nhi, Lê Duyên đến thăm anh Nguyễn Ngọc Lan. Gặp Lữ Phương (nguyên Thứ trưởng Thông Tin của GPMN) bảo tôi rằng BG viết bài phê bình tác phẩm 'Đêm Giữa Ban Ngày' của Vũ Thư Hiên trên mạng rất độc. Rất nhiều người theo dõi loạt bài ấy, rất khen tặng con mắt sắc sảo của BG, kể cả giám đốc Bình, Bích Ngân NXB/VN.” (Thư Aug. 5/2005)

    Anh đọc tôi rất kỹ, không chỉ bằng thái độ một người bạn đọc một người bạn, một độc giả đọc một nhà văn, mà còn là một nhà văn đọc tác phẩm của một nhà văn nữa. Từng câu từng chữ được anh ghi nhớ, cảm thông và chia xẻ:

    “Hôm nay tôi và anh Đắc Sơn đến thăm bác Lê Ngộ Châu, được bác giao lại cho mấy cuốn sách BG tặng. Thật cảm động, tất nhiên nói cảm ơn thì sáo, song không thể không nói. Cách đây mấy ngày, đọc Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau tập I suốt một ngày ròng. Lối viết nhật ký thành truyện dài như vậy coi như đạt, đọc bắt mắt, không dễ rời bỏ truyện. Lời của Lâm Ngữ Đường cho rằng một nhà văn nếu chưa từng một lần viết về cái Tôi thì chưa đáng gọi là một nhà văn, chưa hẳn là lời quyết đoán.” (Thư 24/4/2000)

    “Tuần qua, đọc lại lần hai Nhật Nguyệt Buồn Như Nhau Tập II, bỗng nhớ BG lạ thường! Ôi con đường Yên Đổ xưa (nay là Lý Chính Thăéng) sao lại có những ống cống to như cái KHÁCH SẠN LỘ THIÊN để cho một tác giả cuộn tròn như con sâu nằm suốt đêm như vậy! Đọc xong càng thấy thấm.” (Thư thứ bảy 23/4/2005)

    Rồi chẳng những chỉ đọc thôi, anh lại còn có lòng phổ biến nó ra cho mọi người cùng biết.


    Subj: Hà Nội Ngợi Ca NCQC

    Bông Giấy ơi,

    Dư luận văn chương ở Hà Nội, sau khi đọc NCQC, nhà thơ Nguyễn Khôi viết thư cho tôi, có đoạn: “Cái tên TTBG nghe không văn chương chút nào, nhưng văn quả thật là có văn chương, có trình độ, nói lên được cái ‘thân phận con người’ với quê hương xứ sở đau thương ngàn đời này”… Thật đúng là ‘người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’. Thế mới đúng là " văn chương đúng nghĩa"..." (Thư gửi Thế Phong, từ Hà Nội, 23/9/2004).

    Lá thứ hai cũng nhắc đến tương tự như vậy, anh Nguyễn Khôi trao cho nhiều bạn bè văn chương ở Hà Nội đọc, và hiện nay NCQC trở về với Nguyễn Khôi trong thời kỳ tái suy ngẫm một tác phẩm văn chương bất hủ của TTBG.

    Sàigòn dạo này đêm và sáng lạnh, uống café đậm, thật tuyệt! Gửi BG hai đoạn trích trong thư của Nguyễn Khôi (Hội Nhà Văn Hà Nội) bình về TTBG với NCQC: Từ trước đến nay trong số các nữ văn sĩ mà NK đọc thấy “có não” ở ta, có lẽ TTBông Giấy là số một, có thể sánh Nước Chảy Qua Cầu với Jane Eyre của Charlotte Bronte; tuy thể loại có khác nhau (bút ký / tiểu Thuyết) nhưng đọc rất cảm động về thân phận người phụ nữ. Ở TTBG, NCQC thật ra là một cuốn tiểu thuyết hậu hiện đại (kiểu tự truyện), cái hay là nhân vật “tôi” không thiên kiến, cứ thực mà tả (tả chân) rất sống động, rất khách quan, rất đời thường, mọi cái đúng như thời của nó... Sau này con cháu người Việt Nam ta đọc sẽ thấy hiện lên mồn một cái thời sau 1975 ở miền Nam Việt Nam. (Một phen thay đổi sơn hà, tấm thân chiếc lá biết là về đâu?)

    Các truyện Tàu của Quỳnh Dao đọc cũng “hay” nhưng nó không thực, nó xa lạ với người Việt Nam ta. Còn ở Dương Thu Hương thì đọc thấy cay độc quá. Ở Phạm Thị Hoài thì kích thích tình dục quá !(sự cay cú, thiên kiến hay sự tha hóa thái quá... đọc nó mất cả cái vẻ tự nhiên vốn có của sự sống. Phải như Lão Tử, cái gì của đời hãy trả lại cho đời, mới được.) (...)

    BG ơi, âu đó cũng là một tiếng nói tri âm khiến cho tác giả đang giữa khuya một mình một bóng trên highway đến sở làm, cũng cảm thấy đường không quá xa, lòng thì lại trở về gần hơn với xứ sở quê hương.

    (Thư viết ngày 19 tháng Hai 2005).

    Cũng vậy, anh chuyển cho tôi những lời khiến anh “thú vị” như đã nói qua điện thoại vì:

    “Theo lời phó giám đốc Bích Ngân (một nhà văn) thì ‘NCQC thật cảm động, sâu sắc...” (Thư Fri, 20 May 2005)

    Và sau đó:

    “Sáng nay, thứ ba July 5/2005, tôi đến NXB Văn Nghệ gặp Giám đốc và Phó giám đốc Bích Ngân. Cả hai người đều hết lời ngợi khen tài viết bút ký của BG. Riêng Bích Ngân cho là Hoàng Phủ Ngọc Tường viết bút ký đã hay, nhưng khi đọc bút ký của BG thì thấy không thể so sánh, vì NCQC vượt trội” (...) Bích Ngân đọc trên website Giao Điểm, rất thích hai bài viết điểm sách Vũ Thư Hiên và Nguyễn Gia Kiểng của BG. Nhất là Giám đốc Bình lại cho rằng “chưa có một nhà văn nữ nào viết trung thực và hay như BG.”


    V.

    Hơn tất cả những “đồng nghiệp vong niên” tôi đã trình bày ở đoạn trên, giữa Thế Phong và tôi có nhiều kỷ niệm cụ thể. Những chuyến xe khuya đưa mẹ con tôi từ phi trường Tân Sơn Nhất lên Dalat trong mỗi mùa hè về thăm quê cũ, đều có anh và Hoàng Vũ Đông Sơn hiện diện. Những chuyến xe băng băng trên con đường gập ghềnh dưới cơn mưa nhẹ hạt vẫn được nhìn như một thứ chứng nhân cho nhiều câu chuyện văn chương nổ ra như bắp giữa cả đám chúng tôi. Rồi lại các buổi café thật sớm nơi ngã năm khu Hòa Bình, ngồi với nhau trên những chiếc đẩu thấp, nhìn sương rơi giăng kín trời Dalat, chúng tôi dẫu chẳng ai nói gì thì tự mỗi người vẫn thấy như đang lâng lâng trong một thứ tình thắm thiết. Đó là Tình Bạn và Tình Yêu Quê Hương được bắt gặp bất ngờ giữa các con người đến từ hai vùng trời Đông-Tây cách biệt. Một thứ tình, giống như một gia tài quý giá, tôi đã được Thượng Đế bù đắp cho trong một chuỗi đời nhiều thống khổ đắng cay.

    Nhiều lắm! Nhiều lắm! Kể sao cho hết những kỷ niệm êm đềm được tạo ra giữa hai (và nhiều) người bạn có cùng “cái nghiệp”. Là nhà văn, nhưng tôi tin rằng chẳng giấy bút nào có thể đủ cho tôi nói lên tâm cảm mình theo những mối ân tình mà Thế Phong và bạn hữu đã đem lại cho tôi.

    *

    Nhà văn thường là kẻ mơ mộng, yêu chuộng cái Đẹp, cái Mới. Thế giới nhà văn thường là thế giới đẹp, xa rời thực tế. Vì vậy cũng không thiếu gì con thiêu thân tự ý lao đầu vào cái “mác” ánh sáng văn nhân thi sĩ. Đó là cửa ngõ đầu tiên cho những cuộc thay lòng đổi dạ xảy ra trong bề trái cuộc sống các nhà văn.

    Một người quen tôi từng nói:

    “Trong các thứ nghề, không có nghề nào làm cho con người dêã trở nên kiêu ngạo cho bằng làm nhà văn. Và trong giới này thì nhà văn nam không mắc cái bệnh ấy nhiều cho bằng nhà văn nữ!”

    Câu này ngẫm lại thật đúng.

    Sự kiêu ngạo tạo nên từ tính hoang tưởng thiên bẩm của nhà văn, cái bả danh vọng lôi cuốn, là hai thứ dễ làm cho người ta quên đi cái nghĩa tào khang tấm mãn. Trên chiều hướng này, một nhà văn (người có đầu óc) với một nghệ sĩ sân khấu (người thường bị cái ảo ảnh của ánh đèn màu làm mờ đi sự suy nghĩ) cùng có điểm (phản bội) giống nhau trong cái nhìn về Tình Yêu, Hôn Nhân.

    Thế Phong, một người bạn văn chương với cá tính dọc ngang nào biết trên đời có ai!, được tôi thương quý không chỉ vì nỗi cô đơn “đồng bệnh” thôi trong những cảnh huống mà kẻ trước đứa sau cùng bị vướng mắc; mà còn quý vì tấm lòng thủy chung anh đối cho người vợ một đời tận tụy trên từng quãng sống cùng anh. Tôi hay nói đùa với anh và Hoàng Vũ Đông Sơn: “Các anh là những kẻ tài hoa mà không mệnh bạc nên không có duyên nằm trong sách Tài Hoa Mệnh Bạc của BG!” Nhưng, chính cái “khiếm khuyết” (Mệnh Bạc) nơi hai người bạn tôi lại đã là điều khiến cho tôi ngưỡng mộ, như đã từng ngưỡng mộ những cái đẹp nói lên sự thuần phác, đơn sơ.

    Cái “đức” cần thiết trong tâm hồn của một nhà văn được biểu tượng gần nhất là qua điều thủy chung như vừa kể.


    VI.

    Một lần trong năm 2002, từ San Diego, Phan Diên điện thoại lên tôi, báo cho hay rằng anh đọc thấy trên tạp chí Khởi Hành ở Nam Cali có vài bài lên án Thế Phong “đạo sách, đạo văn” của Đặng Văn Nhâm trong vụ Nữ Nhân Ngư đang ồn ào khi ấy. Giọng Phan Diên tức tối:

    “Tôi không tin Thế Phong làm như vậy. Nó có thể ‘cà chớn’ gì cũng được chứ không bao giờ thèm đạo văn ai. Đặng Văn Nhâm so với tên tuổi Thế Phong thì có ra gì mà Thế Phong cần phải làm thế với anh chàng ấy? Người ta đạo văn nó thì có!”

    Và Phan Diên đề nghị:

    “Tôi đã gọi nói cho Thế Phong biết sự việc mà thấy nó vẫn tỉnh bơ như pha. BG nên e-mail về hỏi nó cho ra lẽ. Với BG, chắc là nó sẽ nói thật tất cả.”

    Cái sự “muốn nghe Thế Phong nói thật” này, tôi nhiều lần gặp anh trong hai mùa hè kế tiếp về thăm quê hương, nhưng thấy anh không chút nào tỏ ra quan tâm đến ba loại chuyện ruồi bu như vậy, nên tôi không hề hỏi. Phải đợi đến tháng 7 năm 2005, “rảnh rang” nên vui miệng, tôi hỏi, và được anh cho biết chi tiết sự việc bằng một lá thư dài gửi tôi như sau:

    Sàigòn, ngày 30/7/2005

    Bông Giấy ơi,

    Vụ NỮ NHÂN NGƯ của tác giả Andersen do Đặng Văn Nhâm dịch là cái tựa do Chi nhánh nxb Thanh Niên in (2003). Còn MỸ NHÂN NGƯ là tựa sách ghi trên bản thảo của Đặng Văn Nhâm.

    Năm 2002, Huy Sơn từ Mỹ viết thư gửi tôi báo cho hay rằng Đặng Văn Nhâm từ Đan Mạch sắp về VN và muốn xin gặp tôi. Vì là chỗ quen biết cũ từ thập niên 1950 nên tôi đồng ý cho gặp.

    Một buổi, có cú điện thoại gọi đến nhà tôi, hỏi:

    “Đây có phải là nhà ông Thế Phong, 25/39 A Trần Khắc Chân, Tân Định?” Trả lời: “Đúng, xin lỗi, người đang nói chuyện với tôi là ai?”

    Đầu giây kia không thấy tiếng trả lời, cúp máy cái rụp. Khoảng mười phút sau, có khách bấm chuông, vợ tôi ra mở cửa. Tôi từ trên gác xuống, thấy một vị khách mặc quần áo rất tề chỉnh, đeo kính đen, đang ngồi ở sa-lông. “Mày có nhớ tao không?” (hỏi) ;“Nhớ. Mày là Từ Quyên Đặng Văn Nhâm? Nhìn mày giống hệt nhân viên FBI.”

    Sau đó bạn rủ tôi đi uống café và nhờ đưa đi tìm gặp đôi người bạn cũ, như nhà văn Thẩm Thệ Hà ở mãi bên quận tư. Những ngày kế tiếp, lại thường xuyên tìm gặp tôi, luôn luôn đi taxi chứ không chịu để tôi chở phía sau xe Honda. Lần đi uống café ở Givral với nhiếp ảnh gia Nguyễn Mạnh Đan, bạn cho biết có một số bản thảo dịch và từ điển, muốn nhờ tôi giới thiệu với một NXB ở VN in, và bạn sẽ không nhận tiền bản quyền. Nguyễn Mạnh Đan cũng giục tôi giúp đỡ bạn, như tôi từng giới thiệu Chi nhánh NXB Thanh Niên cấp giấy phép xuất bản sách ảnh của Nguyễn Mạnh Đan.

    Nhận lời xong, tôi bèn đưa bạn đến gặp thi sĩ Thái Thăng Long, giám đốc Chi nhánh nxb Thanh Niên để giới thiệu. Bạn ĐVNhâm đề nghị được in MỸ NHÂN NGƯ trước. Rồi bạn mời toàn thể nhân viên NXB đi taxi ăn sáng ở Đồng Khởi, mời gia đình Thái Thăng Long ăn tối ở Bình Quới II khá tốn tiền.

    Tiếp đó, Chi nhánh Nhà xuất bản Thanh Niên nhận in MỸ NHÂN NGƯ. Trong lúc đang in bìa, một trục trặc đưa tới: PA 25 (Phòng An ninh Văn hóa thành phố HCM) gọi điện thoại cho Thái Thăng Long yêu cầu sao đó nên ông Long tức tốc điện thoại cho tôi nhờ chữa cháy. Có nghĩa rằng ông Thái Thăng Long đưa ra với tôi cái đề nghị “nên in ‘THẾ PHONG dịch’, chứ không phải tên ĐẶNG VĂN NHÂM”.

    Tôi trả lời Thái Thăng Long:

    Hãy đợi tôi gửi điện thư hỏi ý kiến Đặng Văn Nhâm ở Đan Mạch đã, hoặc là nên đề tên TỪ QUYÊN dịch .(một bút danh viết báo của ĐVNhâm có từ trước 1975).

    Nhưng trong khi đang chờ sự trả lời của ĐVNhâm thì ông Giám đốc Chi nhánh NXB Thanh Niên lại điện thoại báo cho tôi hay là “phải in ngay, không thể chờ sự trả lời của Đặng Văn Nhâm được”. Ông TTLong còn nói: “Lần sau tái bản sẽ đề tên Từ Quyên.”

    Sau đó, bởi vì ĐVNhâm yêu cầu tôi nếu có tiền thì xuất ra trả cước phí bằng máy bay, gửi cho bạn ấy vài quyển, rồi bạn sẽ trả lại sau, nên tôi gửi cho bạn 5 cuốn, dán lên trang 3 hàng chữ “Từ Quyên dịch”.

    Tôi nhận được điện thư trả lời của bạn, hỏi:

    “Vậy ai là người nhận tiền nhuận bút? Ai là người gạch bỏ nhiều đoạn trong sách?”

    Tôi trả lời qua e-mail:

    Ở VN, việc biên tập, in ấn, phát hành nằm trong hai Kế Hoạch: 1/ Kế Hoạch A: NXB bỏ tiền ra in, trả tiền bản quyền cho dịch giả.

    2/ Kế Hoạch B: người liên doanh xin cấp phép trả quản lý phí cho NXB rồi tự lo chi phí ấn loát, trả bản quyền, tự phát hành. (Tôi viết cho ĐVNhâm) Bạn hãy liên hệ trực tiếp với NXB Thanh Niên thì hơn.”

    Cũng rất may là khi sách NỮ NHÂN NGƯ phát hành, tôi biết được chỗ in, nên đến Xí Nghiệp In của Bộ Thương Mại, xin được mẫu bìa đã in bìa NỮ NHÂN NGƯ đề tên Đặng Văn Nhâm dịch, rồi gửi sang Đan Mạch cho bạn ấy. Đồng thời tôi cũng gửi một thư cho giám đốc Thái Thăng Long phản đối việc NXB đề tên tôi là dịch giả; kèm theo cả mẫu bìa NỮ NHÂN NGƯ in lần đầu có đề tên ĐVNhâm; thêm với lá thư viết tay của ĐVNhâm gửi giám đốc NXB như sau:

    “Thân gửi anh Thái Thăng Long và Thế Phong,

    Tôi nghĩ nếu sách này in được, chắc anh phải viết giùm cho lời giới thiệu của NXB. Nếu có nhà xuất bản nào lo việc ấn loát và phát hành luôn thì tiện cho tôi lắm. Tôi không quan tâm đến tiền bản quyền đâu. Mong được ý kiến sớm của các anh. Nếu có gì trở ngại, cuối năm nay tôi sẽ về gặp các bạn. Thân quý chúc các anh Long, Bình, Thế Phong... đều bình an thịnh đạt. ĐVNhâm. (Mấy trang đầu sách này tôi bỏ. Có sẵn dĩa chứa?”

    *

    Từ Los Angeles, Phan Diên gọi về báo tin cho biết một tờ báo ở Nam Cali có bài đả kích tôi chiếm đoạt bản dịch của ông Đặng Văn Nhâm. Và Phan Diên lập tức scan ra gửi về cho tôi bài báo ấy, kèm theo lời thúc giục tôi viết một bài cải chính gửi cho báo Người Việt đăng. Phan Diên nói thêm, đó là ý kiến của Hoàng Khởi Phong, phụ trách trang văn nghệ báo Người Việt. Tôi giữ im lặng.

    Năm kế tiếp, 2004, lại có một cú điện thoại gọi đến, giọng quen quen: “Tao và thằng Huy Sơn về Sàigòn rồi, muốn gặp mày.” Tôi trả lời: “Rất tiếc tao không có thì giờ đi chơi với mày nữa.” Và cúp máy.

    BGiấy ơi, tôi sẽ gửi cho BG phóng ảnh bìa NỮ NHÂN NGƯ có in tên ĐVNhâm là dịch giả và cả lá thư viết tay của ĐVNhâm gửi NXB Thanh Niên nhé. Sau đây, chép lại cho BG một đoạn trong lá thư tôi gửi giám đốc NXB Thanh Niên tại T/P Hồ Chí Minh:

    30/7/2003,

    Thân gửi ông Thái Thăng Long, giám đốc Chi nhánh NXB Thanh Niên thành phố Hồ Chí Minh,

    Thưa ông, xin đính kèm đây:

    a/ Thư viết tay của ông Đặng Văn Nhâm, dịch giả Nữ Nhân Ngư do NXB/TN ấn hành 2003 mang tên dịch giả Thế Phong.

    b/ Thư điện tử của bạn ấy phê phán tôi là “kẻ chiếm đoạt tác phẩm NỮ NHÂN NGƯ của ĐVNhâm."

    Do đó, tôi đã xin lại được mẫu bìa Nữ Nhân Ngư nguyên thủy trước khi ra phim (thu thập được tại Xí nghiệp In Machino, Bộ Thương Mại) gửi ông để ông có cơ sở biện giải giùm rằng tôi chỉ là “dịch giả bất-đắc-dĩ” do chính ông yêu cầu thay tên dịch giả và tôi trở thành hình-nhân-thế-mạng. Trong ít phút chuyện trò qua điện thoại, khi nghe ông cho biết là sách đã in xong nhưng PA 25 yêu cầu không được đề tên Đặng Văn Nhâm (nơi trang bìa), tôi đã yêu cầu ông đổi lại là “dịch giả TỪ QUYÊN” cũng được (điều ấy tôi đã báo ngay cho ông Đặng Văn Nhâm).

    Nhưng vẫn chính là lời của ông cho tôi biết rằng sách và bìa đã in xong nên quá muộn để thay tên dịch giả khác. Vậy hãy chờ khi tái bản sẽ đề tên Từ Quyên dịch vậy.”

    *

    Năm 2004, Chi nhánh nxb Thanh Niên có in lại 400 cuốn Nữ Nhân Ngư, nơi trang 3 ghi tên Từ Quyên dịch, và đó là đúng ngay lúc ĐVNhâm về lại VN, có gọi điện thoại mời ông giám đốc đến cho gặp. Ông TTLong trả lời:

    “Vì bận nên không thể gặp ông ĐVNhâm ở ngoài cơ quan; vậy xin mời dịch giả Nữ Nhân Ngư đến cơ quan nhận sách mới in lại và tiền bản quyền là 1.800.000 VNđ.”

    Vẫn theo lời ông TTLong, chờ khá lâu không thấy ông ĐVNhâm đến cơ quan và nhận tiền nhuận bút.

    Còn anh chàng chủ nhiệm chủ nhiếc Viên Linh của báo 'Khởi Hành' ở Mỹ sở dĩ có bài đả kích kia, là do yêu cầu của Đặng Văn Nhâm, vì bọn này chung một giuộc Văn Bút với nhau, phủ bênh phủ huyện bênh huyện. “Chàng Lùn Nhà Thờ Đức Bà” là sước danh báo chí Sàigòn trước 75 đặt cho Vũ Hạnh+Viên Linh, đại khái mang ý nghĩa “tài thì chỉ như anh lùn mà huênh hoang cao ngất ngưởng đến nóc nhà thờ” ấy mà.

    Cũng vui thôi, chẳng có gì phải bận tâm, vì BGiấy biết sao không? Tới tuổi này, cái gì vui thì cười cho hả hê, cái gì không vui thì bỏ qua, hơi đâu mà bực dọc, phải không BG?

    Trở lại với tác phẩm Thư Viết Ở Sàigòn (nxb Văn Uyển 2000) đã được “chàng thi sĩ tài chỉ bằng anh gù lại tưởng cao hơn nóc nhà thờ Đức Bà” ấy đã có ít dòng trong bài “Thế Phong Bị Tác Giả Đặng Văn Nhâm Tố Cáo Đánh Cắp Tác Quyền” đăng trên báo 'Khởi Hành' tháng 9/2003 như sau:

    “Tác phẩm của Thế Phong cũng là lời bịa đặt, chửi bới tàn tệ các nhà văn khác (ngay trong năm nay, nhà văn Văn Quang phải lên tiếng cảnh cáo anh ta trên báo chí, mà tờ Kịch Ảnh ở Houston có đăng). Tuy thế những hành động vẫn chưa làm người ta định giá nhà văn Thế Phong. Lần này với chuyện ‘luộc sách’ cuốn Nữ Nhân Ngư, tên tuổi Thế Phong sẽ chính thức được ghi lại trong sinh hoạt xuất bản qua một việc làm có tính cách đạo tà.”

    Bông Giấy ơi, ngay cái tít bài viết trên đã không chỉnh rồi. Nếu gọi Đặng Văn Nhâm là TÁC GIẢ thì hoàn toàn không chính xác. Bằng như nếu có, thì phải gọi ĐVNhâm là “TỐI TÁC” đúng hơn. Lý do giản dị là bạn ấy có sáng tác được một tác phẩm văn học nào đâu, có chăng là biên soạn. Ở đây nên dùng chữ “TÁC DỊCH” vì chắc gì trình độ bạn ấy có thể lột tả được nguyên bản của Andersen, chứ chưa nói đến “Traduire, c’est trahir”?

    Thôi, bỏ qua các chuyện tào lao này đi, nghe BG. Coi như “chấm dứt chương trình tạp-pí-lù Tùng Lâm”, một thành ngữ thường dùng trước năm 1975 ở Sàigòn. Thế Phong.

    []



    VII.

    Giới văn nghệ dù ở đâu, vẫn có kẻ tốt người xấu, kẻ đứng thẳng mình làm văn chương, kẻ khom lưng cúi rạp ngay từ bậc thềm thấp nhất của con đường danh vọng. Thì với Thế Phong, sẽ khó có ai nhìn ra được anh với thứ tình cảm bị giấu kín bên dưới cái mặt nạ châm chọc đầy tiếng cười ngạo nghễ. (đâu ai muốn mất thì giờ để đi tìm “con người thật” trong anh?) Vì vậy mà anh cô đơn. Nhưng nỗi cô đơn của anh không mang tính đồng dạng như của Uyên Thao, Văn Quang hay nhiều nhà văn khác. (ở những người này, nỗi cô đơn thường bị chìm khuất đi trong cái chung một dòng đám đông hòa nhập.)

    Như một vì sao đứng riêng một góc trời, hay như “cánh chim họa mi đậu dưới chân đèo Bạch Mã”, anh đã tự “cất lên tiếng hót anh hùng” qua những bài ca “chua chát não nề” như để “tự xỉ vả”, như để “nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ.” Tiếng hót này có nhiều người nghe nhưng không mấy ai cảm được cái hay của nó. Vì thế mà dập vùi, mà xua đuổi... để cuối cùng giọng chim trở nên khàn tiếng trong những lần gào thét cô đơn.

    Đó là “nỗi đau” trong tâm hồn một nhà văn. Nỗi đau này của anh, nếu đem so sánh với nỗi đau của bác Lê Hữu Mục (như trong bài viết về bác, tôi đã đề cập) và của tôi từ khi bước chân vào văn nghiệp, thì đều có phần giống và cũng là thật khác. Hãy thử tưởng tượng một hàng ngang ba người, anh đứng ở giữa, thì vấn đề sẽ rõ. Phía bên trái là bác Lê Hữu Mục và một nửa con người anh. Điểm tương đồng giữa cả hai là “sự ưa thích tìm đến với đám đông văn nghệ”. “Nỗi đau” trong mỗi người đã được tạo thành từ hai cái nhìn và gây nên hai kết quả khác biệt:

    1/ Anh, phẫn nộ theo những điều giả dối (trên sự giao thiệp), những nông cạn (trên sự suy nghĩ ) của đám đông văn nghệ, đâm thành muốn đạp đổ tất cả.

    2/ Bác Lê Hữu Mục: dẫu vẫn nhìn thấy mọi nỗi như anh, nhưng hiền hòa nhẫn nhục hơn nên không tỏ thái độ phản kháng; thà rằng “tiếp tục tự lừa mình” hơn là “quay lưng hẳn với đám đông”.

    Phía bên phải là tôi và nửa con người còn lại của anh

    1/ Điểm giống nhau giữa cả hai là có cùng cái nhìn phẫn nộ đối với đám đông văn nghệ và cùng phô bày sự phẫn nộ này ra trên chữ nghĩa. Kết quả là sự tẩy chay, thù ghét xẩy đến cho những đứa con tinh thần mỗi người đã cấu tạo.

    2/ Điểm khác chính là anh vẫn tiếp tục lăn vào đám đông với thái độ cũ; còn tôi thì hoàn toàn quay lưng lại với đám đông. Vì thế mà tôi “đỡ khổ” hơn anh và giòng văn chương tôi vẫn không bị biến thành mỉa mai cay đắng!

    *



    Tuy nhiên, cũng nhờ cái điểm tương đồng đó mà thoạt biết nhau, cả anh lẫn tôi đều đã bắt đúng ngay “cái mạch” cô đơn của mỗi người. Những lá thư trao đổi cũng là những lời chân thành giữa hai người bạn có cùng cảnh ngộ. Những giòng chữ im ỉm nhưng có sức mạnh chia xẻ bằng vạn lần các cuộc thù tạc với đám đông văn nghệ giả dối chung quanh.



    Nhận thư Thế Phong.

    Sàigòn, Thứ sáu 19/11/2004 (9:56 PM)

    Bông Giấy ơi,

    Thế là lại sắp đến Nô-En vì mới đây nghe Khánh Ly ca khúc hát Giáng Sinh về Dalat, lại một khoảng thời gian quá vãng xa lắc lư, trở về với hiện tại. Và lại nhớ đến BG với những ngày đêm ở Dalat vào mùa hè năm 2000. Dạo này tôi có công việc làm mới, phụ với nhà tôi trông nom cháu nội gái, cho bố mẹ đi làm. Mượn người làm thì đến người thứ hai cũng không xong. Người thứ nhất quê ở Quảng Bình, có trách nhiệm, lại phải về quê săn sóc chồng ốm; người thứ hai, quê Cai Lậy, lãng mạn kiểu miền Nam, chỉ làm được tròn một tháng rồi trở về với sông nước Tiền giang. Vài hàng thăm BG và cả nhà.

    Thế Phong. 

    Thư gửi Thế Phong.

    Cali 20/11/04 (8:10 AM)

    Anh Thế Phong thân,

    Nhắc đến Noel lại càng buồn da diết vì một mùa Noel mơ ước ở Việt Nam (và Dalat) sẽ không bao giờ còn trở về với BG. Bên này lá vàng rơi rụng đầy sân. Nhìn lá mà ngẫm lại cuộc đời mình sao thấy trống vắng hoang liêu quá. Trước mặt chừng như có một tấm màn đen bao phủ khi nghĩ về tương lai sắp đến. (...) Nhiều đêm không ngủ được, nghĩ đến anh và anh Đông Sơn, thấy các anh còn may mắn hơn BG rất nhiều ở chỗ còn có người để chia xẻ từ chuyện lớn là nhà cửa đến chuyện nhỏ là... giữ cháu nội!

    Năm tới đây (2005), BG không định viết gì mới ngoài chuyện ngồi sắp xếp lại tất cả các bài vỡ cũ, đánh máy vào một cái Laptop mới mua, dự định nếu nằm xuống vĩnh viễn, Âu Cơ còn biết đường mà truy tầm các tác phẩm của mẹ nó.

    Đọc và viết lại các bài Tài Hoa Mệnh Bạc cất giữ vào trong máy, mới thấy rằng cuộc đời những người nghệ sĩ đều có điểm rất giống nhau là SỰ CÔ ĐƠN. Đọc Modigliani và Emily Bronte viết năm 1993, BG không ngờ rằng khi suy ngẫm về họ, BG đang ở vào một hoàn cảnh chồng con đầm ấm, hạnh phúc thừa mứa, tiền bạc dư dã, vậy mà sao lại có thể thông cảm được sự nghèo khó, nỗi cô đơn tuyệt vọng của họ một cách sâu sắc để biến thành chữ nghĩa? Hay phải chăng khi viết về họ (ở thời điểm đó) là BG cũng đã tự viết về mình (ở thời điểm này) mà không hay?

    Cám ơn anh đã gửi NCQC đến các bạn miền Bắc. Lời ngợi khen của họ (và của độc giả) trên chữ nghĩa mình là niềm an ủi duy nhất cho cuộc đời cô quạnh của BG. Đó là sự thật. Cái sự thật rằng chỉ 'Văn Chương' mới hiểu và chia sẻ được cùng BG mọi nỗi thống khổ, như muôn thuở. Bây giờ cứ cúi đầu ngồi viết, chấp nhận làm kiếp tằm nhả tơ cho đến chết và tự nguyện làm như thế vĩnh viễn, do bởi điều nhận định, chỉ Văn Chương mới là người tình, người chồng và người bạn thật sự yêu thương BG, hơn tất cả mọi con người hiện hữu ở thế gian. Và cũng chỉ 'Văn Chương' mới giúp BG quên được những ngày giờ triền miên suy nghĩ theo mọi nỗi khủng hoảng về đủ thứ hiện nay thôi

    Hè năm tới không biết có về Việt Nam được không? Tất cả hãy để Thượng Đế định đoạt. Dù sao vẫn rất nhớ Việt Nam và nhất là nhớ đặc biệt anh và anh Đông Sơn. Nhớ mái nhà nho nhỏ ấm cúng của anh Đông Sơn, nhớ những chuyến xe khuya Sàigòn-Dalat có anh em mình hiện diện. Nhớ tất cả... Nhưng thôi, sẽ dùng cái tất cả đó để ghi xuống thành văn chương.

    Thân ái, TTBG 



    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, Feb 6/2005

    Anh Thế Phong ơi,

    Hôm nay đã là 29 Tết Ất Dậu rồi. Buổi sáng thức giậy sớm, đọc thư anh, uống ly café nóng, hút hai điếu thuốc lá một mình trong sương sớm, giữa khu vườn hoang lạnh, mà lòng cứ man mác buồn khi hình dung Sàigòn ở xa có những bạn bè đang rộn ràng đón Tết. (...) Bấy lâu, tinh thần BG xuống dốc quá nên chữ nghĩa cũng quăng đi hết. Nhận thấy không thể cứ là như vậy nên BG trỗi dậy, làm việc trở lại trên văn chương của mình để tự cứu trước khi quá muộn. (...)

    Thực sự, từ mùa thu vừa rồi ở VN về, BG có ý định NGƯNG không viết nữa, nhưng thấy như vậy là tự mình kết thúc đời mình (một hình thức TỰ TỬ chậm) và thấy có lỗi với người tình văn chương từng ôm ấp nâng đỡ mình những khi suy sụp trầm trọng, nên BỎ ý định ngưng viết. Chắc là đêm giao thừa năm nay lại vùi đầu vào bàn viết khai bút và tìm hứng thú văn chương cho một năm mới sắp đến. Mọi sự rồi cũng OK với cái đầu cương nghị cứng hơn thép này.” (...)

    BG rất vui mừng là cho đến bây giờ vẫn còn giữ được lòng quý mến của anh, mong sẽ không bao giờ ngu xuẩn mà đánh mất nó.

    Thăm và cầu chúc anh cùng cả gia đình ấm áp hạnh phúc trong ba ngày Tết.

    Thân quý, TTBG



    Thư gửi Thế Phong

    Cali, Mar 1/2005

    Anh Thế Phong thân,

    1/ Về chuyện NCQC: (...)

    2/ Ở Mỹ, những người Mỹ nào từng đọc River of Time cũng đều yêu mến tác phẩm. (...)

    Đối với BG, bấy nhiêu cũng đã đủ cho River of Time (hay NCQC) rồi. BG là mẹ, không mong ước gì hơn cho đứa con tinh thần của mình. Lần nữa, hữu xạ tự nhiên hương, mình chẳng cần phải làm gì trên nó nữa anh nhé.

    3/ Chuyện làm việc ở phi trường:

    BG cảm ơn tấm lòng anh đã quan hoài đến đời sống mẹ con BG. Trách nhiệm là điều tiên quyết BG phải nghĩ đến, nhưng đôi khi quá mệt trên thân xác, nên chỉ muốn bỏ việc, buông xuôi. Nhưng rồi nhìn lại, thấy nếu mình không gánh gồng thì chẳng ai gánh giùm cho mình hết. Lại phải ráng. Và nghĩ, số tiền lương kiếm thêm ở phi trường là để dành in sách mới và hè sang năm lại làm một chuyến VN thăm bạn hữu và thăm anh. Nhờ ý niệm đó mà lướt qua được những đêm cứ đúng 2:30 sáng, lại một mình một bóng lăïng lẽ lái xe giữa đường khuya giá lạnh đó anh.

    4/ Tác phẩm Dostoievski:

    BG vẫn làm việc trên nó từ mười năm nay, mỗi lần một chút. Giai đoạn này, muốn kết thúc nó cho rồi vì đã “bỏ rơi” nó quá lâu cho những tác phẩm khác. Năm nay BG định sẽ cho nó chào đời. Đó là cuốn Tài Hoa Mệnh Bạc tập IV. Đến tập thứ X thì mình có thể say goodbye với cuộc đời rồi. Nếu anh đọc được bản thảo, BG tin là anh sẽ thích vì BG dành cho cuốn ấy rất nhiều yêu mến nên viết rất kỹ; đọc cuộc đời Dostoievski mà thấy thích thú y như đọc một cuốn tiểu thuyết diễm tình.

    5/ BG không còn hợp tác với nhóm 'Giao Điểm' nữa vì anh chàng chủ nhiệm (NVHóa) này, chẳng những không có tài viết văn, lại úy thủ úy vĩ tùm lum theo chuyện phe đảng, bè cánh. Nên BG ngưng không cung cấp bài vở của anh em mình cho anh ta nữa, cũng chẳng hề nhấc phone trả lời mỗi khi anh ta gọi đến. Có một lần, gặp bà cụ trả lời điện thoại, nghe bà cụ nói: “BG bảo tôi rằng cậu không đáng mặt là bạn văn chương của nó!”, anh ta lấy làm "sốc" lắm .(...)

    Thân ái, TTBG



    Nhận thư Thế Phong.

    Sàigòn, Mon, 14/3/2005

    BGiấy ơi,

    Tối nay vào internet tìm Giao Điểm tháng 12/2004, đọc hai chương 1 và chương 2 Truyện Hoa Đào Năm Ngoái trên mạng. Đọc xong mới hiểu ngay TẠI SAO đến đây lại tự động point final (như xưa kia các cụ thường viết chữ CHUNG). Hẳn đã có rất nhiều bạn văn chương của BG ở Mỹ khiếu nại hai chương đó mà dẫn đầu có lẽ là nàng Vi Khuê (nay trở thành “lão bà trong làng chậu úp”, một cây viết thích phô trương chữ nghĩa, sử dụng chữ “chòi văn” khác với “nhà văn”, hẳn là càng khác xa với “cư- xá văn”, “chung cư văn”, mà khổ nỗi khả năng chữ nghĩa của nàng chỉ lướt trên đầu ngón tay là hết) đã khiếu kiện TTBG, người phụ trách Trang Văn Học Giao Điểm? Rồi lại hăm kiện luôn cả người chủ trương Giao Điểm? Vì vậy mà có cái tình trạng point final tức tưởi chăng?

    Thôi thì như thế cũng đủ chơi với đời rồi BG ơi. Hai chương đó quả là có kích dâm, bạo dâm, nhưng không thủ dâm văn chương đâu. Lại càng cám ơn “lá gan tày đình của TTBG”, con người đã tận tình tận lực với bạn bè văn chương. (...)

    Chúc BG có sức khỏe và tinh thần mạnh rắn như thép, một lúc thi hành hai nhiệm vụ cực kỳ gian nan: vừa là mẹ vừa là bố. Phần tôi, xin cúi đầu khâm phục chí khí của BG và tôi rất lấy làm vinh hạnh được làm bạn văn chương của BG.

    Thế Phong.




    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, 14/3/05

    Anh Thế Phong thân,

    Đi làm về đọc thư anh, thấy vơi đi rất nhiều mệt nhọc.

    Cám ơn anh đã chia xẻ với BG những tin tức văn nghệ liên quan đến anh ở VN. (...)

    Trong từng ngày, có một hạnh phúc nho nhỏ đến với BG là cứ mỗi 2:30 sáng thức dậy đi làm, trong khi ngồi chờ nổ máy xe thì BG uống vài hớp café và hút một điếu thuốc lá. Hạnh phúc là thế. “U cư sầu cực hốt truy hoan” như Nguyễn Du nói.

    Mùa Xuân đã trở về trên Cali. Thấy nắng vàng lại nghe nao nức nhớ thương những mùa hè năm cũ, chuẩn bị đi VN sau khi Âu Cơ vừa học xong ngày cuối... Năm nay lạc mất một mùa hè Dalat & Nhatrang, cả mẹ lẫn con đều buồn. Nhưng thôi, để mùa hè làm chuyện văn chương và dịp khác sẽ về VN thăm bè bạn và thăm anh.

    (...) Tuần sau là Tết rồi. BG hy vọng mọi sự sẽ khá hơn cho mình chứ năm vừa rồi xui quá là xui!

    BG tạm ngưng. Thăm tất cả Sàigòn và chúc anh chiến thắng vẻ vang trong vụ kiện ông Nguyễn Q. Thắng đạo văn anh.

    Thân, TTBG



    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, 15/3/05

    Anh Thế Phong ơi,

    Mới tức thì về nhà, BG nhận được thư này của Giao Điểm, gửi đến địa chỉ e-mail anh mà lại forward qua địa chỉ e-mail Bông Giấy.

    Wed, 16 Mar 2005 01:45:35 +0000


    Hôm nay (thứ ba ở California), tôi có nhận 4 files scannedcủa anh. Xin cám ơn. Tôi có thể đọc dưới hình thức một file vêà hình ảnh, thế nhưng để tiện việc nếu có thể sử dụng vào trang web, xin anh vui lòng gửi cho tôi những files bằng đánh máy được không?

    Chân thành cám ơn,

    nvh (giao điểm).

    Thế này là sao đây anh? (...)

    Anh chàng Giao Điểm này “không chơi được”, đó là điều BG nói thật. Kể từ khi thấy anh ta ngang xương cắt Trang Văn Nghệ TTBG trên Giao Điểm mà không báo BG biết, BG đã không gửi bài của tất cả anh em mình cho Giao Điểm nữa. Nay anh tự ý gửi cho anh ta tức là cũng có chút phần làm buồn BG đó. Anh nên cẩn thận trong sự giao thiệp với anh chàng này, lẫn cả với sự khiến cho BG phải buộc lòng... quay lưng cùng anh!

    Mong không có gì trầm trọng có thể làm sứt mẻ tình thân của anh và BG. BG cũng vừa mới viết cho anh chàng NVHóa rằng từ nay xin đừng đăng lên mạng Giao Điểm bất cứ bài viết nào ký tên TTBG, Trần Nghi Âu Cơ và Nguyễn Mỵ. BG không dám yêu cầu anh ta đừng đăng bài của anh và HVĐông Sơn vì không biết ý của hai anh như thế nào.

    Thân, TTBG



    Nhận thư Thế Phong.

    Wed, 16 Mar 2005 08:17:13 +0000

    Thân gửi Bông Giấy,

    Luật sư Nguyễn Đình Phùng viết một bài báo tựa đề “Nhà Văn Thế Phong (Đỗ Mạnh Tường) Chính Thức Khởi Kiện NXB VHTT Và Ông Nguyễn Q. Thắng”, ký tên NGUYỄN ĐÔNG PHƯƠNG. Anh ấy nhờ gởi đăng trên mạng. Con trai út tôi gửi đi, lấy địa chỉ e-mail của tôi nên ông bạn NVHóa trả lời rất nhanh; và lại gửi cho Bông Giấy qua C/C. Chỉ có vậy thôi, và “thế là thế đấy!”

    Hơn nữa do bởi web Giao Điểm được nhiều người đọc ở bên nhà nên đây là gợi ý từ tác giả bài báo trên yêu cầu.

    Thế Phong. 



    Thư của Thế Phong gửi Giao Điểm, forward cho TTBG.

    Sat, 26 Mar 2005 10:40:25 +0000

    Thân gửi ông nvh,

    1/ (...)

    2/ Tôi đề nghị Ban biên tập Giao Điểm không cần đăng bài "Nhà Văn Thế Phong (Đỗ Mạnh Tường) Chính Thức Khởi Kiện NXB/ VHTT Và Ông Nguyễn Q. Thắng,..." nữa. Tác giả bài báo ấy là do luật sư Nguyễn Đình Phùng ký.

    Khi ông (NVHóa) yêu cầu tôi gửi tiếp file bài báo ấy, thì đồng thời ông cũng forward thư cho nhà văn Trần Thị Bông Giấy, nên nhà văn phản ứng qua một thư điện tử gửi cho tôi rất quyết liệt. Và tôi nghĩ rằng chỉ vì một bài báo gửi đến nhờ đăng tải trên một website được bên nhà truy cập khá đông (theo gợi ý của tác giả bài báo –luật sư Nguyễn Đình Phùng- nhờ chuyển giùm) mà mất tình bè bạn, thì chẳng nên đăng làm gì? Có phải vậy không, ông bạn làm báo ở hải ngoại?

    THẾ PHONG

    (quận 1, Tp.HCM) 


    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, thứ bảy 27/5/05

    Anh Thế Phong thân,

    Cảm ơn anh đã forward thư anh gửi Giao Điểm đến cho BG. Càng cảm ơn hơn ở đoạn sau, anh DỨT KHOÁT chấp nhận một tình bạn (với BG) hơn là nhờ Giao Điểm phổ biến cùng độc giả bốn phương những hệ lụy anh đang mắc phải ở Việt Nam.

    Thực sự, mấy ngày qua, BG quá bận và quá chán chường mệt mỏi, nên không trả lời thư anh, chứ không phải giận hờn gì anh hết. (BG tuy nhỏ hơn anh rất nhiều tuổi, nhưng cũng là một người lớn, thì không còn tính cách giận hờn trẻ con nữa. Hoặc có hoặc không một sự giao thiệp chứ không là hờn giận. Nay chính anh đã “giải quyết” giùm BG một vấn đề đang làm BG khó chịu, nên cảm ơn anh nhiều lắm.

    Giờ đây nếu không nói rõ, anh cũng không hiểu câu chuyện về diễn đàn Giao Điểm và anh chàng Nguyễn Văn Hóa này với BG có liên hệ ra sao.

    Nguyễn Văn Hóa là một người bạn của Trần Nghi Hoàng. Khi BG bắt đầu đi vào đời TNHoàng thì anh ta (...)

    (Anh Thế Phong từng cho là BG rất đào hoa, nhưng không vì vậy mà BG thích những tình cảm vớ vẩn như thế.) (...)

    Cho đến tháng 9/2004 vừa qua, BG từ Việt Nam trở về, tâm tình u uẩn, đời sống xuống dốc, thì anh ta tìm đến thăm. Trong câu chuyện, Nguyễn Văn Hóa nhờ BG viết bài “quất”õ Vũ Thư Hiên và Nguyễn Gia Kiểng trên hai tác phẩm rất ồn ào dư luận của họ (Đêm Giữa Ban Ngày và Tổ Quốc Ăn Năn). Đang buồn chán, BG cũng muốn làm cái gì cho quên. Vì vậy sau khi nhận từ tay Nguyễn Văn Hóa hai cuốn sách rất dầy của Vũ Thư Hiên và Nguyễn Gia Kiểng, BG đã gò mình đọc thật kỹ từng câu từng chữ, và rồi, chỉ trong vòng chưa đầy một tuâàn lễ, hoàn thành hai bài viết rất dài vêà hai tác giả này; viết tới đâu, chuyển attachment bằng e-mail cho NVHóa đọc tới đó.

    Hai bài đăng lên (*) Giao Điểm, được độc giả nhiều nơi trên thế giới hâm mộ, NVHóa cùng nhóm Giao Điểm cũng rất hứng thú. Khi ấy ai cũng ngạc nhiên theo sự xuất hiện giang hồ của BG và nhất là thấy lần đầu tiên BG viết cho một diễn đàn khác không phải là Văn Uyển. Được thể, NVHóa đề nghị BG hợp tác với Giao Điểm, phụ trách hẳn Trang Văn Nghệ trên đó. BG từ chôái. Anh ta lại đề nghị, và đề nghị, lần nào BG cũng thối thác, đưa ra nhiều lý do, mà cái lý do lớn nhất là “KHÔNG MUỐÂN MẤT THÌ GIỜ VÀ TỰ DO TRÊN CHỮ NGHĨA RIÊNG”.

    Dưới đây là dẫn chứng cho anh thấy một trong những lá thư e-mail gửi anh ta, ngụ ý sự từ chối như sau:

    Sep. 23/2004

    Anh Hóa,

    Mấy chục năm, và gần nhất là từ mười năm qua, trong cuộc sống lẫn trên chữ nghĩa, tôi quen đi trên con đường Độc Lập và chấp nhận sự Cô Đơn. Độc Lập cũng có nghĩa là Tự Do. Vì vậy, tôi không muốn tự trói mình vào cái vòng ràng buộc của bất cứ ai và điều gì cả. Bây giờ, nếu “dính” vào Giao Điểm có nghĩa dính vào thị phi, là điều tôi không còn muốn nữa. Không muốn bận tâm tìm hiểu xem ai tốt ai xấu, ai sẽ chấp nhận và ai sẽ không chấp nhận mình trong nhóm Giao Điểm. Anh là một người làm chính trị (ít nhiều) bằng chữ nghĩa thì phải nên giữ cái tánh thận trọng. Chứ còn tôi, một cánh chim trời, sao lại phải thận trọng để khổ như vậy? Cuộc đời còn bao nhiêu năm sống để làm chuyện văn chương mà cứ phải bị quấn vào thị phi rối rắm? Quý tôi, anh có thấy rằng tôi sẽ bị mất dần Tự Do nếu bắt tay cùng Giao Điểm? Và như thế làm sao mà còn viết cho nổi?

    Tốt hơn hếu, nếu vẫn muốn có bài của tôi trên Giao Điểm thì anh ĐỪNG NÊN giới thiệu gì cả về tôi. Cứ làm như hai lần vừa rồi tôi viết cho anh hai bài “quất” Nguyễn Gia Kiểng và Vũ Thư Hiên. Hứng thú, tôi gửi bài Giao Điểm đăng. Bằng tôi mệt mỏi thì anh đăng bài người khác vậy. Các tác phẩm tôi cũng thế. Đừng lancer chúng làm gì, tôi thấy không cần thiết.

    Những lời trên là nói rất chân tình và thẳng thắn, không hàm chút gì buồn bã. Bởi vì tôi cảm tấm lòng anh đối với chuyện chữ nghĩa nên nhận lời gửi bài cho Giao Điểm chứ không hề muốn mượn diễn đàn Giao Điểm để tự phô trương mình, lại càng không muốn vì mình mà cá nhân anh bị các anh em khác trong Giao Điểm phiền trách. Điều này hình như mình đã từng nói với nhau rồi, phải không?

    Anh HIỂU được tâm tình từng người trong nhóm Giao Điểm, chứ tôi thì không, và chắc là cũng không muốn hiểu làm gì cho mệt trí. Để làm điều “không muốn bận tâm tìm hiểu đó”, cách hay hơn hết là không hợp tác với Giao Điểm thường xuyên mà thôi. Nhiều khi đứng xa xa mà còn lưu lại tình bạn để lâu lâu còn có dịp uống cốc café với nhau cũng tốt anh à. Anh đã biết chút ít về con người tôi, tính tình dứt khoát còn hơn cả đàn ông, nên xin hãy coi lá thư này như một sự cùng chia xẻ tư tưởng, chứ không là một sự thối thác trách nhiệm hay buồn phiền gì nhau.

    Thân, TTBG.


    Tuy nhiên, với tất cả mọi lý do BG đưa ra đều được Nguyễn Văn Hóa “hóa giải” đi băèng những “phủ dụ”, đại loại:

    “Chính vì BG một mình một cõi, không cần phải là người bệnh vực Giao Điểm mới hay. Biết đâu sau này chẳng có những người vào Giao Điểm chỉ để được đọc TTBG? ... Với trang Văn Nghệ dành riêng cho BG trên web Giao Điểm, BG có tự do tuyệt đối, có trí tuệ độc lập và ngời sáng để tự quyết định việc mình làm.” (Thư email 24/9/2004)

    “BG nếu thấy thích, cứ viết theo ý mình, muốn đăng những bài nào theo ý mình cũng được và đừng bao giờ nghĩ mình là ‘thành viên’ hay là người theo Giao Điểm, điều đó không cần thiết. (...) Nói tóm lại, BG có một tự do tuyệt đối và tư cách độc lập của riêng mình, không cần phải cùng lập trường với Giao Điểm hay với ai khác.” (Thư email 15/9/2004)

    “Lối viết rất dễ đi vào lòng người của BG không phải ai cũng đạt được. Tôi thấy uổng cho một tài năng nên có bổn phận phải phô trương tài năng đó ra ngoài độc giả...”, “Tôi hứa sẽ dành riêng cho BG một trang văn nghệ cá nhân, muốn đăng bài nào thì đăng không hề có sự kiểm duyệt đối với BG đâu.” (Thư Sep. 25/2005)

    Sau, nhiều bận nài nỉ, BG vẫn không nhận.

    Cho đến một hôm anh ta thành thâät:

    “Thú thật với BG, (...) Vì vậy, tôi rất mệt. Giá có BG hợp tác, tôi đỡ mệt hơn trong phần bài vở.”

    Chính vì câu nói này mà BG thấy tội nghiệp, nên nhận lời. Tuy nhiên BG có nói với anh ta:

    “Anh biết, ví như một người đàn bà khi muốn tái giá, điều kiện tiên quyết họ tự đặt ra là người đàn ông có thể bảo bọc vật chất cho con cái họ. Tôi cũng vậy. Trong đời sống, tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện lập gia đình lần nữa, nhưng hợp tác với Giao Điểm thì cũng cầm bằng như tôi và Giao Điểm đang gá nghĩa văn chương. Năm xưa, đi vào nghiệp viết, tôi chẳng hề được bất cứ ai hỗ trợ lancer cho mình, (ngay cả TNHoàng), và tôi cũng chẳng cần điều ấy. Nhưng ngày nay, nhận thấy con bé Âu Cơ có nhiều triển vọng văn chương, tôi là mẹ, không nâng đỡ nó thì tôi có lỗi với nó. Vì vậy, nếu bây giờ nhận gá nghĩa văn chương cùng Giao Điểm chẳng qua là vì mục đích muốn nhờ diễn đàn Giao Điểm tạo cơ hội và điều kiện viết lách cho con tôi, tập cho nó cái trách nhiệm trên chữ nghĩa và thói quen sáng tác đều đặn.”

    Quan điểm BG rõ ràng như thế. Đồng thời BG cũng muốn mượn diễn đàn Giao Điểm để đăng bài của anh em mình.

    Từ ấy, anh chàng tưởng rằng có quyền thân với BG hơn nên cứ rủ rê mời mọc đi ăn tối đi uống café, nhưng luôn luôn BG từ chối. (Một điều cần thiêát phải cho anh biết là trước và sau, NVHóa vẫn là “một người ĐANG CÓ VỢ!”BG “tội” cho vợ anh ta nên không muốn tạo cho anh ta cơ hội mang tư tưởng mờ ám, buồn lòng bà.’)

    Khi ấy Trần Mạnh Hảo bắt đầu làm quen với anh ta, gửi bài cho Giao Điểm. NVHóa forward tất cả thư của TMHảo cho BG đọc, và nói thẳng ra là tên này phách lối, nên muốn “mượn” tay BG để “đáp lễ” Trần Mạnh Hảo. Ra cái điều như trong nước có Trần Mạnh Hảo tưởng mình “ngon” thì ở hải ngoại này, cũng có TTBG! Những cái ý này, Nguyễn Văn Hóa đều tâm sự hết với BG.

    [Một điều cần cho anh rõ là thời gian ba tháng hợp tác Giao Điểm, BG cứ bị NVHóa “xúi đánh” người này người nọ, “đánh” tụi Gió-O và chị em bà Lê Thị Huệ, “đánh” ông Trần Nghi Hoàng vàø “bà vợ kênh kênh kiệu kiệu ra điều nhà văn lớn!” (lời NVHóa) của ổng, “đánh” bà Phạm Thị Hoài với cái diễn đàn Talawas của bả, “đánh” ông Nguyễn Văn Trung, “đánh” ông Lê Hữu Mục... tùm lum tà la hết. Tất cả mọi đề nghị, BG đều cười trừ, từ chối. Không phải sợ ai hay cái gì hết, nhưng BG tự hỏi, tại sao không chính NVHóa “đánh” mà lại mượn tay BG? BG đâu phải là kẻ đánh thuê. Khi viết bài vạch trần Nguyễn Gia Kiểng hay Vũ Thư Hiên chỉ là vì TỰ MÌNH THẤY PHẪN NỘ vì chữ nghĩa của hai ông ấy, chứ nào phải “quất”cho NVHóa hay lấy tiếng cho Giao Điểm. (Trong chuyện này, NVHóa CÓ CÔNG gợi ý và cho mượn sách đọc, đồng thời cho mượn cả diễn đàn để đăng. Sau này có lẽ thâáy XÀI BG không được như ý muốn nên TỰ Ý căét ngang trang Văn Nghệ TTBG chăng? Có lẽ thế!) Có lần BG hỏi NVHóa: “Sao anh không tự ý đánh các người đó?” Thì NVHóa đáp: “Cây bút BG mới đáng gờm!”.

    Cái trò gắp lửa bỏ tay người này của NVHóa, BG nhìn ra rất rõ. Vả lại, đọc Giao Điểm, thấy số độc giả qua mục trả lời thư tín, và nhâát là những tay viết trụ cội từ trước của Giao Điểm (bây giờ có thêm anh chàng Trần Mạnh Hảo từ trong nước gửi bài tới tấp) có tính tình còn “hăng nổ”quá (như nhiều lần BG nói với NVHóa); nên tự dưng thấy THƯƠNG cho chữ nghĩa mình, thương cho chữ nghĩa Âu Cơ, của em gái mình và luôn của bạn bè mình –những con người chân thành yêu mến chữ nghĩa- trên trang Văn Nghệ Giao Điểm. Từ ấy BG đã có ý muốn RÚT khỏi Giao Điểm.]

    Đùng một cái, tháng Dec 2004, sau ba tháng hợp tác, anh ta ngưng ngang xương trang văn nghệ do TTBG phụ trách mà không báo cho BG một tiếng. BG bị xốc nhưng không nói gì.

    Tháng 1/2005, Trần Mạnh Hảo gửi bài cho anh ta. Nguyễn Văn Hóa réo gọi bài “đáp lễ” của BG. BG lơ luôn không trả lời. Nhiều lần điện thoại cũng không bắt máy, cho đến khi bà cụ bắt máy, nói với anh ta câu “BG bảo với tôi cậu không đáng mặt là bạn văn chương của nó” thì anh ta bực mình lắm nên viết BG lá thư sau đây:


    Tue, 15 Feb 2005 19:05:44 +0000

    BG thân,

    Sau nhiều lần phone hỏi thăm và nhắn lại (hình như có email hai lần?) nhưng không thấy BG trả lời. Hôm nay may là tôi có được nói chuyện với bà cụ. Gặn hỏi bà cụ hoài, bà cụ mới tiết lộ sơ sơ cho biết BG không muốn liên lạc với tôi nữa vì nghĩ “tôi không xứng đáng làm bạn văn...”

    Nếu như vậy thì cho tới phút này, tôi chưa hiểu sự thật xuất phát từ đâu? Vì tôi ngưng upload bài vào tháng Jan 2005 này cho trang Văn Nghệ TTBG? Đó không phải là ý định từ tâm của tôi nên tôi không ngại. Nhưng trên phương diện hình thức, nếu BG nghĩ vậy thì lẽ ra nên thẳng thắn với tôi mới phải. Có những vấn đề tôi không muốn viết trên email, chỉ muốn gặp mặt nói riêng, bàn riêng thôi, nhưng tôi liên lạc BG hoài mà không được, biết làm sao?

    --Tôi tính lờ đi chuyện này, nhưng nghĩ lại với tư cách của một người quân tử, không được. Câu đó đối với tôi là nặng!

    --Như từ đầu đã cho BG thấy, tôi không lợi dụng BG, và để làm gì? Và dĩ nhiên BG cũng không thể lợi dụng tôi được. Tất cả là vì tấm lòng với nhau thôi. Nhưng trong thời gian qua tôi một thân một mình đương đầu với quá nhiều vấn đề, kể cả kẻ thù chửi bới, kể cả những người cộng tác với tôi từ đầu, hạ nhục chửi bới công khai trên diễn đàn. Vì những lý lẽ đó tôi không thể chịu chấp nhận làm theo những điều sai trái, nghịch với truyền thống báo chí của họ; trong khi không ai biết rằng tôi là một kẻ được đào tạo từ trường ốc báo chí đàng hoàng, nên không thể làm sai thiên chức nhà báo (không phải nhà văn!) được. Tôi cũng không muốn chia xẻ những điều đó với BG (xin lỗi nghe, dù BG có là vợ tôi đi nữa cũng không cần chia xẻ, nếu người vợ đó không phải là kẻ đồng hành, huống gì BG chỉ là người bạn!) Do đó có nhiều việc BG không biết hết, không hiểu hết. Dù sao đi nữa, đối với báo điện tử (website) không như báo giấy “bút sa gà chết”, báo điện tử có thể rút ra everything mình muốn, xóa bỏ tất cả chỉ trong vài phút, một giờ... làm việc thôi. Nên để làm đẹp lòng nhau, vơi đi những sự bực dọc vô lý mang đến cho mình, mình vẫn có nhiều giải pháp trước mắt, nếu tôi biết BG muốn, hay yêu cầu.

    -- Tôi có dự định viết một bài cho từ trong nhà ra ngoài ngõ hiểu: tại sao TTBG có mặt trên web Giao Điểm và tại sao sau này phải ngưng upload trang riêng văn nghệ (nhưng trong thực tế thì tôi sẽ post hết những bài đó chung với Giao Điểm theo kế hoạch riêng của mình). Nói tóm lại, chúng ta có giải pháp, chứ không phải đẩy nhau vào chuyện tồi tệ bất bằng không đáng.

    Thân mến, nvh

    Nhận thư xong, BG vẫn lơ.

    Cho đến khi nhận được bản forward của NVHóa (hai thư anh gửi NVHóa và NVHóa trả lời anh) như thể muôán nói với BG rằng: “BG không giao thiệp với tôi, nhưng Thêá Phong vâãn còn ‘đeo’ theo Giao Điêåm!’ (sau này mới biết tác giả lá thư là Luật sư Nguyễn Đình Phùng) thì BG nhận rõ ra cái quá dở, quá đàn-bà-tính của anh ta. Sự chán ghét trong lòng càng tăng nhiều hơn nữa.

    Trong một cuộc chuyện trò điện thoại với Phan Diên, nghe Phan Diên hỏi “Tình hình bài vở của BG trên Giao Điểm lúc này ra sao?”, BG đáp: “Anh chàng chủ nhiệm chơi không được. Trong một thư gửi BG, anh ta tự xưng mình ‘là người quân tử’, mà thật thì chỉ là một kẻ tiền hậu bâát nhất, chẳng trọng chữ Tín, lại ưa hành xử cái trò đòn xóc hai đầu, đâm bị thóc thọc bị gạo, không xứng đáng cho BG nghĩ tới nữa.”

    Rồi BG gửi e-mail cho NVHóa yêu cầu NGƯNG đăng tất cả những bài nào ký tên TTBG, Trần Nghi Âu Cơ, và Nguyễn Mỵ trên Giao Điểm. Vậy mà anh ta vẫn lì lợm gọi đến BG nhiều lần, và lần mới nhất là một lá thư e-mail như sau:


    Wed, 23 Mar 2005 05:55:08 +0000

    Bông Giấy thân,

    --Tôi đi Los Angeles dự đám tang mẹ của người bạn (bs Trần Tiễn Huyến) về nên hồi âm thư BG trễ. Đừng buồn nghe!

    --Vấn đề BG đề cập giữa tôi và chuyện web Giao Điểm, tôi nhận ra đang bước vào giai đoạn phiền muộn và nhức đầu rồi. Tôi xin nói ngắn gọn thế này cho BG hiểu: Vài thư trước tôi đã nói, xin nhắc lại: Tôi có lỗi nhiều với BG; nhưng trước khi tôi làm lỗi đó, tôi cũng đã nhận ra rằng, tôi đã có lỗi nặng với anh em Giao Điểm –vốn là những người trong tinh thần đã nguyện sống chết với nhau, chỉ vì cùng một luồng tư tưởng và suy nghĩ như nhau. Tôi đã làm một chuyện mà không thông báo trước, không đả thông cho anh em hiểu trước nội dung của câu chuyện, đến khi đưa trang Văn Nghệ của TTBG lên web Giao Điểm thì người ta đã thấy tôi có một sự đối xử “có phần đặc biệt kỳ lạ” với BG.

    Sự cư xử ấy đã qua mặt anh em, đã làm cho các anh em kia nghĩ tôi không biết chơi “fair”, không tử tế chút nào cả, dù cho cái nội dung trang văn nghệ ấy cũng chẳng có gì hại cho lý tưởng của Giao Điểm đang đi, hay dù cho tôi có quyền hạn riêng của mình!! Vậy, đến lúc tôi nhận ra mình vi phạm lỗi cả hai phía, thế thì tôi phải chọn một đường thôi –và tất nhiên tôi phải trả cái giá nào đó đối với BG. Tôi phải chấp nhận. (...)

    --Không biết nói gì thêm nữa vì có lẽ trở nên vô ích và thừa thải. Nếu như có dịp gặp nhau, hay rủ nhau đi chơi, uống một ly café, uống một cốc rượu vang nhỏ, nhìn nhau chút xíu, nói với nhau vài lời, thì chắc là nhẹ nhàng hơn.

    Tôi mới nhận được hai bài viết của Trần Mạnh Hảo, trong đó có lá thư gửi “nhà văn lớn” Trần Nghi Hoàng và một bài phỏng vấn “Nhà văn lớn phu nhân TNHoàng” do website của nhà văn lớn Lê Thị Huệ giới thiệu, để nếu BG có thì giờ, đọc cho vui. Nếu không thích thì cứ xoá bỏ. Không sao cả.

    Chúc BG bình an, tinh thần nhẹ nhàng và cố gắng mệt nhọc thân xác một chút cho đời sống.

    Rất nhớ. NVH

    (Lá thư mà NVHóa đề cập ở trên, nội dung Trần Mạnh Hảo viết chửi TNHoàng rất nặng, gọi TNH là tên vô học... Giao Điểm đang chuẩn bị đăng. Nhưng lá thư này với lời lẽ dùng cũng “rất vô học”, BG bảo với Phan Diên, chính tự Trần Mạnh Hảo đã kết thúc cuộc đời văn nghiệp của anh ta! BG không đọc bài phỏng vấn vợ TNHoàng, xóa đi ngay cả hai bài, và cũng không trả lời anh chàng Hóa. Chỉ nhờ bà cụ nói với anh ta nếu có dịp rằng: “Từ đây xin TUYỆT ĐỐI đừng đem RÁC đến nhà BG nữa!”)

    *



    Anh Thế Phong thân,

    Hôm nay BG rất cám ơn anh trong việc đã chuyển thư anh gửi Giao Điểm cho BG, để anh ta biết rằng mọi chuyện giữa anh em mình, anh ta không thể chơi cái trò chia rẽ được. Giới văn chương hải ngoại nói chung và Giao Điểm nói riêng không hề biết rằng BG rất chán ghét chuyện phải lăn mình vào cái CHỢ dơ dáy của họ. Vì vậy, lánh xa được chừng nào mừng chừng đó! Điểm tệ hơn cả của anh chàng Hóa này là anh ta còn nông cạn quá không thể nào hiểu được con người BG nên cứ tưởng BG giận hờn vì anh ta đã không đăng bài BG!?

    Một đời, BG vẫn là kẻ rất TRỌNG lời hứa, nên cám ơn anh ta không hết ở cái việc đã rút lại giùm cho BG lời hứa nhận lời viết cho Giao Điểm đến “chừng nào Giao Điểm còn chỉ một độc giả thì tôi còn hợp tác với Giao Điểm.”

    Thật sự đọc Giao Điểm cũng như các diễn đàn văn chương khác ở hải ngoại và trong nước, BG thấy rõ đó không phải là văn chương, mà chỉ là những cái chợ bán toàn cá tôm tanh tưởi chứ không mấy ai muốn bán các cành hoa đẹp! (như chữ dùng của NVHóa khi “xúi” BG viết bài “quất” Tổ Quốc Ăn Năn của Nguyễn Gia Kiểng). Nên từ lâu và hơn bao giờ hết là ngay bây giờ, BG không hề có ý muốn mở riêng cho mình một website.

    Anh chàng Hóa này không biết TTBG là ai, cứ tưởng BG háo danh lắm. Anh ta không đủ lực để đứng đầu gió, nên mới chỉ bị anh em trong Giao Điểm phàn nàn về trường hợp TTBG là đã vội chối bỏ BG. Vậy đã chối bỏ, cớ sao lại cứ còn muốn van xin níu kéo?

    Thế mới hay, một khi BG đã quay lưng thì chỉ có Trời mới cản được. Anh ta không biết điều đó. Cũng câu chuyện chọn lựa này mà làm BG nhớ đến chuyện anh Phùng Kim Ngọc năm xưa.

    Năm xưa, khi anh Ngọc bị nguyên ban nhạc làm eo vì ghét BG, cái rụp họ xin nghỉ việc hết trong khi mùa Noel và mùa Tết đang đến, với ý đồ đẩy BG ra đi, thì anh Ngọc đã phản ứng ngay: “Tôi thà chọn một mình Thu Vân chứ không chọn nguyên ban nhạc.” Và anh quay sang nói cùng chị tài pán buổi đó: “Tôi nói điều ấy không chỉ hàm cái ý tình cảm của tôi dành cho Thu Vân thôi, mà trên hết là theo cái nhìn nghề nghiệp. Hải thấy, trong số các nhạc sĩ ở Duy Tân, ai sáng giá cho bằng Thu Vân?”

    Đó mới chính là cái nhìn của một leader có tài. Và vì như thế mà BG mới bằng lòng ở lại với anh Ngọc trong thời gian di tản 1975. Trong đời, không dễ gì tìm thấy được người cho mình quy hàng, nể phục xứng vai minh chủ.

    Còn anh chàng NVHóa này, tâm thì nhỏ mà mộng thì to, làm sao đủ lực để đứng đầu gió cho nổi. Mới chỉ bị một bà độc giả nào đó gửi đến hộp thư Giao Điểm lá thư ngắn, gọi anh ta là “hèn nhát”, đã vội cuống người, giận cá chém thớt, bèn “chặt phăng” trang Văn Nghệ Giao Điểm cho rảnh mắt!

    Nghĩ về anh ta, BG chỉ thấy tội nghiệp chứ hoàn toàn không chút nào quý trọng. Khi BG chưa nhận lời phụ trách trang Văn Nghệ Giao Điểm thì anh ta hứa hẹn đủ điều. Nhận xong, anh ta bắt bẻ từng chút điều kiện: “Không được đăng bất cứ bài nào có liên quan đến Trần Nghi Hoàng, dù chỉ là một bài thơ ..v.v. và v.v..” (Anh ta rất ganh tị với TNHoàng nên khi tụi này còn ở với nhau thì NVHóa vẫn cứ hay đến kể xấu những chuyện TNHoàng đã làm trước khi gặp BG, cho bà cụ nghe. Khi xuất bản MTDKCT tập I, anh ta đọc, thích lắm, buổi ra mắt sách, lên phát biểu những lời rất nồng nhiệt về tác phẩm. Rồi có lần sau đó, nói với TNHoàng: “Tôi chơi với hai ông bà từ thuở BG mới ở bên Tây qua, vậy mà trong tác phẩm, không thấy BG viết gì đến tôi cả.” TNHoàng chuyển lời, BG đáp: “Viết gì bây giờ? Chẳng lẽ viết về những chuyện anh ta hay chửi xấu bố với bà già sao?”)

    Anh Thế Phong à,

    “Ở trên BG dùng chữ ‘tâm nhỏ’ cho Nguyễn Văn Hóa không phải là vô lý đâu. Chứng minh thế này:

    Dạo tháng 10/2004, BG đổi hãng điện thoại mới nên không biết cách gắn đường dây Internet vào máy. (Anh biết, về mặt computer, BG rất dốt). NVHóa gọi qua giục bài ‘đáp lễ” Trần Mạnh Hảo. BG bèn nhờ anh ta đến gắn giùm hệ thống internet vào laptop để chuyển bài. Thêá là một sáng chủ nhất, NVHóa đến, mặt hầm hầm, vừa bước chân vào nhà là mắng ngay: “BG phải biết tôi rất bận mà nghe BG gọi, phải bỏ hết việc để đến!”

    BG đáp: “Bởi vì anh gào bài nên tôi mới nhờ anh giúp. Nếu không cần thì thôi, tôi chẳng dám phiền anh .”

    Có lẽ mắc cỡ vì tự thấy mình vô lý trong việc hầm hầm với BG, anh ta chẳng nói chẳng rằng, bắt đầu làm việc trên computer. Nhưng nào BG được yên. Đang dạy học trò lại phải bỏ lớp, lái xe đi mua ngay cho anh ta cái ‘hub’ để gắn vào máy. Cầm cái giấy anh ta ghi, ra hỏi nhân viên tiệm bán máy thì người ta bảo loại hub mang tên này (Intel) này đã quá lỗi thời nên còn không sản xuất. Họ đề nghị lấy loại mới.

    Đem hub về, BG bị NVHóa lớn lối càu nhàu:

    “Tôi bảo mua cái gì thì cứ theo cái đó mà mua.”

    BG bực lắm vì thái độ trịch thượng của anh ta, nhưng ráng nhịn, nhỏ nhẹ nói: “Đâu phải tôi tiếc tiền không mua cái anh dặn, bằng chứng là cái này giá cao gấp hai cái kia mà. Nhưng bởi vì ở tiệm không còn hiệu đó, tôi biết làm sao?”

    NVHóa bèn đi ra xe, lấy vào một cái hub cũ, đưa BG xem và nói: “Cái này dư dùng, BG trả tôi 20 đồng, tôi để lại cho mà gắn vào máy.”

    Nhìn mặt anh ta thấy hoàn toàn lãnh đạm, nên đoán rằng câu vừa thốt không phải là một lời nói giỡn, tự nhiên BG nghe rất ngượng. Vào xin bà cụ 20 đồng, đem ra đưa, anh ta cầm lấy nhét vào túi tỉnh bơ.

    Ởâ trên BG dùng chữ ngượng, có lẽ anh Thế Phong cũng hiểu. Ngượng đây là ngượng cho anh ta, chủ nhiệm một diễn đàn chữ nghĩa cũng bề thế như ai! Giá anh ta chỉ là tay buôn bán bình thường, tính toán từng đồng xu cắc bạc, BG sẽ không bao giờ ngượng.

    Buổi chiều, kể cho bà cụ nghe chuyện, bà cụ kêu lên: “Câäu này tâm tính chật hẹp quá. Mấy cái bài Vũ Thư Hiên & Nguyễn Gia Kiểng, con thức đêm thức hôm, bỏ ăn bỏ ngủ mà viết, giá trị bằng vạn lần cái hub 20 đồng, cậu ta nào có biết.”

    BG bào chữa cho NVHóa:

    Con không có ý muốn nói đến những cái gì con đã làm, mà chỉ thấy tiếc giùm những cái gì anh ta đã làm. Ví dụ như chuyện ráp đường giây internet vào computer, nếu tính công thì đâu phải ít. Điều đó cho thấy anh ta là người chỉ nghĩ đến cái nhỏ mà bỏ quên cái lớn. Vậy làm sao đòi làm chuyện lớn như đường lối vĩ đại ‘xây dựng con người và đất nước’ anh ta đặt ra cho Giao Điểm mấy năm qua.

    Hơn nữa, ở đây cho thấy sự ‘không biết nhìn người’ trong anh ta. Giao thiệp với con, ít nhiều NVHóa phải biết cái tánh con là không hề muốn lợi dụng ai. Đừng nói 20, mà 200, hay 2000 dollars con cũng sẵn sàng bỏ ra cho một mục đích cần thiết, có lý nào lại muốn nhận của anh ta 20 đồng mà không đòi trả cách này cách khác. Tuy nhiên, hành động ‘đòi tiền’ của anh ta làm con chưng hửng. Với bản chất chật hẹp như thế, làm sao mua được người tài? Ngày xưa Thái tử Yên Đan muốn dùng Kinh Kha, đã hết lòng chiều đãi Kinh Kha. Khi Kinh Kha chỉ lên tiếng khen bàn tay đẹp của môät cung nữ, tức thì ngày hôm sau Thái Tử Yên Đan đã cho người bưng mâm đến dâng lên Kinh Kha bàn tay đứt lìa của cô cung nữ kia.”

    Từ ấy, BG đã có ý muốn bỏ Giao Điểm mà chưa biết cách nào vì lỡ vướng vào lời hứa “Còn một độc giả, tôi còn viết cho Giao Điểm”. May thay, chính anh ta là người gỡ cho BG chuyện đó, nguyên nhân chắc hẳn cũng không ra ngoài cái tâm và cái nhìn chật hẹp của anh ta. (...) Chứ còn, BG không tin là có sự phản đối của anh em Giao Điểm, bởi cũng đã từng nhận thư của những người trong Giao Điểm ngợi khen bài viết Tổ Quốc Ăn Năn do anh ta chuyển sang. Đưa lý do anh em phản đối sự hiện diện của TTBG trên Giao Điểm chỉ là một lối giải thích của RIÊNG Nguyễn Văn Hóa để tự che giấu cái tâm chật hẹp chứ sự thâät chưa hẳn là như thế đâu.”

    Bữa xảy ra chuyện cái hub như BG vừa kể, bà cụ BG nghe xong, kết luận: “Mua danh ba vạn bán danh ba đồng là như vậy. Hạng người đó con không nên giao thiệp.”

    *



    Anh Thế Phong thân,

    Đôi khi nghĩ về con đường văn nghiệp của mình quá ư sóng gió và cô đơn, BG chỉ biết tự nhủ bằng câu: “Kiếp này thôi đã lỡ, đành chờ tái tạo mọi thứ ở kiếp sau!”

    Riêng với anh, BG chỉ đáng hàng hậu bối mà được anh cư xử như người bạn thì cũng là một hân hạnh lớn cho BG. Nhưng không phải quý anh vì anh nổi tiếng, mà chính vì anh là anh Thế Phong, một nhà văn cô đơn trong giới văn chương Việt Nam, điều có phần trùng giống với sự cô đơn BG cưu mang hơn mười năm qua ở hải ngoại. Sự cô đơn đó xuất phát từ cái tâm thẳng thắn lương thiện của mình. Những mùa hè vừa qua ở Việt Nam, càng có nhiều điều từ anh đã khiến BG quý trọng anh hơn. BG tuy nhỏ hơn anh nhiều tuổi, nhưng không phải không đủ trí thông minh để nhận định con người cho đúng đắn. Trong giới văn nghệ, có đốt đuốc đi giữa ban ngày cũng không chắc gì tìm ra được một tâm hồn lương thiện. Anh là một trong số người hiếm hoi ấy dưới mắt BG.

    BG hiện đang rất bận, làm việc liền tù tì, ăn ngủ gần như không có, nhưng trong óc lúc nào cũng suy nghĩ các điều cần phải viết. Mỗi ngày làm việc, được một giờ break lại dùng vào việc ghi chép vào nhật ký những cái gì nhận xét chung quanh đời sống như một hình thức để dành tài liệu cho những tác phẩm mai sau. BG dự định sẽ viết một bài về riêng anh, như một kỷ niệm lưu lại về một người bạn văn chương mình rất quý trọng, và sẽ gửi cho anh đọc.(...)

    Thôi BG tạm ngưng. Mong tất cả những gì khúc mắc giữa anh em mình theo cái anh chàng NVHóa Giao Điểm kia sẽ được anh bỏ qua hết cho BG. Thân ái, TTBG



    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, April 10/2005

    Anh Thế Phong ơi,

    Đến lúc nào thì cái chất “thép” trong con người BG cũng phải tan đi theo những nỗi cơ cực mà thôi. Nhưng, phải ráng và ráng hết sức vì sự sống của những người thân và sự sống của luôn các đứa con tinh thần của mình. BG gửi kèm theo đây vài đoạn thư của bạn bè và độc giả, anh đọc cho vui. Trần Công Lân là một tay viết rất bén về chính trị, xã luận, ngày trước từng là một trong những staff writer của tờ Văn Uyển, hiện là kỹ sư, đang ở Virginia. Lưu Nhơn Nghĩa và Nguyễn Hy Minh, Lâm Vĩnh Thế, Hoàng Ngọc Nguyên là những độc giả. Những thư loại này, BG nhận rất nhiều. Có lắm thư đọc rất thú vị, mang đầy tính văn chương. Âu đó cũng là một an ủi lớn cho cuộc đời viết lách hẩm hiu của BG anh nhỉ?

    TTBG 



    Thư Trần Công Lân (Virginia)

    VA, May 29/2004

    Chị Bông Giấy thân mến,

    Rất xúc động khi đọc thư chị gửi Phan Ánh Hồng về cuốn River of Time. Mấy tuần trước có nói chuyện với Phan Ánh Hồng về việc chị ra tác phẩm mới, Con Tằm Đến Thác Vâãn Còn Vương Tơ. Biết rằng chị gặp rất nhiều khó khăn nhưng cũng không thêå hình dung được những sự kiện như chị đã viết trong sách.

    Gần đây, em đọc khá nhiều sách luận về Phật Giáo, cả Anh lẫn Việt ngữ. Và em tin vào định mệnh (nghiệp). Đây không phải định mệnh kiểu mấy ông bà già dọa con nít mà là dựa trên những kiến giải mới nhất khi Phật giáo Tây Tạng gặp gỡ khoa học Tây Phương.

    Chị, Phan Ánh Hồng và em có những con đường định mệnh khác nhau. Trên con đường của môãi cái “tôi đi”, chúng ta đã gặp nhau. Bởi là nghiêäp dĩ nên môãi người phải gánh, nhưng chúng ta vẫn có thể chia xẻ với nhau.

    Em ở VA được chứng kiến rất nhiêàu nhà văn “RẤT LỚN” thường xuyên ghé thủ đô Hoa Kỳ để ra mắt các tác phẩm, các công trình văn học “vĩ đại”. (Chẳng hạn như ông Võ Đình và các nhà văn học Việt Nam ở Pháp vừa ghé DC để thảo luận vêà tương lai Văn Học Việt Nam ở hải ngoại và tương lai tiếng Việt). Mặt khác, các tổ chức hội đoàn chính trị vẫn kiên trì “hục hặc và loay hoay” để chống Cộng mỗi năm một lần vào ngày 30/4. Gần 30 năm ở Hoa Kỳ, chúng ta chưa để lọt chút gì vào tai mắt của giòng sinh hoạt chính trên đất nước này. Những cuộc ra- vào Capitol Hill giống như lũ hề giúp vui cho tuồng dân chủ ở Hoa Kỳ.

    Ai cũng bực mình Madame Lệ Lý với Heaven and Earth nhưng không ai làm gì cả! Kể luôn các nhà văn “RẤT LỚN” như Nguyêãn Mộng Giác, Võ Phiến... Họ cố gắng “do something” để văn học Việt Nam được “đế quốc” để ý và giúp đỡ họ đi vào lịch sử. Tiếc thay “nghiêäp dĩ” đã không cho họ thực hiện mơ ước.

    Con đường của chị, dù chông gai đến đâu, cũng phải nhận thấy rằng có những đặc ân dành riêng cho chị. River of Time (NCQC) đã được người Mỹ nhìn ra rất sớm, nhưng với tính khiêm nhường của người Á Đông thì có lẽ rất lâu mới thấm vào tai mắt của người Việt Nam.

    Nhưng với niềm tin vững chắc và mục đích phục vụ con người, đất nước và dân tộc Việt Nam mà không vì cá nhân, chúng ta sẽ phải tiếp tục, vì như chị đã nói, kiếp này trả không xong thì kiếp sau cũng tiếp tục trả mà thôi.

    Ít nhất, bây giờ, trong tay em cũng có một cuốn sách viết về Việt Nam bằng Anh ngữ đủ tín nhiệm để giới thiệu với các bạn Hoa Kỳ và giới trẻ “không biết tiếng Việt” muốn biết về Việt Nam.

    Cám ơn chị Bông Giấy. Cho em gửi lời thăm Âu Cơ.

    Trần Công Lân, VA.



    Thư của anh Lưu Nhơn Nghĩa, (độc giả ở Uùc).

    Sep. 25/2004 (9:04:44 PM)

    Chị Bông Giấy thân,

    Mừng chị và cháu Âu Cơ đã chọn đúng thế đứng của đời văn nghiệp, nhất là Âu Cơ, chịu khó nối tiếp thế hệ mình. Bao nhiêu khó khăn đang chờ trước mắt, trước kia, chị là cái bia của nhóm nghệ sĩ “đỉnh cao trí tuệ”, bây giờ chị sẽ là cái bia cho nhóm chính trị cũng thuộc nhóm “siêu trí tuệ”. Tôi khâm phục chị dám đứng ra với nhóm Giao Điểm, xem những khó khăn trước mắt có quật ngã chị nổi không.

    Thân, Lưu Nhơn Nghĩa.



    27/9/2004 (2:55 AM)

    Chị BG cùng nhóm anh chị Giao Điểm thân mến,

    Thấy anh chị cùng hy sinh đóng góp việc quảng bá xây dựng chữ nghĩa, đường hướng mới mẻ, rất dễ gây shock cho quần chúng, vì quần chúng đã quen với lối suy nghĩ từ thời Trung Cổ, cá nhân tôi rất cảm phục.

    Nhớ năm 1987, cuốn VN Máu Lửa Quê Hương Tôi của tác giả Hoành Linh không ai dám đọc, sợ “gây chia rẽ Tôn giáo”, lúc đó là thời của những nhóm có độc quyền múa may chống Cộng, được mọi người xem là thời thượng, một cái “mode politique”, chụp mũ. Hát mãi cũng nhàm, nghe riết cũng chán. Cuốn VNMLQHT bỗng trở thành phản ứng ngược. Bây giờ thì rõ ràng quá rồi. Cũng vậy, các anh chị dần dần sẽ được người có trình độ hiểu.

    Chị Bông Giấy là người duy nhất, can đảm, hay “điên điên” mới dám phơi bày cái thế giới elite bất khả xâm phạm trong gần 50 năm qua. Cái thế giới ấy được rất nhiều văn nghệ sĩ xem là đặc quyền của họ vì họ nắm cơ quan truyền thông, với cây viết trên tay, tha hồ cả vú lấp miệng em. Tôi nhớ cụ Nguyễn Hiến Lê khi bình về Mai Thảo chỉ nói nhẹ nhàng: “Văn Mai Thảo làm dáng!” Vậy mà chị Bông Giấy dám hạ luôn cả “thiên tài Phạm Duy”, một cái bóng trùm thiên hạ từ 1945 đến giờ.

    Chúng tôi ở xa, không có tài năng, nhưng cũng xin đóng góp quảng bá tư tưởng mới của quý anh chị. Còn liên lạc với quý anh chị nhiều.

    Nghĩa (Australia).



    Thư của anh Lâm Vĩnh Thế

    (độc giả ở Toronto, Canada)

    Wed 13 Oct 2004

    Thưa chị Trần Thị Bông Giấy,

    Đọc xong bài viết chị phê bình cuốn Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên, đăng trên Giao Điểm, tôi tự thấy không cưỡng lại được, phải viết thư này cho chị. Thật sự tôi không biết tòa soạn có chuyển e-mail này đến chị không, và cũng không biết là nếu nhận được e-mail, chị có chịu khó trả lời cho tôi không, nhưng tôi vẫn cứ viết. Chị có biết tại sao? Tại vì tôi muốn cảm ơn chị đã làm một chuyện mà tôi cũng muốn làm từ lâu nhưng không được vì hai lý do chính:

    1/ Tôi không cách nào đọc cho hết cuốn Đêm Giữa Ban Ngày bởi đọc “không nổi.” (Chị đừng nghĩ là tôi đã mua nó, không đâu, một người bạn thân ở Mỹ gửi qua biếu tôi. Chắc là anh âáy cũng đọc không hết nổi như tôi!)

    2/ Thật sự tôi không có thì giờ –và chắc cũng không có khả năng luôn- để viết cho đàng hoàng kiểu như chị đã làm bài điểm sách đó.

    Tôi thật lòng cảm ơn chị và rất mong nhận được hồi âm của chị.

    Lâm Vĩnh Thế

     Canada.


    Oct. 15/2004

    Chị Bông Giấy,

    Phải thành thật (với chính bản thân tôi) để nói rằng tôi rất cảm phục chị, không phải mới đây, sau khi đã trao đổi e-mail với chị, mà từ khá lâu rồi, sau khi đọc bài của chị viết về Phạm Duy. Chị biết không, từ lâu, rất lâu, trước cả 30/4/1975, tôi đã từng nói với bà xã tôi: nghe nhạc Phạm Duy thì OK quá, nhưng NHÌN THẤY và NGHE ông ấy nói chuyện thì MẤT HẾT CẢM TÌNH với cá nhân ông ấy. Nhận xét của tôi hồi còn ở trong nước và trước 75 mà đã là như vậy, thì nói gì đến vào năm 2000 ở hải ngoại, khi ông ấy được ca tụng, đánh bóng quá xá. Nhưng mà thôi, ông bà mình nói “có tài có tật” phải không chị?

    Chị là người DUY NHẤT đã dám viết về Phạm Duy như vậy thì có khen chị can đảm cũng chỉ là thừa. Tôi chỉ muốn nói rằng, tôi nghĩ chị là một người cầm bút TRUNG THỰC, dám nói ra những gì mình nghĩ và cảm nhận.

    (...)

    Chúc chị và gia đình một cuối tuần vui vẻ.

    Lâm Vĩnh Thế



    Thư của anh Hoàng Ngọc Nguyên (độc giả ở Utah).

    Utah, May 4/2005

    Thưa chị BG,

    Tôi xin tự giới thiệu là Hoàng Ngọc Nguyên, hiện ở Salt Lake City, làm việc tại thư viện của trường UOU. Vì tò mò, thỉnh thoảng tôi vẫn đọc Giao Điểm nhưng chỉ thực sự impressed với duy nhất một bút hiệu của chị, lý do đơn giản là trong những năm dài đảo điên ở Sàigòn đó, tôi là người tự nguyện rơi rớt lại, nên rất thấm những điều chị viết.

    Tôi có biết và có đọc một số nhà văn nữ, nhưng phần lớn cảm hứng của họ là vay mượn, không sống thực và hay cường điệu những “kinh nghiệm hư vô” của mình.

    Riêng một số trích đoạn các tác phẩm của chị đăng trong Giao Điểm, tôi thấy rất thích thú với tính cách mạnh mẽ cùng những u uất lắng đọng trong cả văn phong lẫn nội dung những mẩu chuyện chị đã kể ra. Tôi cũng thích hai bài viết về Nguyễn Gia Kiểng và Vũ Thư Hiên. (Tôi từng làm việc chung với NGKiểng ở Bộ Kinh Tế hồi 30/4/1975); còn Vũ Thư Hiên (tôi người Quảng Trị, không chịu được sự điếu đóm của một số người Bắc Kỳ).

    Vài hàng xin hỏi thăm chị, những tác phẩm của chị làm sao mà mua được? Chỉ vậy thôi, không dám làm phiền sự yên tĩnh của chị.

    (...)

    Chị BG

    Sáng nay đọc bài viết của chị, đọc lại bài Sức Mạnh Của Sự Cô Đơn của cháu Âu Cơ (vì tôi đã đọc trên Giao Điểm rồi), và cùng lúc nghe bài Xóm Đêm mà ban hợp ca Thăng Long hát cũng đã hơn ba mươi năm qua, tôi bỗng cảm thấy như Nguyễn Tất Nhiên “đau lòng tôi muốn khóc”.

    Ông Trời vẫn chọn lọc một số người để dành cho những thử thách rất siêu nhiên, may thay (để ta thấy mình hơn người) hay chẳng may thay (vì nỗi chịu đựng này chỉ thực sự một mình ta biết) mà mình lại được chọn vào cái elite đó. Những truyện Tâm Bút của chị đọc mà nghe đến rợn tóc gáy cho sự cô đơn của con người trước những thử thách của Định Mệnh. Chuyện thì thực, không khí thì huyền hoặc, người đọc rất căng thẳng. I love the style.

    Tôi không thuộc giới văn chương văn nghệ. (...)

    Đại khái là background tôi lung tung; và cũng như chị, tôi vẫn tìm cách survive, vẫn có một niềm tự hào vô song về mình, và vẫn rất cô đơn bởi vì sự tuyệt vọng đi tìm một cái gì đó đã mất (À la recherche du Temps perdu...). Có lẽ mất ở Quảng Trị, mất ở Huế, mất ở Dalat, mất ở Sàigòn.

    Bài thơ Như Tiếng Thở Dài của chị cũng làm cho tôi sợ. Có cảm tưởng mình đang racing against time. Chị ít nhất còn cho chào đời được các tác phẩm. Tôi thì chỉ có những bài viết đóng bụi. Lịch sử được làm nên bởi con người, nhưng lịch sử cũng rất nhiều khi quay lưng với con người.

    Viết cho người khác và nghe người khác nói đều có thể có tác dụng làm cho cuộc sống bỗng dưng có một chút nắng.

    Chúc chị và cháu một ngày cuối tuần vui.

    Hoàng Ngọc Nguyên.



    Thư của Nguyễn Hy Minh (độc giả ở San Diego)

    TTtgb@aol.com wrote:

    "San Jose, 24/9/2004 (7:28 PM)

    Thưa chị Hy Minh, Cám ơn chị đã có lời khen văn chương BG...


    Nì, O Bông Giấy! Đọc cái e-mail của O mà đâm ra sửng sốt. Úi chao! Chứ O kêu tui chi cái tên cắc cớ ri hè? Nguyễn tui, tự Hy Minh là đấng trượng phu mà cớ sao Thuyền Quyên bên nớ lại kêu là ả này ả nọ?

    O Bông Giấy,

    Đọc Nước Chảy Qua Cầu của O bỗng thấy thân nam nhi của tui phải đối diện lại với những đau thương quá khứ. Đúng là thế hệ chúng tôi đã có trách nhiệm với các O (trong đó có cả O Bông Giấy) bỗng một buổi sáng ngủ dậy thấy mình bỏ dở bao mộng đẹp của tuổi 20 để dập vùi theo những đổi thay của vận nước. Nghĩ lại, mình cũng đã làm tròn mộng “Thét voi cửa Vị...” cho đến giờ cuối nhưng vẫn là một kẻ thua trận thì còn biết nói năng chi ngoài một lời tạ tội với các O?

    Mặt khác, O Bông Giấy cho tui xin lý giải đôi lời. Tài hoa mệnh bạc ví chăng cũng là cái thú đau thương tự chọn mà hẳn trên đời dễ đã có được mấy người như O. Cho nên nếu ngày xưa đó Kinh Kha không vì vận nước mà tóc dựng ngược lên, bước qua sông Dịch “Tử địa biệt Yên Đan, Tráng sĩ phát xung quan...” thì bất quá Kinh Kha cũng chỉ là đứa thất phu nào có hơn gì Hy Minh tui? Cũng vậy, nếu Vương Chiêu Quân tài hoa ngày xưa không bị cống Hồ thì bất quá cũng chỉ là một cung nữ chết già trong chốn thâm cung, còn đâu khúc Thu Phong Oán “Thu mục thê thê, kỳ diệp huy hoàng...” cho ngàn sau còn tiếc nàng Lạc Nhạn? Hay Ngọc Hân Công Chúa...

    Thế nên, nếu ngày xa xưa đó bỗng có một Hoàng Tử si tình cắc cớ đến ẳm được O Bông Giấy trong tuổi mộng mơ, rồi sau đó khiêng ra nước ngoài sống cuộc sống như mọi cuộc sống êm đềm nhưng ít thi vị khác thì há chăng nàng Bông Giấy đã được là chứng nhân của tang thương lịch sử? Há chăng nàng Bông Giấy có nhiều chất liệu sống động trong cuộc đời để trở thành nhà văn nữ của hôm nay mà người đời sau còn nghe những tự tình? Thì phải chăng trong nỗi than oán vẫn nghe như ai đó có cái thú đau thương đầy sung sướng ẩn giấu? Thì phải chăng trong bất hạnh cũng có cái đại hạnh hiếm hoi?

    Bỗng nhiên tức cảnh sinh tình rồi dám lẻo mép với một nhà văn thì quả là múa rìu qua mắt thợ?

    Xin đại thứ, đại thứ!

    Hy Minh, một độc giả.



    Nhận thư Thế Phong.

    July 26/2005

    Thân gửi Bông Giấy,

    1/ (...)

    2/ Sáng nay trong buổi điểm tâm tại Tân Định, đọc cho Lê Duyên và Hoàng Vũ Đông Sơn nghe bài BG viết về bác Lê Ngộ Châu, mọi người đều khen BG viết “độc”. Lê Duyên nói: “BG viếát rất hay, có quan điểm, lời văn sâu sắc, hay hơn cả VC là khác!” (câu này nên phổ biến hẹp). Còn HVĐSơn thì nhắc lại lời của Tạ Tỵ nói về BG hai ngày trước khi chết (nói không ra hơi): “BG viết ác lắm!” rồi mới chịu qua đời!... (chữ “Ác” của Tạ Tỵ dùng là “Ác liệt” chứ không là độc ác, hung ác.)

    3/ Sao BG viết nhanh đến vậy được nhỉ? Nhanh mà lại rất interesting mới đáng nói nữa chứ. Nhưng cứ vẫn nên làm việc có điều độ.

    Thế Phong.



    Thư gửi Thế Phong.

    Cali, July 27/2005

    Anh Thế Phong ơi,

    1/ Thức dậy nửa khuya (3 giờ sáng như thường lệ), đọc các thư mới nhất anh gửi. Cái thư sau cùng (như đã nêu trên), đoạn anh Đông Sơn kể về bác Tạ Tỵ làm BG xúc động và bần thần ghê gớm. Bỗng dưng thấy thật áy náy như một mặc cảm tội lỗi, nên đi lục hết các lá thư bác đã từng gửi ra xem lại. Nhìn nét chữ đẹp nắn nót mà gẫy gọn cứng cáp của bác, BG cảm nghe lòng chùng xuống thật nhiều.

    Thời gian bác Tạ Tỵ gần chết, BG cũng đang có mặt tại VN mà không hay biết gì về điều ấy cả. Có lẽ vì đã lâu không liên lạc bác, dạo bác còn ở Mỹ, nên không biết rằng bác đã về ở hẳn trong VN. Anh nhờ anh Đông Sơn nói rõ lại cho BG nghe câu chuyện thế nào trong lần gặp cuối với bác, TẠI SAO lại nhắc đến tên BG? BG rất cần chi tiết này để bổ sung vào bài viết về bác Tạ Tỵ (sẽ gửi anh đọc luôn).

    2/ (...) Cái lối viết tắt của anh thường làm BG đoán mò đến hụt hơi gần chết. Vì vậy mà trong các tác phẩm, đề cập tên người nào, BG không bao giờ viết tắt vì không muốn độc giả cũng bị hụt hơi như mình.

    3/ Bài viết về anh, nếu anh đã nói như trong thư thì rất dễ dàng cho BG phóng bút, bởi lẽ, tuy là con người cẩn thận chữ nghĩa, từ trong tư tưởng đã chưa bao giờ dám mang ý nghĩ viết bậy, bút sa gà chết; nhưng BG cũng còn là con người tình cảm, và tình cảm lại rất phiêu bồng phóng khoáng. Do đó với lối viết không bị kềm chế bởi văn tự, bài bản, BG sẽ thấy thoải mái hơn. Cám ơn anh. Để chuyện văn chương anh, kẻ khác phê bình. Phần BG chỉ đưa ra những cái gì MÌNH CẢM NHẬN, hay những điều mà kẻ khác CỐ TÌNH KHÔNG HIỂU THẤU về anh qua những giòng chữ im ỉm lặng câm của anh.

    4/ Điệu Múa Cuối Cùng Của Con Thiên Nga có lẽ là cuốn SAU CÙNG BG đưa ra cái nhìn trung thực của mình về văn giới, sau đó ngưng luôn, mặc kệ thiên hạ muốn làm gì thì làm.

    Kể anh nghe chuyện rất vui này:

    Ngày xưa còn đi học, BG có một anh bạn, cháu ruột một ông Tướng trong quân đội. Mới gần đây, anh Trần Ngọc, một bạn văn, từ Orange County gọi lên BG, nói rằng:

    “Một lần ngồi chung trong một tiệc rượu tại nhà Khánh Trường, nghe một anh chàng bảo: Ngày xưa tôi có cô bạn thân kéo violon rất hay... Và anh này nói về cô Thu Vân ngày cũ một cách chính xác chi tiết và bằng một giọng điệu rất thân thương ưu ái.. Anh đoán cô Thu Vân mà anh ta nói đó chính là em; nên bảo anh cũng có quen Thu Vân thì anh chàng xin số điện thoại em nhưng anh không đưa, nghĩ phải hỏi ý em trước đã.”

    Trần Ngọc thêm: “Anh chàng này bây giờ giàu lắm, lại thảo ăn, nổi tiếng là Mạnh Thường Quân của đám văn nghệ Santa Ana. Biết đâu liên lạc lại, nếu đúng là bạn cũ, anh ta chẳng sẽ giúp đỡ Thu Vân trên mặt vật chất?”

    Nghe chuyện, BG bảo Trần Ngọc: “Nhiều người đọc sách em, cứ tự nhận là bạn cũ, nhưng toàn là đồ dỏm. Với anh chàng này, anh cứ cho số điện thoại em, thật giả, em biết ngay sau khi chỉ đối đáp vài câu.”

    Vậy là một bữa đẹp trời, anh chàng nọ gọi BG và đúng là CỦA THẬT! Anh ta mừng lắm, nhắc cho BG nghe những kỷ niệm mà chính BG đã quên khuấy đi rồi. Mắc cỡ, thì anh ta bảo: “Râu ria nhiều quá làm sao Thu Vân nhớ cho hết?” (Bởi là dân thể thao không ham đọc sách nên anh chàng mới không biết TTBG bây giờ là cô Thu Vân ngày xưa.)

    Liên lạc tới lui vài bận, trò chuyện luôn với bà già và cô em gái, (vì thuở xưa, anh ta vẫn đến nhà chơi và được cả gia đình BG đón tiếp), thấy có vẻ là có power thật với đám văn nghệ Santa Ana. Qua điện thoại, BG cũng nhiêàu lần nghe anh ta khoe rằng vẫn hay giúp đỡ người này người nọ trong đám đó. Chẳng hạn như: “Trong nhà anh có đến cả trăm bức tranh, chôã đâu mà treo cho hết, nhưng anh vâãn mua tranh tụi nó vì muốn giúp cho tụi nó phương tiện để sống”; “Anh đang bảo trợ cho thằng Khánh Trường làm cuộc triêån lãm phòng tranh của nó. Thằng này vô học, ăn nói tục tĩu, nhưng ngôài uống rượu với nó cũng vui.” Hay: “Thăèng Du Tử Lê cũng từng nhờ cậy anh, em mà đi với anh, đố nó dám làm gì em nổi?” Hoăëc: “Anh vừa mới bỏ năm ngàn mua một bức Thái Tuấn của Huỳnh Hữu Ủy. Bức này không đẹp, nhưng vì muốn giúp cho Huỳnh Hữu Ủy sống và cũng vì cái tên Thái Tuấn, nên mua”. Rồi anh ta cười to: “Bức Thái Tuấn, Huỳnh Hữu Ủy đòi giá năm ngàn nhưng anh trả mới bốn ngàn, còn một ngàn, nó cứ đi theo đòi hoài. Bực quá, sáng nay ngồi uống café có măët nó, anh đưa trả một ngàn còn lại. Nó không nhận. Anh nói: Mày mà không nhận thì từ nay đừng có ngồi uống rượu với tao nữa!” Rồi anh ta cười to, điệu rất khoái chí . v.v. và v.v...

    Khi BG hỏi: “Em nghe anh bảo, nhiều họa sĩ dưới Santa Ana được anh giúp đỡ cho có tiền sống mà làm nghệ thuật, vậy ở San Jose có một họa sĩ nhiều tài năng nhưng sống lang thang nghèo khổ, không hiểu anh có biết?”

    “Ai?” “Đăng Lạt”.

    “Tài năng Đăng Lạt thế nào?”

    “Nếu đặt tranh Đăng Lạt cạnh bên tranh Khánh Trường thì tranh Khánh Trường thấy vô hồn hẳn. Đó là lời nhận xét của nhiều người trong giới văn nghệ chứ chẳng phải của em.”

    Anh ta không nói gì.

    Một hôm, muốn thử nghiệm xem anh ta có “thảo ăn” thậït như lời Trần Ngọc giới thiệu không, BG bảo với anh ta rằng đang sắp cho chào đời một tác phẩm mới, và hỏi, có thể nào giúp BG làm một cuộc ra mắt ở dưới đó? Anh ta vui vẻ nhận lời liền, lại còn hứa ngày hôm sau sẽ bỏ ngay vào bank BG ba ngàn đô để giúp tiền in sách (“Xong anh em mình chia đôi sau khi bán sách,”anh ta nói đùa thế). Dự định là anh ta sẽ mượn cái hội trường của báo Người Việt cho buổi ra mắt, tài trợ đủ mọi thứ thuộïc về sự tổ chức chương trình .v.v. và .v.v...

    Mọi việc tiến hành (nhưng mới chỉ trên lời nói qua điện thoại). Anh ta làm cho cái tính đa nghi về lòng tốt của kẻ khác trong BG cũng gần muốn chao đảo, tự nghĩ là mình đã nhận định sai về thiên hạ.

    Một buổi từ Nam Cali, anh ta gọi lên, nhắn vào máy muốn gặp BG gấp. Qua chuyện, kể rằng đã hỏi mướn cái hội trường của đám Người Việt và nơi này đồng ý nhưng phải đến tháng 11/2005 mới có chỗ trống. Lại bảo, đã nhờ đám 'Việt Báo' lancer BG và cơ sở này cũng đã nhận lời. Điện thoại gấp cho BG là bởi muốn biết xem BG có đồng ý không với những điều vừa nói để xúc tiến việc ra mắt sách. BG nhận.

    Khi nghe bên kia đầu giây có nhiều giọng nói, BG hỏi: “Anh đang ngồi với ai?” “Đám mấy thằng họa sĩ, Khánh Trường, Cao Bá Minh. .v.v.”

    Lại nghe giọng la gì đó. Anh ta kể: “Khánh Trường vừa nói em chửi khắp thiên hạ, điều ấy có đúng không?

    BG đáp: “Chỉ khều nhẹ thôi chứ nào phải chửi. Nhưng em đã gửi anh hai cuốn NCQCTài Hoa & Cô Đơn Như Một Định Mệnh, bộ anh chưa đọc sao?”

    Anh ta la lên: “Sách vừa tới là tụi nó chụp ngay, chuyền tay nhau đọc, đòi cũng không chịu trả! Em gửi cuốn khác cho anh đi.”

    BG cười: “Mấy ông nội văn nghệ Santa Ana ông nào cũng muốn đọc em, nhưng chỉ đọc lén. Em sẽ gửi cuốn khác, và mong anh đọc trước khi quyết định có nên giúp em làm buổi ra mắt hay không?”

    Anh ta hỏi tại sao? BG không đáp câu hỏi này, chỉ nói: “Cuộc đời em đã quá quen rồi với những cú phản ngược bất ngờ vào giờ chót, nên sẽ không buồn nếu có lúc nào biết anh QUAY LƯNG với một người bạn cũ do từ áp lực của kẻ khác hay do bất cứ nguyên nhân từ đâu.”

    Đó là lần cuối cùng anh ta gọi BG rồi im luôn, ba ngàn đô cũng dông tuốt không thấy chui vào bank BG. (cũng lại là một cái trò tiền hậu bất nhất như NVHóa Giao Điểm!) Bà già và bé Mỵ biết chuyện (vì anh ta có khoe với họ chuyện sẽ giúp BG làm cuộc ra mắt sách), hỏi thăm, BG cười: “Có lẽ anh chàng bị đám văn nghệ Santa Ana ‘thuốc’ nên không dám liên lạc với con nữa. Điều đó khiến con rất mừng, thấy mình như vừa tránh xa được một sợi giây thừng to tướng đang sắp tròng vào cổ, y hệt câu chuyện với tên Ted dạo trước.”

    Bà già hiểu ngay. Còn bé Mỵ thì kể:

    “Có lần nói chuyện điện thoại với Bé, anh ấy bảo rằng chị Thu Vân sao thẳng tính quá. Tranh Khánh Trường anh mua đến một ngàn đô một bức mà lại bảo là vô hồn nếu đặt cạnh tranh Đăng Lạt!”

    Bé Mỵ nói thêm: “Lúc đó Bé định nói với ảnh: Tranh đắt tiền chưa hẳn là tranh giá trị. Nhưng nghĩ thôi.”

    BG cười bảo bé Mỵ: “Không nói là phải, vì một khi đã nhận Khánh Trường là bạn thì anh ta sẽ không bao giờ chịu chấp nhận có một họa sĩ nào ‘có quyền’ tài hoa hơn bạn mình. Đó là cái cách nhìn nghệ thuật chung của giới văn nghệ Santa Ana. Anh này không phải nghệ sĩ mà chỉ là ‘bố mẹ nghệ sĩ! –kiểu các bà mẹ chiến sĩ- thì điều đó càng thêm mạnh mẽ.”

    Còn câu chuyện tên TED là như sau:

    Mùa thu 2000, từ VN trở về, BG rơi vào trạng thái xuống dốc trầm trọng trên đủ mọi mặt, nên lao vào phi trường làm việc trong Starbucks. Một bữa đi làm về, thấy nhà tối om, hỏi ra mới biết bé Mỵ lúc ban sáng lên cơn điên dữ dội, đã xách búa đập hết các cầu chì. (May mà nó không chết vì khi ấy điện thành phố đang bị cúp làm nó không thể đấu lý với cái radio được nên bực bội xách búa phá!). BG bèn gọi công ty nhà đèn đến, họ bật công tắc lên, thấy khét quá, sợ cháy nhà, khuyên cứ để vậy, ngày mai gọi một chuyên viên về điện đến ráp lại các đường giây; phần công ty không lo về dịch vụ sửa chữa các loại như thế.

    Hôm sau đi làm về, điện thoại đến các nhà sửa điện chuyên môn, anh nào cũng chém không dưới ba ngàn đô, lại bảo đang mùa mưa không thể làm gì được vì rất nguy hiểm. Đành cứ để vậy trong hơn nửa tháng, nhà cửa tối om, mùa thu lạnh giá, lò sưởi gì cũng không có. Sau kẹt quá, gọi đến tên TED, một anh Mỹ mập như con heo, rất mê BG kể từ một lần làm quen ở café Starbucks trong phi trường. Tên này góa vợ, là thầu khoán cỡ bự, chuyên thầu cho các công ty lớn của chính phủ. Nghe gọi, hắn đến ngay, sửa lại tạm thời các đường giây không lấy tiền. Trong mấy ngày sửa chữa, hắn cứ buông lời dụ hoặc BG như dạo trước. Hắn nói: “Một phụ nữ độc thân như cô thì rất cần một người đàn ông tháo vát như tôi. Cô hãy nên nhận tôi làm chồng, tôi sẽ lo hết cho mẹ con cô. Sẽ giúp cô sửa chữa hoàn hảo từng căn phòng để cho mướn. Cô không cần trả công tôi mà chỉ cần bỏ tiền mua vật liệu thôi.”

    Lúc ấy, có anh chàng VN là nhân viên của tên Ted cùng với hắn đến nhà sửa điện, một mặt nói riêng với BG bằng tiếng Việt: “Chị cứ nhận đại đi để nó sửa nhà cho chị. Thằng này giàu lắm, vật liệu dư thừa nó lấy ra được từ các vụ thầu khác cũng đủ cho chị xây ba căn nhà, không cần phải tốn tiền mua đâu.” (BG chỉ cười trừ.) Một mặt, anh VN này quay sang nói với tên Ted: “Ông nên từ từ! Người VN chúng tôi, tình cảm thường đến chậm. Cứ giúp chị BG sửa nhà rồi hãy tính.” Tên Ted đồng ý.

    Kế hoạch đưa ra là, đầu tiên hắn sẽ lo các ổ điện trong nhà cho hoàn chỉnh, sau tính đến việc xây cất lại từng phòng.

    Một bữa, hắn chở BG ra Home Depot mua các vật dụng thuộc về điện, chính tay hắn lựa tỉ mỉ từng cái, tổng cộng 600 đô la tính ở quầy do BG trả. Định sẽ bắt tay làm việc ngay ngày hôm sau như hắn hứa.

    Nào dè chờ một tuần, rồi một tháng cũng chẳng thấy mặt hắn, BG bèn điện thoại bảo: “Anh hứa sẽ đến sửa giúp các ổ điện cho tôi mà sao không thấy?” Hắn trở mặt: “Còn cô, có hứa gì với tôi không mà bảo tôi giữ lời đã hứa với cô?” BG ngạc nhiên: “Tôi hứa gì?”

    “Hứa sẽ làm vợ tôi sau khi xong mọi chuyện!”

    Lúc ấy BG kêu à lên tiếng lớn, cảm ơn hắn và cúp máy ngay. Kể cho bà già nghe, BG nói: “Con kêu tiếng "à" vì vui mừng quá đỗi khi nhận ra mình vừa thoát khỏi một sợi dây thòng lọng. Bởi mẹ biết, với con người con, một khi đã nhận ân tình của ai thì thể nào cũng trả. Trời thương con nên xui khiến tên này giở ra liền cho con thấy cái mòi cà- giựt, chứ nếu hắn khôn ngoan, cứ âm thầm giúp, làm sao con thoát được sự trả ơn hắn bằng chính cuộc đời con?”

    *



    Anh Thế Phong ơi,

    Sở dĩ kể anh nghe chuyện anh chàng bạn cũ là ý muốn nói lên sự cảm nhận càng rõ hơn của BG trên những tương quan giao thiệp giữa con người với nhau. Thường người ta đến với nhau vì DANH (như anh bạn cũ) hoặc vì LỢI (như đám văn nghệ Santa Ana) chứ chẳng ai đến vì TÌNH NGƯỜI (như trường hợp anh và BG). Biết thế, nên BG chẳng chút gì buồn phiền theo sự quay mặt của một người bạn từng nhận là THÂN với mình thuở nhỏ. Trái lại RẤT MỪNG và cám ơn anh ta lắm lắm theo cái điều quay mặt kia thôi!

    Đôàng thời, càng ngâãm càng thấy quý anh và tấm lòng của anh đã dành cho BG. Mười một năm trước, trong cuốn MTDKCT I, BG có viết: “Cả đời, tôi rất quý bạn, nhưng chăúng có được mấy người bạn quý!” Thì điêàu ấy, lúc này nghĩ lại thấy thật đúng. Có đốt đuốc đi giữa ban ngày cũng không phải dễ dàng tìm ra “một người bạn”. Hay có lẽ vì cái giá trị BG đặt cho tình bạn cao quá đã khiến BG không thể có bạn? Có lẽ thế, anh nhỉ? Nhưng làm khác hơn để thay đổi cái nhìn về Tình Bạn trong con người mình thì lại là điều chưa bao giờ BG nghĩ ra.

    Anh Thế Phong,

    Thôi, hôm nay kể các chuyện như thế cho anh nghe là quá đủ. Lần sau rảnh rỗi kể tiếp. Bây giờ BG phải đi uống cốc café, hút một điếu thuốc lá rồi trở lại bàn viết, dứt điểm bài về bác Lê Ngộ Châu và ông Võ Phiến đây. Anh nhớ NHẮC anh Đông Sơn kể cho nghe chi tiết về câu nói của bác Tạ Tỵ nhé.

    Cảm ơn anh vì tất cả và lúc nào cũng giữ một lòng quý trọng yêu mến dành riêng cho anh.

    Thân ái,

    TTBG




    San Jose, Cali. Thứ Bảy, August 7/2005



    ------------------------------------------------------------------------------------
    trích từ https://www,tvvn.org > Blogs > Blog của TranThiBongGiay
    -----------------------------------------------------------------------------------

    0 Nhận xét:

    Đăng nhận xét

    Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

    << Trang chủ