Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017

về nhà văn NGUYỄN TUÂN -- Wikipedia tiếng Việt

Nguyễn Tuân

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Tuân

Chân dung Nhà văn
Bút danhNguyễn Tuân,
Nhất Lang,
Thanh Thuỷ,
Thanh Hà,
Ngột Lôi Nhật,
Ngột Lôi Quật,
Ân Ngũ Tuyên,
Tuấn Thừa Sắc.
Công việcNhà văn,
Diễn viên Kịch nói,
Diễn viên Điện ảnh
Quốc giaViệt Nam
Dân tộcKinh
Quốc tịchViệt Nam
Học vấnThành chung
Giai đoạn sáng tác1929 - 1987
Thể loạiTùy bút, Bút ký, Tiểu thuyết
Giải thưởng nổi bậtGiải thưởng Hồ Chí Minh
Con cái
  • Con trai cả Trung tướng Trần Xuân Trường (tức Nguyễn Thạch Toàn) ông đã đổi họ khi tham gia Cách mạng, từng là chiến sĩ trong Trung đoàn Cảm từ Hà Nội, từng là lãnh đạo Học viện Chính trị và Quân sự, đã qua đời.
  • Con gái Nguyễn Quyên Quyên (tức Nguyễn Thị Ân), từng là cán bộ cốt cán của Trường ĐH Nông nghiệp I, đã về hưu.
  • Con gái Nguyễn Tiêu Tương, từng là Bác sĩ Quân y BV 108, đã về hưu.
  • Con trai Nguyễn Tiêu Châu, từng là chuyên viên của Bộ KH và Công nghệ trước đây, cán bộ của ĐSQ Việt Nam ở Hungary, đã qua đời.
  • Con gái Nguyễn Thị Hương Cảng, chuyên viên, đã về hưu.
  • Con trai Nguyễn Xuân Đào, từng là Giáo sư trong ngành GTVT, đã về hưu.
  • Con gái Họa sĩ Thu Giang.
Nguyễn Tuân (10/ 71910 – 28 / 7/1987) quê ở Hà Nội, là một nhà văn của Việt Nam, sở trường về tùy bút và ký, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, sự hiểu biết phong phú nhiều mặt và vốn ngôn ngữ, giàu có, điêu luyện. Sách giáo khoa hiện hành xếp ông vào một trong 9 tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Ông viết văn với một phong cách tài hoa uyên bác và được xem là bậc thầy trong việc sáng tạo và sử dụng Tiếng Việt. Hiện nay, ở Hà Nội có một con đường mang tên ông, nối từ đường Nguyễn Trãi cắt ngang qua các phố Nguyễn Huy TưởngNgụy Như Kon Tum đến đường Lê Văn Lương, nối với phố Hoàng Minh Giám.

Sơ lược về tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 ở phố Hàng BạcHà Nội, quê ở thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (tên nôm là làng Mọc), nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.[1][2] Ông trưởng thành trong một gia đình nhà Nho khi Hán học đã tàn.
Nguyễn Tuân học đến cuối bậc Thành chung Nam Định (tương đương với cấp Trung học cơ sở hiện nay, tiền thân của trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định ngày nay) thì bị đuổi vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt (1929). Sau đó ít lâu ông lại bị tù vì đi qua biên giới tới Thái Lan không có giấy phép. Ở tù ra, ông bắt đầu viết báo, viết văn.
Nguyễn Tuân cầm bút từ khoảng đầu những năm 1935, nhưng nổi tiếng từ năm 1938 với các tác phẩm tùy bút, bút ký có phong cách độc đáo như Vang bóng một thờiMột chuyến đi... Năm 1941, Nguyễn Tuân lại bị bắt giam một lần nữa và gặp gỡ, tiếp xúc với những người hoạt động chính trị.
Năm 1945Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân nhiệt tình tham gia cách mạng và kháng chiến, trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Từ 1948 đến 1957, ông giữ chức Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
Các tác phẩm chính sau cách mạng của Nguyễn Tuân là tập tùy bút Sông Đà (1960) là kết quả chuyến đi thực tế vùng Tây Bắc, một số tập ký chống Mỹ (1965-1975) và nhiều bài tùy bút về cảnh sắc và hương vị đất nước. Ông chủ trương chủ nghĩa xê dịch không thích cuộc sống trầm lặng, bình ổn nên ông đi suốt chiều dài đất nước để tìm những điều mới mẻ,độc đáo.
Nguyễn Tuân mất tại Hà Nội vào năm 1987.
Năm 1996 ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I).[3].

Tính cách[sửa | sửa mã nguồn]

  • Nguyễn Tuân yêu Việt Nam với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông yêu tha thiết Tiếng Việt, những kiệt tác văn chương của Nguyễn DuĐoàn Thị ĐiểmTú XươngTản Đà..., những nhạc điệu hoặc đài của các lối hát ca trù hoặc dân dã mà thiết tha, nh­ững nét đẹp rất riêng của Việt Nam.
  • Ở Nguyễn Tuân, ý thức cá nhân phát triển rất cao. Ông viết văn trước hết để khẳng định cá tính độc đáo của mình, tự gán cho mình một chứng bệnh gọi là "Chủ nghĩa xê dịch". Lối sống tự do phóng túng của ông không phù hợp với chế độ thuộc địa (hai lần bị tù).
  • Nguyễn Tuân là con người rất mực tài hoa. Tuy chỉ viết văn nhưng ông còn am hiểu nhiều môn nghệ thuật khác: hội hoạ, điêu khắc, sân khấu, điện ảnh... Ông còn là một diễn viên kịch nói và là một diễn viên điện ảnh đầu tiên ở Việt Nam[4]. Ông thường vận dụng con mắt của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau để tăng cường khả năng quan sát, diễn tả của nghệ thuật văn chương.
  • Nguyễn Tuân nổi tiếng là người sành ăn. Với ông, Ăn là một nghệ thuật, một giá trị thẩm mỹ, một sự khám phá cái ngon mà tạo hóa đã ban cho.
  • Nguyễn Tuân là một nhà văn biết quý trọng thật sự nghề nghiệp của mình. Đối với ông, nghệ thuật là một hình thái lao động nghiêm túc, thậm chí "khổ hạnh" và ông đã lấy chính cuộc đời cầm bút hơn nửa thế kỷ của mình để chứng minh cho quan niệm ấy.

Quá trình sáng tác và các đề tài chính[sửa | sửa mã nguồn]

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác phẩm đầu tay. Ông đã thử bút qua nhiều thể loạithơbút kýtruyện ngắn hiện thực trào phúng. Nhưng mãi đến đầu năm 1938, ông mới nhận ra sở trường của mình và thành công xuất sắc với các tác phẩm: Một chuyến điVang bóng một thờiThiếu quê hươngChiếc lư đồng mắt cua...
Tác phẩm Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám chủ yếu xoay quanh ba đề tài: "chủ nghĩa xê dịch", vẻ đẹp "vang bóng một thời", và "đời sống truỵ lạc".
Nguyễn Tuân đã tìm đến lý thuyết "chủ nghĩa xê dịch" này trong tâm trạng bất mãn và bất lực trước thời cuộc. Nhưng viết về "chủ nghĩa xê dịch", Nguyễn Tuân lại có dịp bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết của ông đối với cảnh sắc và phong vị của đất nước mà ông đã ghi lại được bằng một ngòi bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa (Một chuyến đi).
Không tin tưởng ở hiện tại và tương lai, Nguyễn Tuân đi tìm vẻ đẹp của quá khứ còn "vang bóng một thời". Ông mô tả vẻ đẹp riêng của thời xưa với những phong tục đẹp, những thú tiêu dao hưởng lạc lành mạnh và tao nhã. Tất cả được thể hiện thông qua những con người thuộc lớp người nhà Nho tài hoa bất đắc chí, tuy đã thua cuộc nhưng không chịu làm lành với xã hội thực dân (như Huấn Cao Chữ người tử tù).
Nguyễn Tuân cũng hay viết về đề tài đời sống truỵ lạc. Ở những tác phẩm này, người ta thường thấy có một nhân vật "tôi" hoang mang bế tắc. Trong tình trạng khủng hoảng tinh thần ấy, người ta thấy đôi khi vút lên từ cuộc đời nhem nhuốc, phàm tục niềm khao khát một thế giới tinh khiết, thanh cao (Chiếc lư đồng mắt cua).
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chân thành đem ngòi bút phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc, nhưng Nguyễn Tuân luôn luôn có ý thức phục vụ trên cương vị của một nhà văn, đồng thời vẫn muốn phát huy cá tính và phong cách độc đáo của mình. Ông đã đóng góp cho nền văn học mới nhiều trang viết sắc sảo và đầy nghệ thuật ca ngợi quê hương đất nước, ca ngợi nhân dân lao động trong chiến đấu và sản xuất.

Phong cách nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ "ngông"[cần dẫn nguồn].
Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu ở phương diện văn hoámĩ thuật.
Trước Cách mạng tháng Tám, ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là Vang bóng một thời. Sau Cách mạng, ông không đối lập giữa quá khứ, hiện tại và tương lai[cần dẫn nguồn]. Văn Nguyễn Tuân thì bao giờ cũng vậy, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại[cần dẫn nguồn].
Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gióbãonúi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội......
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu[cần dẫn nguồn].
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng. Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở cả nhân dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những mặt tiêu cực của xã hội.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Ngọn đèn dầu lạc (1939)
  • Vang bóng một thời (1940)
  • Chiếc lư đồng mắt cua (1941)
  • Tàn đèn dầu lạc (1941)
  • Một chuyến đi (1938)
  • Tùy bút (1941)
  • Thiếu quê hương (1940)
  • Tóc chị Hoài (1943)
  • Tùy bút II (1943)
  • Nguyễn (1945)
  • Chùa Đàn (1946)
  • Đường vui (1949)
  • Tình chiến dịch (1950)
  • Thắng càn (1953)
  • Chú Giao làng Seo (1953)
  • Đi thăm Trung Hoa (1955)
  • Tùy bút kháng chiến (1955)
  • Tùy bút kháng chiến và hòa bình (1956)
  • Truyện một cái thuyền đất (1958)
  • Tùy bút Sông Đà (1960)
  • Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)
  •  (1976)
  • Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981)
  • Cảnh sắc và hương vị đất nước (1988)
  • Tú Xương
  • Yêu ngôn (2000, sau khi mất) [3]
  • Ký Cô Tô(1965)

Nhận định[sửa | sửa mã nguồn]

Có ý kiến cho rằng, Nguyễn Tuân là một cái định nghĩa về người sĩ.ai? Đối với ông, văn chương trước hết phải là văn chương, nghệ thuật trước hết phải là nghệ thuật, và đã là nghệ thuật thì phải có phong cách độc đáo. Nhưng Nguyễn Tuân, xét từ bản chất, không phải là người theo chủ nghĩa hình thức. Tài phải đi đôi với tâm. Ấy là "thiên lương"[5] trong sạch, là lòng yêu nước thiết tha, là nhân cách cứng cỏi trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục.
Người đọc mến Nguyễn Tuân về tài, nhưng còn trọng ông về nhân cách ấy nữa. Văn Nguyễn Tuân, tuy thế, không phải ai cũng ưa thích. Vả lại một số bài viết của ông cũng có nhược điểm: mạch văn quá phóng túng theo lối tùy hứng, khó theo dõi; nhiều đoạn tham phô bày kiến thức và tư liệu khiến người đọc cảm thấy nặng nề...[cần dẫn nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nguyễn Văn Hải (1998). Ngày này năm xưa. Nhà xuất bản Lao động. tr. 408.
  2. ^ Ngô Văn Phú; Phong Vũ; Nguyễn Phan Hách biên tập (1999). Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX 3. Nhà xuất bản Hội Nhà Văn. tr. 637.
  3. a ă [1] NHÀ VĂN NGUYỄN TUÂN - Cinet.gov.vn
  4. ^ Cuối 1937, Nguyễn Tuân được tuyển mộ vào đoàn đóng cuốn phim truyện Việt Nam đầu tiên, gọi là Cánh đồng ma
  5. ^ khái niệm cổ được Nguyễn Tuân sử dụng trong nhiều tác phẩm, như Chữ người tử tù (Vang bóng một thời) chẳng hạn, có nghĩa là bản tính tốt đẹp của con người nhưng không phải ai cũng giữ vững được

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ