Đại Nam Văn Hiến Xuất Bản Cục được thành lập như thế nào?/ Thế Phong- www.vantholacviet.com
Thế Phong ở tuổi 24, khi viết bộ sách
Lược sử văn nghệ Việt Nam : 1900-1956 (4 tập)
(ảnh: NGUYỄN MẠNH ĐAN)
"THEPHONG . Vrai nom DO MANH-TUONG. Né en 1932 à Nghĩa Lộ (Haute région du Nord Vietnam). A fait beaucoup de métiers avant sa "descente" à Hanoi pour s'adonner aux études -- 1952: commence à écrire des nouvelles. -- 1953: reporter pour différentes revues de Hanoi Giang sơn, Dân chủ, etc ... Vit actuellement au Sud Vietnam et s'occupe de l'édition des ouvrages sur la littérature vietnamienne actuelle. La plupart de ces ouvrages sont ronéotypés. Principales publications: Tình sơn nữ, roman 1954 -- Lược sử văn nghệ Việt-nam, plusieurs fascisules, sur les écrivains d' après guerre, les écrivains du Sud, etc., 1959-1960. -- Hiện tình văn nghệ miền Nam (Etat actuel de la littérature et des Arts au Sud) 1962, p. 174. "
(DICTIONNAIRE BIOGRAPHIQUES/ INTRODUCTION À LA LITTÉRATURE VIETNAMIENNE par M.M. DURAND &NGUYỄN TRẦN-HUÂN. (Paris 1969.)
ĐƯỢC THÀNH LẬP NHƯ THẾ NÀO?
Thế Phong
“…Chúa ơi, xin Ngài tha thứ tổng giám đốc Jeef Bezos ( b. 1964 , d.—– ) đừng vội ngắt hơi thở, để anh ta được sống lâu hơn, mãn nguyện cung cách làm giàu trên xương máu tác giả, và tiếp tục thực thi dài dài kiểu” piracy- copyright infringement” – thu lượm quả ngọt trên cành , lại quên khuấy công lao kẻ trồng!. Amen !”
THẾPHONG
….Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Nguyễn Đức Quỳnh,Thượng Sỹ, nhà xuất bản Thế giới, Lỗ Tấn ,Nguyễn Hữu Văn , Đinh Bạch Dân , Đàm Xuân Cận , Nguyễn Trọng Trí , Thế Phong, Phan Quang Bổng , Đàm Xuân Cận, Hàn Mặc Tử, Quách Thoại Hà Việt Phương, Phạm Xuân Thái, Đường Bá Bổn , Nguyễn Văn Hợi , Đăng Thái Mai , nxb Đại Ngã ,nxb Hoa Phương Đông , nxb Vàng Son ,
tủ sách Đại Nam văn hiến , Cornell University Libraries…
Gặp Nguyễn Hiến Lê lần đầu từ bao giờ thì đành chịu, nhưng mài mại nhớ lại- tôi gặp ông tư gia ở 50 đường Monceaux, Tân Định (nay: Huỳnh Tịnh Của, Phường 8, quận 3, tp HCM) vào một buổi sáng. Tiếp tôi ở căn phòng nhà ngoài, nơi cô giáo (vợ ông) dạy tư, nhưng buổi này không có lớp. Khi tôi đang nói chuyện với ông, thì một khách đứng tuổi, thân hình mập mạp, khuôn mặt chữ điền, từ ngoài đường bước vào- ông Lê giới thiệu , đó là ông Nguyễn Hữu Văn, công chức Bưu điện, mới di cư vào Nam. (Nguyễn hữu Văn, tên thật Giản Chi).
Ông này là tay dịch truyện Lỗ Tấn, xếp hạng thì đứng sau Đặng Thái Mai (nhóm Hàn Thuyên), ông này đã dịch sách Lỗ Tấn từ thời tiền chiến. Tôi không hỏi ông Văn dịch tác phẩm nào , song nhớ đích xác, ông ta dịch một tập truyện Lỗ Tấn trước năm 1954, do nhà xuất bản Thế Giới ở 112 Phố Huế, giám đốc Nguyễn Văn Hợi in và phát hành.
Từ đó, tôi thường đến thăm ông thường xuyên hơn, nhất là sau 1957, từ Rạch Giá trở về, với một va li đầy ắp bản thảo- đã đưa một số bản thảo đến Nha Thông tin Nam Phần xin cấp phép thì bị từ chối. Ấy là tôi không phải kẻ xa lạ, vì giữa năm 1954- đầu 55, từng tùy viên báo chí Tổng trưởng Thông tin và Tuyên truyền Phạm Xuân Thái , hẳn chẳng lạ lùng gì với giám đốc Nha Thông tin Nam Phần Phan Quang Bổng.
Tôi đưa ý kiến này bàn bạc cùng ôngNguyễn Hiến Lê: có nên in rô nê ô tác phẩm đã được cấp số kiểm duyệt rồi, để tạo một ấn tượng đẹp ban đầu đối với chính quyền. Tôi đã có cuốn truyện đầu tay“ Tình sơn nữ “(Nxb Hoa Mai Saigon xuất bản cuối 1954), tới đầu năm 1955, Thế Giới ( Saigon) lại in và phát hành” Muốn hiểu chính trị” hay” Tổ chức chính trị thế giới”. ( chủ soái nhóm Hàn Thuyên, nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh viết tựa dưới bút danh Hà Việt Phương).
Ông Nguyễn Hiến Lê đọc một va li bản thảo xong , trao “ Lược sử văn nghệ Việt nam / Nhà văn hậu chiến 1950-1956”+ giấy phép đã cấp của Nha Thông Tin Nam Phần cho tôi, ông lắc đầu, ý là viết nhiều thế này mà chưa in được; thì làm sao còn đủ can đảm viết tiếp -- rồi ông cầm cuốn "LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VN /NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950-1956 in rô-nê-ô, lem nhem, có trang chữ mất, chữ còn giơ lên cao trước mắt tôi. (*).
nguyễn hiến lê [1912- 1984 long xuyên/ nam bộ]
- nhà văn, dịch giả, ngôn ngữ học, nhà giáo dục; hoạt động văn hóa độc lập-- với 120 tác phẩm,
[gồm] sáng tác, biên soạn, dịch thuật thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau; giáo dục, văn học, ngữ học,
triết học, lịch sử, du ký, gương danh nhân, chính trị, kinh tế. ... [Ông cùng Giản Ch-Nguyễn hữu Văn được
trao Giải thưởng Văn chương Toàn quốc [ VNCH] ; chỉ nhận bằng khen, từ chối nhận hiện kim.. ]
- Wikipedia tiếng Việt
" NGUYEN HIEN LE, né le 8-1-1912 à hanoi. Reste un éditeur et un écrivain fécond. Sorti en 1934 diplômé de lÉcole des Travaux Publics de Hanoi, il est fonctionnaire jusqu'en 1945. Écrit et ouvre une maison d'édition à partir 1953 à Saigon. Collabore à plusieurs revues comme Tân Việt Nam 1945, Bách-Khoa, Đại-Học, etc ... Principales publications: Jusqu'en 1952 régulièrement édité en moyenne 2 ou 3 ouvrages, d' où 32 livres dont 8 traductions. Luyện văn, traite de stylistique vietnamienne en 3 fascicules, Saigon 1953-1957. Nghệ thuật viết văn (l'Art d'écrire), Saigon 1956. Đại cương văn học sử Trung quốc (Grandes lignes de l'histoire littéraire de la Chine, Saigon 1955- 956. Hương sắc trong vườn văn (Parfums et coloris dans le Jardin littéraire), Saigon 1962. Cf., pp 30, 135.
(DICTIONNAIRE BIOGRAPHIQUE/ INTRODUCTION À LA LITTÉRARURE VIETNAMIENNE par M.M. DURAND & NGUYÊN TRẦN-HUÂN .( Paris 1969.)
------------
* - năm 1996, nhà phê bình văn học tiền chiến Thượng Sỹ-Nguyễn đức Long tặng lại tôi .
Dưới đây một số sách c ủa tôi (tiếng Việt + tiếng Anh) có tại Cornell University Libraries kể cả 'Lược sử văn nghệ VN/ Nhà văn hậu chiến 1950- 1956', hiện cũng được lưu giữ tại Cornell University Libraries. ( Southeast Asia Catalog / Volume 6/ Vernacular Monographs : Burma, Cambodia, Vietnam, Chinese, Japanese * Serials / Asia, Burma, Cambodia/ G.K.Hall & Co., 70 Lincoln Street, Boston Massachusetts, 1976. (U.S.A.) :
——————————————————————————————
WASON
PL Thế Phong, 1932-
4380 Lược sử văn nghệ Việt-Nam.. 1965-19
T38+ (Card 2 )
Contents—Continued
tập 4, Nhà văn hậu chiến 1950-1956, — tập 5.
Tổng luận 1900-1956.
1.Vietnamese literature— History and
Criticism II Title.
12
NIC
—————————————————————–
–vậy , thư viện này có gần đủ bộ phê bình văn học của tôi, hình như chỉ thiếu tập “Lược sử văn nghệ Vietnam / Nhà văn kháng chiến chủ lực 1945-1950 +Nhà văn miền Nam: 1945-1950” mà thôi . . Ngoài ra còn đôi ba ô đóng khung ghi tiểu sử, bút hiệu một tác giả .
: Chẳng hạn ở “ ô khung 1 “ ghi:
—————————————
– Đỗ-mạnh-Tường, 1932-
…
Thế-Phong, 1932.
-khung 2 ghi:
Đường-bá-Bổn, 1932-
…
Thế-Phong, 1932- )
-----------------------------------------------------
– độc giả biết được tác giả Thế Phong, còn bút danh Đường Bá Bổn + tên thật Đỗ mạnh Tường , sinh năm 1932- .
-và, ở một số ô khác :
–WASON PL 4389 / N 61Z77 / 1965 – Thế-Phong. Frederick Nietzsche và chủ nghĩa đi lên con người… Thẩm định về triết học siêu nhân. ( tái bản lần 2] [ Saigon, Đời Mới, 1967, 140p.19cm. ( Tủ sách Đại nam văn hiến). – 1. Nietzsche, Friedrich Whilhem, 1844-1900. I. Title.
———————————————————-
– WASON / PL4389/ N61Z77 / 1965 / Thế-Phong. Hàn Mặc Tử, Q úach Thoại, nhà thơ siêu thoát. Phụ lục của Quách Tấn. ( In lần 2)]Saigon, nhận định, Đại Nam Văn hiến [ 1965] / 115p.port. 21cm. – 1. Nguyễn –trọng-Trí, 1912-1940. 2. Quách-Thoại, 1929-1957. I. Quách Tấn. II. Title. 117p. 19cm. Contents.—Khu rác ngoại thành – Con chó liêm sỉ ,—Đêm dài tình ái.
I. Title .
– WASON / PL43 80 T38 + Thế-Phong, 1932- Lược sử văn nghệ Việt Nam / Thế Phong. Saigon ; Vàng Son. 1965-19 v. 20-33cm. Vols have imprint : Saigon : Đại Nam Văn Hiến. Contents : tập 1. Nhà văn tiền chiến 1930-1945, nhận định văn học —
12
————————————————————
-WASON
PL Thế Phong 1932- Lược sử văn nghệ Việt Nam.. 1965-19
Contents—Continued
tập 4: Nhà văn hậu chiến 1950-1956,—tập 5.
Tổng luận 1900-1956.
1. Vietnamese Literature— History and criticism . II. Title.
4380
T38+
—————————————————————-
WASON
PL4389 Thế Phong.-
T38 K5 Nhà văn tác phẩm cuộc đời;
1970 tự sự kể
Đại Ngã [1970]
I. Title.
——————————————————————-
WASON
PL 4389 Thế Phong.
N 5615Z7 Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh; truyện ký. [ tái bản lần 2]
1964- Saigon, Đại Nam Văn Hiến [ 1964]
1.Nguyễn Đức Quỳnh, 1911-
1. Title.
———————————————————–
WASON Thế Phong, pseud.
PL4389 Nửa đường đi xuống; truyện
T 38N8 [Saigon, Đời Mới, 1968]
518p. 19cm. [ tủ sách đại nam văn hiến]
—————————————————————-
1. Title.
WASON Thế Phong,
PL4389 Thủy và T6; truyện [ Saigon]
738T5 Đại Nam Văn-hiến, 1969
143p. 19cm. ( Tủ sách Đại Nam Văn hiến).
1. Title.
—————————————————————-
WASON Thế Phong
J71 Tổ chức chính trị thế giới. Có phần bình luận. Tựa của Hà Việt Phương.
T37 [Saigon] Thế Giới [1956]
Cover title : muốn hiểu chính-trị.
1. Political science . I Title.
———————————————————————————
WASON Thế-Phong, 1932
P14389 Tôi đi dân vệ Mỹ; ký sự [ của]
T38T6 Đinh Bạch Dân [ pseud] . Saigon, Đại Nam
Văn Hiến, 1967]
95p. 20cm. [ Tủ sách Đại Nam văn hiến].
1. Title.
WASON Thế-Phong.
PL 14389 Tuyển truyện. Saigon . Hoa Phương Đông
T38T8 1963.
155p. 16cm.
1. Title.
1-2 / 23/65 2-3 15/65
—————————-
-bản tiếng anh:
——————————-
WASON Thế-Phong, 1932 –
PL 4389 A brief glimpse at the Vietnamese literary scene [ 1900-1956] / Thế Phong, —Saigon,
L9+ translated by Đàm Xuân Cận ,—Đại Nam Văn Hiến Books, 1974
1974 42p. 27cm
Translation of Lược sử văn nghệ Việt nam, Tổng luận 1900-1956, phê bình.
1.Vietnamese literature — History and criticism. I. Đàm Xuân Cận, tr. II. Title.
12 III. Thế Phong, 1932- Lược sử Văn nghệ Việt Nam Tổng luận 1900-1956,
NTC phê bình. Eng lish.
———————————————————————–
WASON Thế Phong. South Vietnam, the baby in the Ameriacn nurse.
T 38 N2 + Nam Việt Nam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ; Translated by Dam Xuan Can.
1969 [ Saigon, DNVH Press [ 1969]
62 1. 26 cm.
English and Vietnamese.
1. Americans in Vietnam —Poetry, I. His
Nam Việt Nam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ–
English, II Đàm-xuân-Cận,tr. III Title.
———————————————————————————–
WASON The-Phong, 1932-
PL The Vietnamese literary scene from 1900 to 1956; by The Phong.
4380 Translated from the Vietnamese by Dam Xuan Can.
T38 [Saigon; Dai Nam Van Hien Books, 1970]
L 8+ 67p. 26cm.
1970
Translation of Luoc su văn nghệ Việt-Nam, Tổng luận 1900-1956, phê bình.
1. Vietnamese literature – History and criticism. I. The-Phong, 1932-
Luoc Su Văn nghệ Việt-Nam. Tổng luận 1900-1956, phê bình . English.
II. Title.
NIC SbF 08, 174 20 Wal
…giám mục Ngô Đình Thục, tổng thống Diệm, nhà sách Portail , Đại Nam Văn Hiến xuất bản cục, Khải Triều, Nhật Tiến, Đỗ Phương Khanh, Diễm Châu, Phạm Thị Sáng, Hoàng trọng Miên, quán sách báo cô Nguyệt, Journal d’ Extrême Orient,Nguyễn Hiến Lê, Thanh Hữu, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Triều Đẩu, Phạm Phạm, Đỗ Mạnh Tường, Võ Văn Trưng…tạp chí Bách Khoa…
hiệu sách Albert Portail cũ [185 Rue Catinat)được gia nhân của đức giám mục Ngô Đình Thục mua lại của Pháp rút khỏi
Việt nam vào năm 1957.) được đổi thành Nhà sách Xuân Thu . ( nay cũng bị xóa sổ trên đường Đồng Khởi .)
In xong, ngoài việc gửi cho 30 cuốn tại nhà sách Xuân Thu nằm trên đường Catinat – đường Tự Do sau này. (hiệu sách AlbertPortail cũ. được gia nhân của đức giám mục Ngô Đình Thục mua lại của Pháp trước khi Pháp rút khỏi Việt nam vào 1957) .
Cảm ơn Chúa, vô cùng , vì họ nhận gửi bán và trưng bày sách ngoài tủ kính lớn trông ra mặt đường Tự Do, ai đi qua đều nhìn thấy, Nhưng số sách bán ra ít hơn nhiều, nếu so với sạp bán sách báo của cô NGUYỆT. ( góc đường Công Lý và Lê Lợi Saigon 1.)
Ngoài việc ký gửi sách ra, tôi còn gửi thư tới một số văn hữu quen, báo tin Đại Nam Văn Hiến xuất bản cục do tôi chủ trương, hàng tháng sẽ xuất bản 1 đến 2 cuốn sách in rô nê ô, yêu cầu mua ủng hộ.
( sách dưới 100 trang với ấn phí 30 VNđ, trên 100 trang 100 VNđ, 200 trang 200 đ – thư gửi đi, nếu không hồi âm trong vòng tháng , mặc nhiên văn hữu chấp nhận mua sách.. Sách , thư từ, tiền bạc gửi qua Hộp thư 1123 Saigon, Đường Bá Bổn quản nhiệm. Tiền bac đề tên Đỗ Mạnh Tường. Tôi nhớ rỏ khoảng 35 văn hữu mua sách dài hạn và 5 người từ chối).
Dấu tròn Đại Nam Văn Hiến rất lớn, khoảng 7 x 7cm,- như một thách thức ngạo mạn so với con dấu khá lớn Phủ Đầu Rồng của tổng thống Diệm – tôi dùng một sketch của họa sĩ Ngọc Dũng phác họa đôi nam nữ, đặt trong vòng trong – hàng chữ ĐẠI NAM VĂN HIẾN/ SAIGON VIỆT NAM viền xung quanh bên ngoài .
Hồi đó, thời Đệ nhất Cộng hòa, muốn khắc dấu phải có giấy giới thiệu-- chẳng hiểu lý do nào chủ khắc dấu trên đường Nguyễn trung Trực (Saigon 1) nhận làm mà không đòi Giấy giới thiệu.
tôi dùng một sketch của họ sĩ Ngọc Dũng phác họa đôi nam
nữ, đặt trong vòng tròn .
Tiền khắc dấu do thi sĩ Khải Triều ( Nguyễn văn Tuy [1936- ] chi trả , địa chỉ nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến xuất bản cục đặt nhờ tại địa chỉ 504 Hồng Thập Tự ( Saigon 3)- buộc phải in trên bìa sách-(nhà văn Nhật Tiến và Đỗ Phương Khanh đồng ý cho mượn địa chỉ )– cũng như sau này chuyển về 201/ 11 Nguyễn Huệ- Phú Nhuận, được thi sĩ Diễm Châu và phu nhân Phạm thị Sáng cùng gật đầu cho mượn nơi này àm địa chỉ Đại Nam Văn Hiến . Sau này, địa chỉ nhà xuất bản còn chuyển tới nhà của thi sĩ Liên Hoàn ở hẻm đường Phan Thanh Giản(Saigon 3) – nhà hai số trên suyệc (sur) nên không nhớ rõ số nhà. (528 /…. / …. Phan Thanh Giản/ Saigon 3. )
Liên Hoàn , bạn rất thân nhà văn Võ Hồng, tác phẩm tiểu thuyết đầu tay Võ Hồng in ra ở Saigon năm 1956- Liên Hoàn xin giấy phép, và anh Hoàn cậy tôi nhờ họa sĩ Ngọc Dũng vẽ bìa.
Tập 1 “Lược. sử văn nghệ Việtnam / Nhà văn tiền chiến 1950-1956” được ký tặng đầu tiên ngày phát hành, tôi gửi đầu tiên tới tạp chí Bách Khoa, rồi Journal d’Extrême Orient, tạp chí Sinh Lực Bá Bách Khoa đăng quảng cáo trường kỳ cho Đại Nam Văn Hiến , hàng ½ trang, chủ biên Lê Ngộ Châu đăng ròng rã khoảng 16 năm, không lấy một đồng.
Lời cảm ơn muộn ghi tặng Lê Ngộ Châu , được ghi trong sách” Nhà văn hậu chiến 1950-1956"- của lần dự định tái bản in typo.- đã ra bản nhũ.. (chưa in.)
trái qua :
Thế Phong + Trần Thị Bông Giấy+ LÊ NGỘ CHÂU [1923- 2006 saigon]
+ Hoàng Vũ Đông Sơn [1939- 2014 saigon.] -
(ảnh chụp tại tư thất LNChâu, 160 Nguyễn đình Chiểu, quận 3/ tp. HCM.)
Văn hữu đầu tiên tán đồng nhiệt tình việc in sách rô nê ô, là ông Nguyễn Hiến Lê. Thực mà nói, không được sự khích lệ nhiệt tình của Nguyễn Hiến Lê, chưa chắc Đại Nam Văn Hiến xuất bản cục ra đời, với loạt sách in rô nê ô, đa số không xin cấp phép. ( xem công văn Tổng giám đốc Thông tin Phan Văn Tạo ở dưới ).
Thư tay gửi cho tôi, ông Lê viết:
…điều thứ ba: Sự phán đóan của anh gần hợp với ý của tôi; phần nhiều những tác phẩm anh khen thì tôi cũng nhận là có giá trị, những nhà văn anh chê thì tôi cũng không thích. Những nhận xét của anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông ( Hoàng Trọng Miên- TP chú thích) đều đúng cả. Anh không nên ghi nhiều chữ Pháp quá. Đó là những nhận xét của tôi. Tôi nhắc lại, tôi phải phục sức đọc, sức viết và sức nhớ của anh. Cảm ơn anh một lần nữa…”. ( thư riêng đề 17/ 4 / 1959.)
Nhà văn Thanh Hữu (bút danh Lê Công Tâm) viết trên tạp chí Sinh Lực:
“….Có lẽ đã lâu lắm, từ ngày Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan ‘ mác- xít hóa” tác phong; bộ môn phê bình cảo luận vắng teo những người” hướng đạo” cho du khách vào thăm vườn văn nghệ Việt Nam. Nói như vậy cũng không có nghĩa rằng, giới” hướng đạo” cho du khách đã giải nghệ: họ chỉ lẳng lặng rút lui về một nhiệm vụ khác tương đối ít trách nhiệm hơn, điểm sách như chúng tôi đang điểm sách, một cách tùy hứng trên báo chí, tập san văn nghệ .(….)
Phi thường vì chắc không dám bỏ 3 năm cặm cụi bên đèn để làm một công việc theo ý tưởng của mình, không một hy vọng mỏng manh hay một sự tán trợ nào, trong khi công nợ eo sèo và thêm phận mình nghèo” rớt mùng tơi”.. (….)
Không đi vào chi tiết; chúng tôi chỉ muốn đưa ra những ý kiến có tính cách giới thiệu và tổng luận. Rất có thể ý kiến của tôi sai lầm ,hay còn nhiều điều tôi chưa đề cập. Một điều đáng quí: anh dám làm. Lại còn dám làm trong suốt 3 năm ròng rã với kiên nhẫn của các cụ già và lòng hăng hái của tuổi trẻ, dám vượt lên bao nhiêu trở lực ngổn ngang trong sự nghèo túng của mình- đó là một việc làm đầy sĩ khí đáng ca tụng.(..)
Hôm nay Thế Phong còn có thể có ít nhiều nhầm lẫn. Nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn tiến nhiều bước đi ngạc nhiên nữa trên lãnh vực này, để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận, bị bỏ quên trong nhiều năm.
Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, của một người văn nghệ biết mỉm cười cho chiều đi văn học sử. (….)… đôi lúc Thế Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng đó là một sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại hay dao to búa lớn gì; mà nhiều tinh thần thẩm mỹ – dĩ nhiên là chủ quan nữa. Ta quí sự nhận thức ấy, vì anh dám nói cũng như những người dám cãi hay không là quyền của họ…” (….)
( tạp chí “ Sinh Lực”- chủ nhiệm Võ Văn Trưng, Saigon 1959).
Nhật báo tiếng Pháp duy nhất ở Saigon, tờ Journal d’ Extrême Orient viết như thế này: (sau này tôi mới biết, nhà báo Phạm Phạm chấp bút.)
“…Lược sử văn nghệ Việtnam, Histoire de la littérature viêtnamienne par Thế Phong).” Histoire de la littérature vietnamienne, òu l’auteur passé en revue les écrivains d’avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre tirée sur ronéo avec une triage limitée, fruit de minutieuses recherches et d’une riche documentation donne une vue d’ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Viet Nam, de leurs oeuvres, d’une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l’ histoire. C’est une synthèse remarquablement coordonnée, annotée par le critique littérature éminent qu’est Thế Phong qui l’ achevée dans les derniers jours de Juin 1956.
(Jeudi, Décembre 1959 ).
Văn sĩ nhà báo Triều Đẩu cộng tác với tạp chí Bách Khoa, cầm cuốn Nhà văn hậu chiến 1950-1956 tới tận 504 Hồng Thập Tự đòi gặp tác giả.
Cô Chi ( em vợ nhà văn Nhật Tiến) thấy một trung niên mặt mày bậm trợn, vẻ tức giận, đòi gặp Thế Phong, cô trả lời cách sỗ sàng:” ông gặp tác giả để làm gì, ông ấy đi vắng rồi!”
Ít lâu sau trên báo Bách Khoa , một bài ngắn viết về” Lược sử văn nghệ Việtnam/Nhà văn hậu chiến 1950-1956”:
“… Ông Thế Phong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là điều ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian, chưa có người tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà đằng đẵng 15 năm trời – đúng một thời gian luân lạc của cô Kiều . Ông Thế Phong đã có thiện chí làm việc tiếp tay ông Vũ Ngọc Phan, mặc dầu giữa thời đại đáng lẽ tiến bộ về mọi phương diện này, ông đã không được may mắn có những phương tiện ấn loát và trình bày như Vũ Ngọc Phan, Lỗi đó nhất định không phải hoàn toàn ở ông rồi. A ha ! Thời cuộc !…”
( Bách Khoa số 56).
Nguyễn- Trần Huân, Maurice. M. Durand , Bùi Xuân Bào, Phạm Xuân Ninh- Hoàng Trinh, Tô Kiều Ngân, Bíelinsky, Nguyễn Đức Sơn – SaoTrên Rừng , Ý Nhi, Đoàn Thêm, Tr.Q.V., Đỗ Thích, Thái Ngọc San, tạp chí Sông Hương….
Tôi còn biết thêm đôi ba chi tiết khác- ở Pháp có nhắc tới bộ sách phê bình văn học này :
– giáo sư Maurice M. Durand và bác sĩ Nguyễn-Trần Huân trong cuốn” Introduction à la littérature vietnamienne. (Paris 1969) dùng làm tài liệu tham khảo về văn học Việt nam đương đại. .
- Giáo sư Bùi Xuân Bào trong cuốn” Le Roman Vietnamien Contemporain, (Saigon 1972) dùng cuốn
“ Lược sử văn nghệ Việt nam-Nhà văn tiền chiến 1930-1945” làm tài liệu tham khảo’ chính’ luận -án- phụ tiến sĩ văn chương. ( Sorbonne 1960-1961 ). Dùng cụm từ ” tham-khảo-chính” - bởi ông Bùi xuân Bào đã “ đạo” khá nhiều tư liệu văn học, thoát dịch , đưa vào luận án tiến sĩ văn chương từ đầu thập niên 60s. (không dẫn chứng tham khảo.)
Nhật báo “ Sóng thần” thực hiện cuộc phỏng vấn” bỏ túi” phanh phui chuyện làm nhức đầu đương kim Khoa trưởng Đại học Văn khoa Saigon dạo nào!
Sách in rô -nê- ô của tôi ra mắt, có một số văn hữu không đồng tình- họ viện lý do in rô nê ô là bôi bác miền Nam no ấm, phồn thịnh. Còn nữa, tác phẩm của tôi chẳng một nhà xuất bản nào nhận in thì phải in rô nê ô thôi.
Một lần, Phạm xuân Ninh, giám đốc Nha Vô tuyến truyền thanh ( có ghi danh mua sách dài hạn của Đại Nam văn hiến) gặp tôi ở Câu lạc bộ văn hóa, 142 Tự Do ( Saigon 1- do cựu tổng trưởng Thái làm chủ cửa hàng), phê phán tôi gay gắt:“ đại để miền Nam no ấm, phồn vinh, sao phải in sách rô nê ô, như vậy làm mất mặt sĩ diện quốc gia là điều khó tránh khỏi?”
Chẳng bao lâu,ông Phạm Xuân Ninh được mời tham dự văn bút quốc tế – chẳng lẽ chỉ vác bộ mặt trần trụi dự hội thảo sao?( khi bỏ Khu 4 về thành, đổi họ, tên- từ Hoàng Sỹ Trinh thành Phạm Xuân Ninh, chưa một tác phẩm nào được in thành sách,) Giả thiết , một kẻ cắc cớ, hỏi : “ l’oeuvre d’abord- điều kiện cần và đủ để là ( hay không là ) nhà văn "?
Thì tay giám đốc Đài phát thanh, tuy chưa in một tác phẩm nào, vẫn đặc cách mời vào hội, thêm một lần đặc cách thứ 2 , được tham dự văn bút quốc tế. Chẳng lẽ ra nước ngoài, chỉ vác cái thân” trần trụi”đi thôi sao?- rồi phải mỏi mồm tự giới thiệu:” tôi là nhà văn Việtnam tham dự hội nghị,” có khi chưa ai thèm biết tới ? Nên, Phạm thi sĩ đành đặt in gấp rút một thi tập, tựa Tiếng hát tự do / Hoàng Trinh, mang theo bên mình đi phó hội . Điều tôi nhấn mạnh: Tiếng hát tự do , in rô-nê-ô và không số giấy phép.
Vậy thì cổ nhân dạy đâu có sai, chớ” cười người hôm trước, hôm sau bị người cười!”
Cũng có văn hữu vin cớ bị nhức đầu mỏi cổ, rướn mắt đọc sách rô nê ô, soi mói độc địa hơn , cho rằng tác giả trẻ tuổi háo danh, chẳng nhà xuất bản nào thèm in sách cho. Trước khi phát hành sách rô nê ô, tôi đã có vài tựa sách in ty- pô xuất bản: Tình sơn nữ ,( truyện , Saigon 1954), “ Đợi ngày chiến thắng”, (truyện ,Saigon 1955), Muốn hiểu chính trị/ Tổ chức chính trị thế giới ( khảo luận, nxb Thế giới, Saigon 1955/ có lời TỰA của HÀ VIỆT PHƯƠNG [ Nguyễn đức Quỳnh.]
Hà Việt Phương [ i.e. Nguyễn đức Quỳnh [1909- 06/ 06/ 1974 saigon]
" NGUYEN DUC- QUYNH . Homme de lettres et professeur d'enseignement privé. A été membre de fondateur du groupement Hàn-Thuyên dont Trương Tửu (etati l' âme (1940- 1945). Avec la guerre d'Indochine, il se retira dans le maquis et, en 1952, revint à Hanoi. Actuellement il vit à Saigon et dirigea un certain temps (de 1945 à 1957) le groupe littéraire et artistique Quan Điểm. Principales publications: Edition Hàn Thuyên, Hanoi: romans, surtout psychologiques : Thằng Cu So (Le Petit So) roman,1941, Thằng Phượng ( Le Petit Phương, 1941. Thằng Kình ( le Petit Kình, 1942. Cf. pp. 128. 129."
(DICTIONNAIRE BIOGRAPHIQUE / INTRODUCTION À LA LTTÉRATURE VIETNAMIENNE par M.M. DURAND & NGUYEN TRAN-HUÂN ( Ed. G.-P. Maisonneuve & :arose, Paris Ve, 1969.)
Một văn hữu khác, rất nhiều tài” vặt”; viết truyện cũng được, làm báo chẳng kém ai, ngâm thơ, thổi sáo được trả cachet cao , viết báo được mời nhất định đòi trả nhuận bút sộp, chế độ lính tráng thì từ lính lác leo tới cấp tá- tuy chưa đứng vào hàng” văn thám gia nô” , nhưng ngón nghề trị” bọn văn chương làm loạn” giao cho anh ta thì đàn áp rất hiệu quả !
đó là Tô Kiều Ngân, có một lần nói với tội:" sao TP ra được nhiều sách rô nê ô thế! Chẳng cần phải sai phái bọn viết báo” gia nô” viết chửi bới làm gì cho tốn giấy mực, cứ tóm thằng cha nào cung cấp giấy stencil , giấy in duplicateur là xong ngay! “
Cũng có khi túng tiền mua giấy stencil, cả thức ăn hàng ngày, tôi đành bạo miệng hỏi ông Nguyễn hiến Lê 'liệu có chịu mua sách quí hiếm không'? Ông ta gật đầu , tôi đem “Textes philosophique choisies ” của Biélinsky ( Nhà xuất bản ngoại văn Mạc tư Khoa ấn hành ) gả bán, bây giờ không thể nhớ là được ông trả là bao nhiêu đồng?
Tay này không phải” phú gia địch quốc”, nhưng “ rủng rỉnh xu hào”, biết xài tiền theo châm ngôn tây phú lãng sa: “ l’argent, c’ est un mauvais mai^tre, mais un bon serviteur”, ông Lê biết dùng tiền đúng chỗ, đúng nơi , sử dụng tiền như sử dụng tốt tên tiểu đồng đúng người, đúng việc.
Ông Nguyễn Hiến Lê từ chối Giải tuyên dương văn chương Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, trước hết bỉ mặt giải, thứ hai bỉ mặt chinh quyền không ít, còn gây họa Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa, phỉ nhổ Ban tuyển trạch, mất mặt cả quan trên trông xuống người ta trông vào.
Giải thưởng trị giá 1 triệu Vnđ – 25 lượng vàng Thế Tài .( 4 0000đồng / 1 lương / thời giá 1973), tương đương vé số độc đắc 1 triệu .
Đồng tác giả , nhà biên khảo Giản Chi ( có chân trong BanTuyển trạch) biết trước ông Lê không chịu ký giấy xin dự thi , nên đã báo trước thi sĩ Đông Xuyên+chủ nhà xuất bản Lá Bối, thầy Từ Mẫn,+chủ báo Bách Khoa, Lê Ngộ Châu+ Võ Phiến , " đừng nên mất thì giờ làm gì?"
Trước mặt mọi người, gặp gỡ tại 12/ 3c Kỳ Đồng ( tư thất Nguyễn hiến Lê), chủ nhân khẳng định :
“…Cảm ơn các anh, nếu đồng ý dự giải Tuyên dương, tôi buộc phải ký vào giấy giới thiệu của 2 anh, phải vậy không? Thật tình, tôi không muốn tranh (giải) với ai cả. Tôi (cũng) không muốn nhận một số tiền nào của chính phủ này.”
( ghi chú NV : – giải tuyên dương vẫn được trao cho hai tác giả Nguyễn hiến Lê + Giản Chi- nhưng Nguyễn hiến Lê chỉ nhận bằng tưởng thưởng ,còn hiện kim hoàn trả, nói là xung vào quỹ nạn nhân chiến tranh).
Phan Lạc Phúc ( dưới bút danh Ký giả Lô Răng),viết trong mục” Tạp ghi”: ( nhật báo Tiền Tuyến 20/1/1973):”
(…) về ngành biên khảo ở Việtnam hiện tại, người mà tôi cho là có công nhất phải kể đến Nguyễn Hiến Lê. Nhưng vì một lẽ nào đó, ông không muốn nhận- ( thì) ông Thu Giang-Nguyễn Duy Cần nhận vinh dự trên cũng là một điều ổn thỏa thôi…”
( ghi chú N.V : thời kỳ này ông Mai Thọ Truyền là Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa , mà Thu Giang là cánh tay mặt ông Truyền- thôi thì treo giải cho” đàn em” là tin cậy nhất và không phải nhìn thấy ‘ cái lắc đầu bướng bỉnh”!)
sao trên rừng [ i.e. nguyễn đức sơn 1937- ]
những bài tình đầu/ sao trên rừng
đại nam văn hiến xuất bản, saigon 1962
(courtesy of blog phan nguyên)
Lúc này Sao Trên Rừng đến xin ở với tôi, anh em thổi cơm, đun nước, quét nhà , ta đều chung nhau gánh vác, kể cả gạo hết thì tôi phải xoay mua gạo bằng được đổ đầy khạp. Tôi rất ngại khi đi vay tiền, hoặc phải cấm tiền của bạn bè- vậy là tôi nhờ Sao Trên Rừng cầm sách Bíélinsky , kèm thư gửi ông Lê ở 123/ 3C Kỳ Đồng – tôi dặn Sơn rất kỹ, nhớ cầm tiền về cho đủ.
Ít lâu sau, ông Lê viết thư hỏi, đã bán sách rồi , còn hỏi vay thêm tiền, mà sao không thấy đề cập trong thư? Ông khen tập thơ in rô nê ô” Những bài tình đầu” của tác giả trẻ Sao Trên Rừng , khá nhiều ý tưởng mới- nhưng” anh xác định là vay thêm tiền thì tôi mới đưa!”.
Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, thi sĩ Đoàn Thêm : cũng từng nhắc khéo, có anh bạn trẻ cầm thư tới, nhân danh em của Thế Phong đòi vay tiền.”.
Chàng phó Đổng lý Phủ Tổng thống xem ra thạo đời, biên thư hỏi lại, xác định đúng, thì món tiền vay sẽ được trao ngay! Tuy không vay tiền, tôi vẫn chịu ơn “ tay nhà giàu làm thơ thì chau chuốt, dịch sách rất hoàn hảo , biên khảo thật giá trị’– sau giải phóng, một vị đã qua đời đã mượn tạm sách khảo luận của Đoàn Thêm đưa vào tác phẩm.
đã có một bài báo nhỏ ‘ bóc trần” vụ này, vị’ đạo văn” can đảm nhận , nhưng đổ tội cho con gái làm ở thư viện quên ghi chú thích . Quả:” ở đời muôn sự của chung / có hay là đã biết dùng hay không ?”- và, “ Nghĩa tử nghĩa tận”, tay đạo văn đã qua đời , nên xin chỉ ghi tắt kẻ ‘ đạo văn” tên Tr. Q. V. giáo sư kiêm "tác gia" ( tay đạo văn sinh năm 1934) .
Lại còn một tay nữa, trẻ hơn, háo thắng, ngông nghênh, hãy còn sống ,viết biên khảo , sách luận về phê bình văn học ( cuộc sống ngông nghênh chẳng kém gì văn chương) đã từng “ đạo sách dịch Đoàn Thêm” làm của riêng. Tôi nhớ anh ta mang họ Đỗ ( Đ.L.Th..), không hiểu có phải cùng tổ tông Đỗ Thích không ? – nhưng cùng họ Đỗ với tôi là điều chắc chắn.
Tôi rất giận Sao Trên Rừng, khi Đại Nam Văn Hiến mới in xong tập thơ cho cậu ấy- tiền nợ nhà in rô nê ô chưa trả xong, mà cậu ấy làm vậy thì chẳng ra sao cả. Cậu về tới nhà là leo lên cây trứng cá phía trước sân, tay ngắt trái chin , tay kia lùa vào miệng nhóp nhép , nhằn hột rất khéo léo . Mời cậu xuống hỏi chuyện một chút, hỏi thẳng cậu cầm thư tới các ông Lê, ông Thêm, sao cậu lại nhân danh em của Thế Phong vay thêm tiền, nhưng chưa kịp viết trong thư tay? Cậu rất can đảm, gật đầu; tôi vốn nóng tính, bợp tại một cái, phán : “ … hai chục năm sau hãy trở lại gặp tôi”
. Tới thập niên 90, tôi mới gặp lại Nguyễn Đức Sơn ( Sao Trên Rừng ) ở Chi nhánh Hội Nhà văn VN tại phía Nam. Nữ thi sĩ Ý Nhi , hình như biết chuyện xưa kia tôi từng bạt tai STR, chị cười cười giới thiệu:
”.. hai anh bắt tay nhau đi, vì bây giờ mới có cơ hội gặp lại, phải không ? ”.
Đành gật đầu vui vẻ ,bắt tay thân thiên , tuyệt nhiên không nhắc chuyện xưa- tuy vậy , trước đó , tôi đã đọc một bài viết về ‘ cái bạt tai mà Nguyễn Đức Sơn phải gánh chịu, từ bàn tay hộ pháp Thế Phong, từ trước giải phóng”- do văn hữu trẻ “ nằm vùng” Thái Ngọc San viết trên tạp chí “ Sông Hương”( Huế) dạo nào !
Cao Mỵ Nhân, Phan Văn Thức, Bùi Tiến Khôi- Huy Lực, Diễm Châu – Phạm Văn Rao , Thiết Tố-Đinh Hoàng Trọng, Vị Ý, Phạm Văn Sơn ,Mai Thảo, Trần Dần, Phùng Quán, Văn Nguyên Dưỡng, Ninh Chữ, Cao Thế Dung, R. Tagore, Kiều Thệ Thủy,Phan Nghị, Hoài Khanh, tổng thống Diệm, Trần Trọng Phủ, Triều Đẩu, Nhị Thu, Đào Minh Lượng, Bùi Khải Nguyên,Uyên Thao, Liên Hoàn, Khải Triều, Yvor Winter,Jaques Prévert, Nguiễn Ngu Í, Đàm Xuân Cận, Đỗ Ngọc Trâm, Khải Triều, Đường Bá Bổn, Lloyd Fernando, Jaques Perry, Maxime Gorki, Chu Vương Miện, K.S. Karol, Louis Roubaud, E. Evtouchenko, Maiakovski, Elsa Triolet , Cao Đan Hồ- Cao Thế Dung , Thế Nguyên , , sạp sách báo cô Nguyệt, tạp chí Văn Mới, Trình bày , Sáng tạo…
Từ 1961, 1963 trở về sau , in được nhiều tác phẩm rô-nê-ô: ” Những bài tình đầu” / Sao Trên Rừng-- “ Thơ Mỵ / Cao Mỵ Nhân -- Người đàn bà không tóc/ Thế Phong --11 nhà thơ mới nhất hôm nay / Đường Bá Bổn-- Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh / Thế Phong-- Người lính Casablanca / tập truyện Thế Phong --Người thương binh liên khu / truyện dài Thế Phong-- Nietzsche và Chủ nghĩa đi lên con người / Thế Phong -- Thức giấc trong văn chương hiện đại Ba Lan / Thế Phong-- Năm chương tự ngôn ( hồi ức văn chương Triều Đẩu)-- Sau 20 năm / hồi ký lịch sử / Mai Lâm -Nguyễn Đắc Lộc.-- Hồi chuông tắt lửa / Thế Nguyên --Miền lưu đầy / thơ Ninh Chữ -- Vun xới vườn tình / thơ R. Tagore/ Liên Hoàn dịch-- Đêm đen 20 tuổi / thơ Chu Vương Miện,--Khúc ca nhược tiểu / thơ Cao Đan Hồ ( Cao thế Dung) -- Khúc bi ca nàng tiên nhỏ / Maxime Gorki / Thế Phong dịch-- 11 nhà thơ miền Nam Tự do / Cao Thế Dung --Hiện tình văn nghệ miền Nam: 1957-1961 / Thế Phong-- Nhà thơ và cuộc đời / Eugene Evtouchenko ( Đường bá Bổn dịch theo bản tiếng pháp K.S. Karol “ Autobiographie précoce) -- sau 1975 tái bản mang tựa” Hồi ký văn chương viết sớm” –Nxb Đồng Nai, miền Nam 2003) -- Chiếc roi ngựa, tiểu thuyết C.V. Gheorghiu / Đường bá Bổn dịch / -- Thủy và T6 / tập truyện ngắn Thế Phong-- Con chó liêm sỉ, tập truyện ngắn Thế Phong,-- Lạc Loài+ Gánh bán linh hồn+ Độc Thoại / thơ Thiết Tố (Đinh Hoàng Trọng] -- Maiakovski, thi sĩ Nga/ Elsa Triolet ( Thế Phong dịch) -- Ba mẹ con / tập truyện ngắn Đỗ Ngọc Trâm -- Người ôm mặt khóc/ thơ Khải Triều, -- Việt Nam Bi thảm Đông dương / Louis Roubaud / Đường Bá Bổn dịch -- Lính / Tiền Đồn / Yêu/ Tổ Quốc / thơ Phạm Xuân Dương-- Uplipting Poems by Thế Phong / Đàm Xuân Cận dịch --The Rubbish Tip Outside the city and Other Stories / Thế Phong / Đàm Xuân Cận dịch--Thephong by Thephong, the writer, the work & the life / Đàm Xuân Cận dịch-- Voices from Vietnam / (nhiều tác giả) Đàm Xuân Cận dịch --Vietnam Under Fire and Flames by Thế Phong( poems) / Đàm Xuân Cận dịch -- I was an American militiaman by Đinh Bạch Dân (Thế Phong ) – bản tái bản mang tựa” The Ordeal of an American militiaman “ / Đàm Xuân Cận dịch --Ten years of writing by The Phong / Đàm Xuân Cận dịch -- Asian morning Western Music by The Phong( poems) / Đàm Xuân Cận dịch ( with the Preface of Pr. Lloyd Fernando, University of Malaya ( Malaysia) --South Vietnam, the baby in the arms of the American nurse by The Phong ( poems – English and Vietnamese) / Đàm Xuân Cận dịch --Jacques Perry & thế nào là phi lý / Thế Phong, ( riêng cuốn này ở bìa cánh gà 1, ghi:” Tuyệt đối cấm bọn nô lệ, óc đầy tớ, não thư lại kiểu Phanariote – kể cả bọn văn sĩ nửa mùa đọc sách này / – cuốn sách này được Hội đồng Kiểm duyệt cấp giấy phép số : 580 ngày 3/ 4/ 1963 , vv….
hiện ở Sydney (Australia)
Văn hữu thường tới thăm tôi ở xóm đạo Tân Sa Châu khi ấy là thi sĩ Hoài Khanh từ Biên Hòa về, Cao Thế Dung, Khải Triều, Uyên Thao, Nhị Thu , Cao Mỵ Nhân , Đào Minh Lượng, Triệu Bá Thiệp , Vị Ý, Thế Nguyên, Diễm Châu, Kiều Thệ Thủy, vv…
Còn vài ân nhân nữa cấp stencil và giấy in rô nê ô – nhiều nhất là giám đốc Phan Văn Thức tòng sự tại Bộ Canh Nông, 58 Nguyễn Bỉnh Khiêm ( Saigon 1), sếp của kỹ sư canh nông Bùi Tiến Khôi (làm thơ ký Huy Lực) . Đôi lần tôi đến tìm sếp Thức, nếu không gặp, kỹ sư Bùi Tiến Khôi thường dắt tôi xuống căng tin bộ Canh Nông uống cà phê.
.
Một sĩ quan cấp tá khác, chỉ huy trưởng trường Quân báo Cây Mai, thường sai trung úy tùy viên Nguyễn văn Dưỡng (thi sĩ Văn Nguyên Dưỡng , tác giả một thi tập rất độc đáo) đem tặng tôi hàng chục ram giấy duplicateur. Phải cảm ơn ân nhân thôi, đó là soạn giả” Việt sử tân biên/Phạm Văn Sơnj” , tập đầu, có tựa của giáo sư Nguyễn Đăng Thục.
Nhóm tạp chí “ Văn Mới” của Thế Nguyên, Diễm Châu- Phạm văn Rao trước 1963- tiền thân nhóm
“Trình Bày” , số đầu ra năm 1970.
Mời cùng đọc một bài viết Trần Trọng Phủ đăng trên” Văn Mới” số 2:
“….. Không” Sáng Tạo”, không” Bách Khoa” , nhóm thanh niên rất gần Tô Thùy Yên; qua những tạp chí“ Sinh Lực” ‘ Sống” ( Ngô Trọng Hiếu chủ nhiệm) và trong những ngày gần đây qua loại sách quay rô nê ô của” Sùng chính viện” do Uyên Thao chủ trương và” Đại Nam văn hiến” do Thế Phong làm chủ biên đã đòi hỏi sự chú ý của những người yêu Thơ. Một sự đòi hỏi chính đáng.
Tủ sách” Sùng chính viện” của Uyên Thao giới thiệu Nhị Thu với” Mây Hà Nội”, Hoàng Nguyên tức Bùi Bình Hiếu với” Thiết Tha”, Đào Minh Lượng với” Vô Cùng” và Thế Phong với “ Sai Biệt”… thì ngưng hoạt động.
Thế Phong vốn sẵn dùng phương tiện” ronéotypé” này từ trước, nay lại tiếp tay với Uyên Thao trong loại sách” Sùng chính viện”, khổ nhỏ hơn những tác phẩm trước do” Đại Nam văn hiến”, cho quay ronéo rẻ hơn qua những thi phẩm mà Uyên Thao cho ra đời- Thế Phong giới thiệu chính mình qua” Vương miện Mai- A”, và giới thiệu Cao Mỵ Nhân qua” Thơ Mỵ”...
Những tập thơ” Mây Hà Nội”, “ Thiết Tha”, và” Vô cùng” hiện nay rất khó kiếm. Bạn đọc có thể có một ý niệm sâu rộng về” Mây Hà Nội” và “ Vô cùng”, hiện nay rất khó kiếm. Bạn đọc có thể có một ý niệm sâu rộng về “ Mây Hà Nội” và” Vô cùng”, qua nhận định của Thế Phong- Đường Bá Bổn / Mười hai nhà thơ mới nhất hôm nay”:
“…” Mây Hà Nội” gồm những bai thơ lục bát, năm chữ, thơ mới. Tuy có mang đề tài bất khuất với xây dựng cuộc sống mới cách mạng, nhưng kỹ thuật quá hiền lành, âm thanh, từ ngữ tròn trịa kiểu thơ tiền chiến.
“ Vô cùng” của Đào Minh Lượng hùng hồn hơn, xác định vị trí một người trí` thức trẻ tuổi mang trong mình hoài bão, cũng như nỗi thống khổ của cuộc sống hiện tại. Tâm trạng Đào Minh Lượng dẫn ông tới tư tưởng siêu hình rất dễ dàng,(nhưng) kỹ thuật đặc sệt lối viết thơ Jacques Prévert. Còn ý tứ thơ cũng chưa vô cùng đủ……. ( nhưng dầu sao) .“ Vô cùng” ( vẫn) là một trong những tập thơ đáng được tìm đọc nhất hôm nay…”
Đào minh Lượng (phải) [ 1936- 2012 usa]
(ảnh: Nguyễn mạnh Cường (trái) ở Bolsa cung cấp.)
Còn ông Hoàng Nguyên- Bùi Khải Nguyên với tập” Thiết Tha”, đã cho người đọc thấy rõ tâm hồn tha thiết tác giả đối với cuộc sống lý tưởng, tình yêu và xã hội. Từ những bài đầu tha thiết như “ Tóc mun” , ông đã đưa người đọc vào một thế giới của nổi loạn. Màu sắc xã hội rõ rệt nhất trong nhà thơ này là tập” Thiết tha”. Tuy vậy, ở một vài bài, Bùi Khải Nguyên quá lộ liễu, khiến người đọc có cảm nghĩ là ông tuyên ngôn thơ nhiều quá. Những bài thơ ghi lại kinh nghiệm đớn đau , uất hận, cũng là cách giãi bày như” Ẩn ức” có sức chiêu dụ tột độ…
Đến Thế Phong, một tiểu thuyết gia cách mạng lãng mạn của Hà Nội 1948-1954, một cây bút bình luận dưới bút hiệu Đường Bá Bổn, một người hoạt động vô cùng, tưởng như anh hùng không biết thấm mệt ;trong mấy năm gần đây ở Saigon, còn là một nhà thơ. “ Thơ” và” Sách” của ông từ giai đoạn ông viết LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆTNAM tới nay đều được quay ronéo. Việc quay ronéo này không có gì lạ ở ngoại quốc, như ở Mỹ chẳng hạn, thi sĩ kiêm phê bình gia Yvor Winters quay tờ báo” The Gyrocope” bằng ronéo. Từ đó ( ở Saigon) việc quay bằng ronéo, chỉ thấy ở Thế Phong- Đường Bá Bổn là tha thiết hơn cả. In với giá bán 100 đồng, 200 đồng- một tác phẩm quảng cáo không công cho những hãng kính thuốc ! Tới nay, ông nghiên cứu quay những tập ronéo, với những mẫu bìa hấp dẫn hơn, và gía rẻ hơn; thì kết quả có phần khả quan hơn trước. Chúng tôi được một người bạn của Thế Phong tiết lộ: “ ít lâu nay con số các thi nhân mới tìm tới Thế Phong cậy in tác phẩm ngày càng đông.”
Thế Phong đã cho quay ba tập thơ tất cả:” Nếu anh có em là vợ”, “Sai biệt”,” Vương miện Mai A”. Thế Phong đối với cách mạng, với những hoài bão xây dựng lại cuộc đời. Và cuộc đời nhược tiểu được sắp xếp lại, theo nhà thơ, thì:
“…Nhân loại ấy anh có em là vợ
con nhà cách mạng chính trị gia
và khi ấy hai ta
anh và em
chúng ta trẩy hội
chúng ta r a biển cả
chúng ta lên rừng khơi
chúng ta khắc thơ lên đá
em mỉm cười
nhìn nhân loại đại đồng…”
Giai đoạn 1959 này ( chịu) ảnh hưởng Trần Dần, Phùng Quán. Chúng tôi bỏ qua thi phẩm” Sai biệt”
( chúng tôi mới có dịp lướt qua, nên chưa đủ thâu nhận một thi phẩm hiện nay không thề kiếm( ra) được ).
“ Vương miện Mai A” là thi phẩm thứ 3 của Thế Phong, không phải là lối thơ của nhóm” Sáng tạo”, nó chẳng khác gì về sự tước bỏ niêm luật; nhưng khác ở chỗ ý tứ. Gay gắt hơn, thấm thía hơn, tha thiết và đậm tin tưởng ở tương lai, ở cuộc đời hơn. ( Bởi) Thế Phong vẫn tự hào là cách mạng đến xương tủy –trong thời gian giao tiếp với một lãnh tụ văn nghệ ở đây, (nói về Nguyễn Đức Quỳnh, chủ soái” Đàm trường viễn kiến “ Thế Phong mang thêm trong thơ ý tưởng đập phá, với cái lối coi con người như một phương tiện.
Mối tình của Thế Phong với một nữ sĩ hiện nay đã xuất ngoại cũng khiến ông viết được mấy bài thơ cảm động ( nói về nữ văn sĩ Linh Bảo- không cần phải che giấu nữa, bởi Tạ Tỵ đã viết ra rồi- TP chú thích) , Hãy tim đọc” Dạy dỗ” trong” Vương miện Mai A” để thấy cái khí phách và nhân bản tính ở một cá nhân đầy rẫy điều tiếng như Thế Phong- Đường Bá Bổn.
Đừng đòi hỏi ‘ thơ” ở Thế Phong.
Hãy coi ông làm cách mạng.
Nhà thơ được Thế Phong giới thiệu trong” Loại sách “ Đại Nam văn hiến” là cô Cao Mỵ Nhân. Thực ra, tập “ Thơ MỴ” này, Uyên Thao đã định in ở” Sùng chính viện”. Nay Thế Phong lựa lọc những bài thơ mà ông cho là hay nhất của cô Cao Mỵ Nhân để trình bày với độc giả. (*)
“ Thơ MỴ” in rõ những nét đời sống của cô. Những bài lục bát của cô mạnh dạn như thơ của nam giới, cô còn viết những bài thơ kiểu tiền chiến nói về cây cỏ, đất nước, tình yêu. “Cây cỏ”,” đất nước”… được nhìn qua con mắt hướng đạo viên. Tình yêu thì nhỏ nhẹ, tha thiết, nhưng đôi lúc len vào một thoáng hoài nghi và lắm khi lại xen cả những tình ý bạo dạn, liều lĩnh. Đ6i khi thơ cô có điệu già nua, vay mượn. Tưởng thế thôi, chứ đọc tiếp, ta vẫn lại phải nhìn nhận rằng những nét già nua chỉ là thoáng bắt, và diễn tả lý thú hơn cả tính độc lập trong cuộc sống của Cao Mỵ Nhân.
Tóm lại, “ Thơ MỴ”(*) giản dị, đáng yêu”.
TRẦN TRỌNG PHỦ (**)
-----
(*) THƠ MỴ/ Đại Nam văn hiến, Saigon 1961.
(**) TRẦN TRỌNG PHỦ là bút hiệu chung 2 người: THẾ NGUYÊN và DIỄM CHÂU- bài viết thường đăng trên tạp chí VĂN MỚI ( trước 1963), từ 1970 trên tạp chí” Trình bày” ,’ Đất Nước”…vv Khi tác phẩm “ NGHĨ GÌ?” do Nxb Trình bày xuất bản, chính Thế Nguyên ký tên trên sách đề tặng tôi. Riêng bài viết trên đây ( Văn Mới) , tôi tin chắc đó là bút pháp của Diễm Châu hơn là Thế Nguyên. (TP chú thích).
Thế Nguyên [i.e. Trần gia Thoại 1942- 1969 saigon]
(ảnh: Internet)
Diễm Châu [i.e. Phạm văn Rao 1937- 2006 france]
(ảnh: Internet)
Năm 196 2, tôi cho xuất bản tập thơ” Cho thuê bản thân” ( in ronéo, không xin cấp phép), phổ biến hẹp trong an h em văn nghệ- tuy nhiên một số bản vẫn gửi bán ngoài phố; duy nhất ở sạp bán sách, báo của Cô Nguyệt dám nhận ( ngã tư Lê Lợi + Công Lý, trước của Pharmacie DiệuTâm – , Saigon 1) .Thi tập này được Nguiễn Ngu Í viết bài điểm sách” rất đặc biệt. ( xem ở phần sau.)
Riêng một cuốn sách in rô nê ô bán rất chạy, chạy khủng khiếp, đó là” Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh”.
Sách in chừng 100 cuốn, bán hết vèo, cô Nguyệt đòi giao thêm – mà tôi lại chưa dám trở lại tiệm Ronéo in tiếp- vì tôi nhớ rõ ngày phát hành là ngày 19 tháng 5 năm 1963- tôi đem sách từ nhà in về,
( đường tầu hỏaở đường Trần Quý Cáp) chở trên chiếc xe hơi Hillman cà tàng , Đào Minh Lượng lái – đến đoạn đường tàu nằm trên đường Võ Tánh thì bị cảnh sát ách lại tra hỏi giấy tờ. Thường ra, vào các ngày lễ 19/5/ 19 tháng 8, hoặc 2 tháng 9 vv…- ngày lễ phía bên kia- quân ta nhất loạt bị cấm trại, cấm quân; còn dân chúng ra đường thường bị ách lại kiểm tra giấy tờ. Cũng may lần này, Tòa Lượng chở giùm ( sách in ronéo có giấy phép đi nữa vẫn được oi là” cấm kỵ” huống hồ không giấy phép). Khi cảnh sát thấy tài xế trình thẻ Thẩm phán , thì tổ cảnh sát đồng loạt giơ tay chào, cung kính mời thẩm phán lên xe, không cần phải khám xe cấp trên nữa. Hú vía thật rồi – lúc này tôi mới nhận rõ được giá trị thực sự” ông Tòa Lượng ?!
Lại nhớ có lần, tôi tới chỗ quầy báo cô Nguyệt nhận tiền bán sách; cô cho biết- một ông có dáng dong dỏng cao, mặt dài như mặt ngựa, ăn vận lại chỉnh tề, đi bộ, tay cầm chìa khóa xe hơi tung tẩy, ghé quán báo, cầm cuốn” Nguyễn Đức Quỳnh in rô nê ô ”lên, ngắm nghía, kêu gói lại, xong rồi lon ton cầm đi một mạch. Không thấy khách trả tiền, cô Nguyệt ới lại, chưa kịp đòi, thì ông khách cười cười, nói:
( ảnh : Internet)
– Cô không biết tôi là ai à ? Không phải tôi không có tiền trả hay là quên không trả tiền đâu,
“ thằng tác giả này nợ tôi nhiều lắm. Cứ nói với” nó” rằng :” nhà văn Mai Thảo lấy một cuốn , anh ta biết ngay tôi là ai thôi ?”
Cô Nguyệt hỏi tôi :
– Vậy chú có biết ông ấy không? tên là gì nhỉ, à nhớ rồi .. Thảo … Mai chi đó..
– không phải Thảo Mai đi bán tơ đâu?. Chủ nợ của tôi đấy ,đó là nhà văn Mai Thảo kiêm chủ báo Sáng tạo -- từ 1955 khi ở 13 Đặng Tất/ Tân Định, ông ta cho tôi mượn chiếc máy chữ Remington cũ xì đánh bản thảo. Tôi không trả máy, đem tới tiệm cầm đồ bán lấy tiền “ mua cơm xã ăn để viết sách ." Cô cứ việc trừ tiền cuốn ấy nhé.
Tòa Lượng vừa lái xe, vừa nói bâng quơ:
“ … thằng cha này giàu lắm, “ tiền cho vũ nữ thì rất “sộp”, còn mua sách có 50 đồng , bủn xỉ lại đòi mua thiếu ?"
Nhà báo Phan Nghị viết điểm sách trên báo “ Mới” : ( ngày 18/3/1963)
“…Cuốn”Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh” chỉ là một bản thảo in rô-nê-ô như tất cả những cuốn từ trước tới nay do Thế Phong tự xuất bản: “ dạy học được đồng nào bỏ ra in sách hết”. Đọc” Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh”,người ta có cái khoái, là biết được rất nhiều cái sự bí mật về nhóm Hàn Thuyên và tên mật thám Cút- Xô, về ông Nguyễn Đức Quỳnh, người khác mệnh danh là” tay phù thủy văn nghệ” và nhiều thứ vv… khác; nó là mối tương quan giữa ông Quỳnh và các tay tổ văn nghệ khác ở Saigon.
Cuốn” Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh” chỉ in 100 số. Thiên hạ thi nhau đọc và mượn loạn cả lên.”
Một tập thơ khác của tôi được tác giả” Khi người chết có mặt” được bình trên tạp chí” Tin Sách”:
” CHO THUÊ BẢN THÂN”- Thế Phong – Đại Nam văn hiến xuất bản cục , Saigon 1962- 28 trang in rô-nê-ô- khổ 21x 26- Giá 50 đồng.
Hai mươi tám bài thơ, nhưng mà đọc từ bài đầu đến bài cuối, hai mươi tờ thơ in rô-nê-ô này chiếm thì giờ người đọc bằng cả trăm bài thơ in ty-pô. Ấy là với tập thơ này, kĩ thuật đánh máy và quay rô-nê-ô của tác giả, kiêm giám đốc, kiêm người chạy giấy của Đại Nam văn hiến xuất bản cục đã tiến bộ nhiều lắm rồi.
Nhưng có ai chê trách chi nhà xuất bản, có ai chê trách tác giả, khi mà lòng say mê Nghệ Thuật và ý chí trình diện những đứa con tinh thần của chính mình, của các bạn thân mình nó thiết tha đến nỗi không nề lỗ lã, chẳng ngại chê cười, cứ hàng năm, lại có vài tập hoặc thơ, hoặc truyện, hoặc khảo luận ra đời với phương tiện thủ công, với cái bề ngoài bà con nghèo, và cứ thế đều đặn đã mấy năm nay.
Và nay, trong tập thơ mới nhất của Thế Phong, chúng ta thấy càng rõ dấu vết của cuộc đời lạ lùng, chật vật cùng những ý tưởng không giống người của tác giả, thì âu đó cũng là điều quá dĩ nhiên.
Và những ai thích thơ Đường luật, từng mê thể lục bát… cho rằng thơ phải du dương, phải dễ hiểu thì xin đừng tìm đến Thế Phong. Vì chắc chắn rằng các bạn ấy sẽ bỏ cuộc sau ba bài !
Xin chớ tưởng rằng đây là văn xuôi, tuy trong Cho Thuê Bản Thân cũng có đôi bài không có lấy một vần, hoặc rõ ràng; hẳn là văn xuôi đi mất ( rồi), như bài” Chàng ơi! Chàng đừng quên em !”.
Nhưng thơ Thế Phong là một thứ ngựa rừng, đã không chịu mang yên, ngậm vàm, mà lại thây kệ những con đường mòn có sẵn.
Mời các bạn hãy đọc qua một bài thơ mà tác giả chọn làm tên cho toàn tập :
“ Ngày hôm nay sao dài dằng dặc
tám tiếng đồng hồ làm quần quật chưa đủ kiếm cơm
vì anh tin công việc làm còn phải mạng” đăng ten”
đôi giầy da Thụy Sỹ vẫn cần xi đánh bóng
thiếu tiền mua tặng em chiếc áo bông màu
một con búp bê quà sinh nhật tặng sinh nhật con gái đầu lòng
mà đêm qua em không nói…
anh hiểu nó tủi thân khóc miết..”
Bản thân nhà thơ , buồn, cực, chẳng ra gì, gần như bất lực; thì Thế Phong có cho ai thuê đi, ta cũng chẳng lạ; nhưng mà còn Nguyễn Du, vì sao Thế Phong lại cho thuê đi nốt vị thi hào khả kính dân Việt ?
“…. Tôi hy vọng học trò không bằng lòng lời tôi khen giảng
áo cổ cồn thắt vòng cổ
tôi đấm tôi trong gương soi
cho thuê Nguyễn Du
sự cần thiết không lấy bồi thường
thì ra tác giả đem Nguyễn Du ta giảng giải cho học trò, và thấy rằng Nguyễn Du không xứng đáng:
….tôi khinh tôi ra mặt chót khen tràn cổ nhân
tôi phỉ nhổ tôi thực sự phê bình Kiều danh tiếng
trong văn học sử tôi sổ toẹt tên thi hào vỏ
chỉ đại diện cho một góc cạnh nhìn đời nho nhỏ…
( Cho thuê Nguyễn Du)
Thơ Thế Phong thiếu nhạc, thiếu cả tiết điệu, do đó khổ đọc là điều ta phải chiu khi muốn làm quen với thơ Thế Phong. Nhưng độ sống lắm chiều của tác giả, những ý tưởng ngược đời của người thơ cũng phản ảnh được cái gì của cái thời hỗn tạp hậu chiến.
Trắng trợn, sỗ sàng, tàn nhẫn, ta đều thấy đó đây trong thơ Thế Phong; nhưng sự chân thành, không bao giờ vắng mặt. Âu đó cũng là một điều đáng kể cho người tự cho mình là kẻ bị lưu đày:
“ Tôi mang sự lưu đày tù ngục giam trong đôi ngươi
ra đường mình kẻ xa lạ mọi người
khi bản án chung thân tự mình ký nhận
khi chán chường không thể bộc lộ cho đời…”
Một nhân vật tự lưu đày của J. Paul Sartre ( Frank trong Les Séquestrés d’ Altona ) khi ngồi trong phòng kín, thường lên tiếng trần tình trước một bầy cua. Nhân vật đó tự dối mình, dối người, dối cả bầy cua, là những sinh vật duy nhất chịu nghe những lời lảm nhảm. Thế Phong cũng tự cho mình là người tự lưu đày. E sợ người đồng thời không hiểu nổi mình, anh xoay lưng lại cuộc đời, ghi lấy thi thần, để giãi bày những từ khước, những chối cãi, những phủ nhận, những mộng ảo…
Kể ra làm thi thần của kẻ tự lưu đày cũng là điều khổ hạnh lắm thay ! "
NGUIỄN NGU Í
( trích báo” Tin sách” ( Saigon) / chủ nhiệm: Nguyễn ngọc Linh.(số tháng 10/ 01 1962.)
(courtesy of Newvietart.com)
" NGU-Í vrai nom NGUYỄN HỮU NGƯ. Né le 20 avril 1921 à Tam-tân (Bình-thuận) Centre-Vietnam. Journaliste, romancier et professeur d'enseignement privé. A collaboré aux diverses revues du Sud Vietnam Sinh-lực; Văn hóa nguyệt san; Phổ thông; Bách-khoa; Nam -kỳ tuần báo (de Hồ Biểu Chánh). Très actif sur le plan journalistique, a fait de nombreux reportages et interviews à partir de 1940. Principaux livres parus: Lịch sử Việt Nam ( Histoire du Vietnam), tome I , saigon, 1958 avec le pseudonyme Phạm Hoàn Mỹ; Khi người chết có mặt (Quand le mort est présent), roman pschychologique, Saigon 1962. Cf., pp. 136, 173. "
(DICTIONNAIRE BIOGRAPHIQUE/ INTRODUCTION À LA LITTÉRATURE VIETNAMIENNE par M.M. DRAND & NGUYỄN TRẦN-HUÂN (Paris 1969).
Tác giả“ Thơ điên”, truyện” Khi người chết có mặt”, sách biên khảo” Sống & Viết” với… “ ký Nguiễn Ngu Í (*)”- anh nhắn tin , lại còn muốn được phỏng vấn thêm một lần nữa – hình như tôi từ chối – thật sự vì không thể trả lời; vì đã không còn ý định tiếp tục viết “ Có một nền văn nghệ Việtnam trong tương lai ?”- mà độc địa thay, thiện ý vội vã loan tin tới bạn bè, báo chí-- quả thật đây là một điều dại dột không tưởng ?!
Cúi đầu xin lỗi bạn văn, cả bạn thù, và bạn đọc thân mến !
------
(*) Nguiễn Ngu Í ( 1921-1979 Saigon). Tên thật Nguyễn Hữu Ngư, quê quán: Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Các bút danh khác: Nghê Bá Lý, Trần Hồng Hùng …Học trường Pétrus Ký Saigon, và năm 1942 đã cộng tác với” Nam Kỳ Khởi Nghĩa”
( chủ nhiệm: Hồ Biểu Chánh),” Phương Đông” 1954 ( chủ nhiệm: Hồ Hữu Tường)( Saigon ) vv…Tác phẩm chính: “ Khi người chết có mặt”,( Saigon 1962), “ Sống và viết với…” ( Saigon 1966), “ Hồ Thơm-Nguyễn Huệ / Quang Trung”
( Saigon 1967),” Có những bài thơ” ( Saigon 1972,” Khi người chết trở về” vv…
Thái Tú Hạp, chủ nhiệm báo Saigon Times ( Huê Kỳ) nhận xét về Nguiễn Ngu Í :
”…Trước thời điểm lịch sử đầy nghiệt ngã, đau thương 1975 – trong những sinh hoạt văn nghệ gây nhiều chấn động bất thường nhất ở miền Nam, là hiện tượng Nguiễn Ngu Í , Nguyễn Đức Sơn (Sao Trên Rừng), Thế Phong và Bùi Giáng…”
(Thái Tú Hạp / Giang sơn một gánh dị thường / web Xứ Quảng. com / Sunday, 22 May 2005).
tổng thống Diệm, Phạm Duy, Phạm Quang Huyến, Hoàng Trọng Miên, linh mục Mai Ngọc Khuê,
Cao Thế Dung, kịch sĩ Năm Châu, Thế Phong, báo Tiếng Dân, chủ báo Nguyễn văn Châu, Phan Văn Tạo,
Lãng Nhân, Nguyễn Doãn Vượng, Đinh Xuân Cầu, Bùi Khải Nguyên, họa sĩ Ngọc Dũ, Nguyễn Jeff Bezos,…
Cũng khó quên ‘ kẻ thù ta đâu có phải là người” , nói như Phạm Duy- ấy là một cách không quên tác giả Hoàng Trọng Miên, soạn giả” Việt Nam Văn học toàn thư” , bị lên đoạn đầu đài tội ” đạo văn” , khi tôi viết bài lên án trên báo “Văn hóa Á châu”- anh ta trả thù ,bằng cách viết bài trên báo” Văn hữu” – lên án việc in ảnh thật lớn trên bìa sách , là có thâm ý, chẳng hạn khi bị đưa đi ” chỉnh huấn” thì có kẻ thương nhớ nhìn thấy mặt. Hình như phong trào in ảnh lớn trên bìa tác phẩm chưa ai hơn tôi , thời Đệ nhất Cộng hòa Tổng thống Diệm- nếu so sánh, ảnh in trên bìa sách , họa chăng chỉ thua bích -chương – ảnh các vị dân biểu, thượng nghị sĩ dán la liệt trên tường , mỗi lần tranh cử mà thôi. Có lần tôi đã nhắc chuyện nhật báo ” Tiếng Dân”, trung tá Nguyễn văn Châu chủ nhiệm, loan tin 2 cột trang 1:
"kịch sĩ Năm Châu , nhà văn Thế Phong bị đưa đi chỉnh huấn tại Vĩnh Long”
– bản tin tiếng Pháp, Anh, Việt / ViêtNamPress số 4019 đề ngày 23/3/1963 đính chính :
“D’après le journal “Tiếng Dân” lancé la nouvelle que l’essayiste Thế Phong est actuellement détenu par les autorités Vietnamiennes pour lavage de cerveau. Les mensonges des communistes ont fait long feu.“ Tiếng Dân” souligne que le monde peut voir Thế Phong dans ses promenades journalìères rues Lê Lợi et Tự Do….”.
Đó là năm 1961, khi tôi đang thuê nhà ở xóm đạo Tân Sa Châu, cha xứ nhà thờ, linh mục Mai Ngọc Khuê vẫn thường mặc áo choàng đen đi bộ qua nhà trọ tôi, thuộc địa hạt Ngài cai quản .
Tôi tiếp tục ở đây được vài tháng nữa, đã 3 tháng không trả tiền thuê nhà. Không một nơi nào đăng bài để có tiền độ nhật, tôi bị đẩy vào thế bí nhất- người yêu đã mang lon chuẩn úy ra trường, đổi đi miền Lục tỉnh- thôi thì đành phải trốn thôi. Một bó thư tình của người yêu xem chừng nặng tới 3 kí-lô, gọi bán ve chai thì không nỡ- tôi đem thư ra gốc cây trứng cá đốt, chừng đâu cả nửa tiếng đồng hồ, bỗng một cơn gió lốc thổi ào tới báo mưa giông, đống than tro nhẹ bay tỏa khắp vườn.
Cũng đành phải giã từ xóm đạo Tân Sa Châu ; thôi thì đành bỏ lại nơi nhà thuê tủ quần áo, sách vở – và, sáng mai mua vé xe đò trực chỉ về Bà Rịa, nơi ẩn trú tạm thời tại nhà bà cô ruột, chú dượng ở. Bà Rịa vậy.
Thời kỳ in sách rô- nê ô đã không phép, lại còn gửi tặng sếp thông tin , thật chẳng khác gì:” lạy ông tôi ở bụi này”- vì thế một công văn khẩn từ Nha Tổng Giám đốc Thông tin trực thuộc Bộ Công Dân Vụ gửi tới – đề ngày 10/ 7/ 1963:
“….Quý Ông đã có nhã ý gửi tặng tôi ( Tổng giám đốc Thông tin) bản dịch” La Cravache” của Gheorghiu do “ Đại Nam văn hiến” phát hành, chúng tôi xin kính gửi lời chân thành cảm tạ.
Song le, trên phương diện kiểm duyệt, Nha tôi nhận thấy” Đại Nam văn hiến xuất bản cục” đã hiển nhiên vi phạm vào luật lệ hiện hành, vì đã không nạp duyệt tác phẩm trước khi xuất bản.
Ông Giám Đốc ( ý nói về Thế Phong – TP chú thích) cũng đã thừa rõ những phiền phức có thể xảy ra với hành vi phạm pháp trên đây. Nhất là, khi nhận được lá thư gửi ‘Anh, Chị làm nghệ thuật và độc giả”- Nhachúng tôi đã tùng tại công văn số 3491- CDV-TT / HĐKD ngày 2 tháng này, lưu ý yêu cầu ông Giám Đốc gửi duyệt những tác phẩm mà Đ. N. V.H.X.B.C. định cho ra mắt độc giả.
Vì lẽ đó mặc dầu tôi rất quí trọng ( tổng giám đốc Phan Văn Tạo còn là tác giả tập truyện ngắn” Cái bong bóng lợn”- TP chú thích) các văn phẩm, Tôi không thể nào với tư cách Tổng giám Đốc Thông Tin, nhận gửi tặng một tác phẩm không kiểm duyệt, dù là bản này in ronéo.
Tôi xin phép được trả lại quý Cục cuốn sách trên.
Tôi cũng lại xin dành quyền hành động, theo các điều 6 và 7 nghị định số 275- PTT/ TTK ngày 5/4/1954 ấn định thể lệ kiểm duyệt các ấn loát phẩm trong nước.
Vài lời thành thực mong Ông Giám Đốc thông cảm và xin trân trọng kính chào ông Giám Đốc .
Kính thư
PHAN VĂN TẠO
đã ký và đóng dấu)
Chế độ Ngô Đình Diệm chấm dứt vào cuối năm 1963.
Từ 1964, tôi được cấp giấy phép cho xuất bản, in ty pô dăm cuốn: Việt nam bi thảm Đông Dương
( dịch L. Roubaud), Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh / Thế Phong-- Thiết Tha ( thơ Bùi Khải Nguyên) -- Đôi kính tập kịch ngắn Đinh Xuân Cầu --2 cuốn này đặt in tại nhà in siêu đẳng Kim Lai Ấn Quán , do Lãng Nhân làm giám đốc và tổng lý Nguyễn Doãn Vượng, quản lý nhà in. Thi sĩ thiếu tá Bùi Khải Nguyên và chính trị gia Đinh Xuân Cầu phán:
"Ông cứ đưa in linograph tại Kim Lai Ấn Quán, đắt bao nhiêu ta trả đủ , không thiếu một xu! cho bõ Đại Nam Văn Hiến khi xưa toàn phải in ronéo !"
(tiện dịp; một số bìa sách của Đại Nam Văn Hiến cũng được đặt in tại Kim Lai Ấn Quán; chẳng hạn bìa sách THE VIETNAMESE LITERARY SCENE, chẳng hạn.)
Đinh Xuân Cầu, tác giả tập kịch ngắn ĐÔI KÍNH (Đại Nam Văn Hiến, Saigon 1964)
(hàng dưới cùng: -- nữ văn sĩ Linh Bảo [1926- ] -- Đinh Xuân Cầu [1920- 197x)
-- Mai Thảo [1930- 1998 usa.) -- (tư liệu ảnh: Tp.)
***
Vào thập niên đầu thế kỷ XXI, Amazon. com tung lên mạng nhiều cuốn sách chuyển ngữ tiếng anh của tôi, do anh Đàm Xuân Cận dịch , in và phát hành trước 1975.. Theo tôi biết một số Thư viện Mỹ đều có sách của tôi, chẳng hạn Cornell University Libraries, Library of Congress, Thư viện Đại học Iowa, SIU, Thư viện Cộng đồng Houston ( bang Texas), Thư viện Quốc gia Úc châu vv… Ở Mỹ, nhà xuất bản chỉ vào thư viện lục ra đem phổ biến, không cần xin phép tác giả, bị phát hiện , bị khiếu nại trả bản quyền , thì thủ thế im lặng là đắc sách.
“ Thephong by Thephong, the writer, the work & the life– “ “ vừa bán 1 used (*) from $64,99 vừa tung lên mạng Kindle Store, dạng ebook-- sau này ở một mạng khác, bán 1 used tới $650.00.
——
* c hú thích N.V: –used, bản COPY giống hệt bản chính) .
—————————-
-” Thephong by Thephong; : The writer, the work & the life, autobiography; The Phong Books
( www.amazon.com/Thephong-writer-work-life-autobiography/dp/B007 JUSLA 160K- CACHED SIMILAR ).
–A Brief Glimpse at the Vietnamese literary scene, 1900-1956 / The…
Available in the National Library of Australia Collection. Author ThePhong, 1932-
Format, 42 p.; 27 cm
ula.gov.au/cat-vn2 196750- 26k- Cached Similar
-Amazon.com Vietnamese literatu
-Amazon.com: Vietnamese Literature: Books A Glimpse of Vietnamese Oral Literature: Mythology, Tales, Folkore by Loc… Vietnamese Literature: A Brief Survey- by Nguyen Dinh Hoa ( Paperback- 1994)
-www.amazon.com/ s?ie UTF8 & index books&field-keywords Vietnamese %
20 Literature & page – 1- 160k- Cached Similar pages
một vài NXB khác:
– www.Booknear.com; Dai nam Publisher Books ; Booknear.com : A Brief Glimpse at the Vietnamese Literary Scene, 1900-1956 by The Phong…
– www.Booknear.com/Dai-Nam-publisher_ihtm-19k Cached- Similar pages
qua Google/ Search … còn hiển thị:
Book Cattalog: abri-vol.15
– A Brief Glimpse at the Vietnamese scene, 1900-1956, The Phong Saigon, Dai Nam Van hien Books
– [ 1974], 42p. A brief grammar and vocabulary of the…
col.bookmaps.org/a/abr_15html- 34-Cached Similar pages
tiếp theo, ở:
get CITED ThéPhong ( b. 1932, d.—-)
-ALL PUBLICATIONS IN REVERSE CHRONOLOGICAL ORDER
Author The Phong ( 1974) A Brief Glimpse at the Vietnamese literary scene, 1900-1956 Saigon: Dai Nam Van Hien Books
đến Open Library beta
[Edit][ History] last modified April 1.2008
A brief glimpse at the Vietnamese literary scene, 1900-1956 BUY
Published in 1974, Dai Nam Van Hien Books ( Saigon) Not available for this book
CHANGE COVER BORROW
Other titles: Vietnamese literary scene from 1900-1956 Not available for this book
BROWSE
Google Book Search (novices)
DATA COMES FROM AMAZON,
Library of Congress, and users likes you
By: ThePhong; translated by Dam Xuan Can
Statement :
Language : English
Pagination: 42p.
LCCN: 76368219
Dewey: 895.9/22/09003
LC: PL 4378.9.T562 B7 1974
Subject: – Vietnamese literature – 20 century
-History and criticism.
——–
http://openlibrary.org/b/OL 4940841 M/brief-glimpse-at-the-Vietnamese-literary-scene % 2C
mới nhất là cuốn “ T.T.KH., Nàng là Ai?/ Thế Nhật ( tức Thế Phong) vẫn do Amazon.com tung lên mạng Kindle Store- và bán 1 used from $30,00 , không xin phép tác giả, tôi bèn gửi thư ngỏ khiếu nại tới Tổng giám đốc CEO Jeff Bezos yêu cầu trả bản quyền .
- ở California, duy nhất một cơ quan báo chí thông tấn truyền thanh, truyền hình CALITODAY.COM đăng “Thư ngỏ gửi Amazon.com ( lần thứ 2)- phổ biến trên mạng Amazon.com
( ebook) T.T.KH., NÀNG LÀ AI? / THẾ NHẬT ( THẾ PHONG) .( ngày 20 June 2011)
- trong nước, duy nhất có web ‘ VĂN NGHỆ NGƯỜI SAIGON (trang chủ: Nguyễn Việt) phổ biến trên mạng . (ngày 6 tháng 7 năm 2011.)
cũng mời xem thêm tại < Google / Search / T.T.Kh., nàng là ai?-amazon.com> hoặc < Google / Search / nhà văn thế phong>
http://www.amazon.com/T-T-KH-nang-Mot-nghi-van/dp/B001UZBXFU
– và bây giờ, lại tới số phận cuốn T.T.KH., NÀNG LÀ AI ? lại vi phạm bản quyền một cách trắng trợn!
( piracy / the crime of making and selling illegal copies of computer programs, books --theo định nghĩa từ điển American English-Mac Milan )tôi lên án đã làm một cách tồi tệ ; đó là Amazon.com của tổng giám đốc Jeef Bezos?!
Với tôi, chỉ còn một cách duy nhất là dâng lời cầu nguyện:
” Chúa ơi, xin Ngài tha thứ tổng giám đốc Jeef Bezos ( b.1964, d.— ) , đừng vội ngắt hơi thở, để anh ta được sống lâu hơn, mãn nguyện cung cách làm giàu trên xương máu tác giả , thực thi dài dài kiểu “ piracy- copyright infringement” – thu lượm quả ngọt trên cành lại quên khuấy công lao kẻ trồng. Amen ! “ ( *)
Jeef Besoz [ 1964- ] Chief Executive Officer of Amazon
(courtesy of BUSINESSINSIDER.COM )
- không chỉ Cornell Univeristy Libraries, Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ và nhiều thư viện khác trên đất Mỹ, có sách của TP ... Rồi vào năm 2011-13; nhà làm phim Lawrence Johnson ở Oregon tới phỏng vấn tôi ở Saigon, tiện dịp tôi nhờ nhà làm phim " hãy trao một số sách của tôi (kể cả bản thảo chưa in+ notes ) +sách bạn bè tôi; cho một thư viện nào đó ở Hoa Kỳ; mà ông chọn. " Sau đó, nhà làm phim góp ý, nên tặng Washington University Libraries; mà ông ta quen -- ( trên đây là thư của Mrs.Judith Henchy, trưởng bộ phận Southeast Asia Section/ Washington University gửi lời cảm ơn.)
worldcat.org/identities/ ghi lại rất đầy đủ, chi tiết gần 50 tác phẩm của TP.
Saigon 27 July 2011
THẾ PHONG
——-.
* bản tu chỉnh sau cùng .(TP. chú thích, 29 July, 2011).
< trích từ www.vantholacviet.com >
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ