Thứ Hai, 12 tháng 6, 2017

về văn nhân, thi sĩ chế lan viên [ i.e. phan ngọc hoan 1920 - 19/06/ 1989 saigon]-- blog phan nguyên

Chế Lan Viên (1920-1989)






















Chế Lan Viên
Phan Ngọc Hoan
 (20/10/1920 Quảng Trị - 19/6/1989 Tp/HCM)
hưởng thọ 69 tuổi 
nhà thơ, nhà văn



















 Những bài thơ "trăn trở"của Chế Lan Viên lúc cuối đời





Khi Cây Chết

Khi cây chết, ta làm chim bơ vơ
Khi không gian đã hết những đợi chờ
Khi trưa xuống khóc trên lòng sông bể
Ta muốn ta mai sau là hạt lệ
Khóc trên lòng hậu thế cũng đau thương.












Một người bình thường

“Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh
Xác anh em và xác con mình
Anh xếp trên giường nhà anh như họ còn nằm ngủ
Vợ, dâu anh thì sợ
Nhưng anh vẫn làm nhiệm vụ
Việc ấy không để lại hào quang trên tay
Ánh sáng gì trong mắt
Hay huân chương trên tường
Có khi bản thân anh cũng muốn quên giữa cuộc đời chật vật
Còn ta à! Thì bận vì dạ hội, liên hoan
Tình ca, hội thảo...
Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta quên
Quên rằng giờ chiến thắng mười năm
Anh ta vẫn khổ
Con vào trường không có chỗ
Đến bệnh viện không tiền
Ra đường không ai nhớ
Về làng người ta quên”

1985










Ai? Tôi!

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?
Tôi! Tôi - người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười

1987













 Bánh Vẽ

Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ
Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn
Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối
Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai
Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt?
Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn
Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi,
Họ cũng ngồi thôi 

Nhai nhồm nhoàm


(Prométheé 86, Văn học và Dư luận, 8-1991)











 Trừ Đi

Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay...trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Ðã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!
(Tạp chí Văn, Paris 1992)















Tìm Đường

Nửa thế kỷ tôi loay hoay
Kề miệng vực
Leo lên các đỉnh tinh thần
Chất ngất
Theo các con đường ngoắt ngoéo chữ chi
Gẫy gập
Mà đâu được gì ?
Khi tôi cưỡi trên mây
Thì máu người rên dưới đất
Mẹ hỏi tôi
- Con lên cao mà làm chi ?
Mẹ ở dưới này cơ cực
Về đi !
Ôi ! con đường không ra đường
của kẻ tìm thơ
Cái thơ không ra thơ của kẻ tìm đường
Đã gần hết thời gian của tôi ở trên
trái đất
Mà tôi chưa có thể trả lời cho mẹ
Mẹ đâu biết cho rằng:
Hoa tôi hái trên trời
Cũng chính là nước mắt
Dưới xa kia

(Rút trong tập nháp: Bào thai và mảnh vỡ)















 Tay Thứ Mấy

Phật trăm tay, anh gửi mình
vào cánh tay thứ mấy
Nhiều tay chi thêm bối rối
trước đời
Dẫu trăm tay không thể níu
mùi hương lại
Và mùa xuân trôi tuột, ở Như Lai












Khoảng Cách

Khi em xoay lưng lại với anh 
Hai đứa cách nhau một vòng quay Trái Đất 
Khi hai đứa mắt đã soi trong mắt 
Thì không gian còn khoảng cách nào đâu












Mùa Ve


Tất cả trẻ phố phường 
Ngây dại với mùa ve 
Sáng dậy từ rất sớm 
Khuya thức chờ rất khuya. 

Tay cầm một ngọn đèn 
Tay khum khum che gió 
Bóng trẻ lẫn thân cây 
Theo tiếng ve im, rộ. 

Hai dãy sấu bên đường 
Ran lên rồi im bặt 
Như mưa rào từng chặp 
Như tình yêu thất thường. 

Ồ! Còn gì lạ hơn 
Chú ve con quằn quại 
Lột mình thay vỏ non 
Cái hình xưa vứt lại. 

Cái phép lạ phi thường 
Không dưng mà bỗng có 
Trẻ con nhìn nín thở 
Đôi cánh ve mờ sương. 

Ngày nhỏ ta tìm ve 
Dưới gốc cây vườn mẹ 
Ai hay lớn vào đời 
Lại vẫn tìm như thế. 

Cái tìm không phút nghỉ 
Tuổi mình vào sáu mươi 
Thơ, tình yêu, chân lí 
Cái lột vỏ của đời.

nguồn: Mùa hạ trong thi ca, tuyển thơ nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2007 





















Quách Tấn -- Nguyễn Đình -- Chế Lan Viên


Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. 

Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ. 

Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. 

Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí. 

Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn-đường 9 (Quảng Trị), Chế Lan Viên gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương[1]

Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo Văn nghệ). Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội. 

Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 (tức ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi. 

Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996). 

Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Phong cách của Chế Lan Viên
Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ"[2], thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-1958). 

Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn [3] với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm". Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ. 

Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã "đến với cuộc sống nhân dân và đất nước, thấm nhuần ánh sáng của cách mạng"[4], và có những thay đổi rõ rệt. Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự. Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống"[5]

Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lí. "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa"[6] Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.

  
Các bút danh

Ngoài bút danh Chế Lan Viên (được hiểu là tác giả tự nhận mình là bông hoa lan trong khu vườn nhà họ Chế- dòng họ vua chúa của dân tộc Chàm ở nước Chiêm Thành xưa) nổi tiếng, trong bài giới thiệu tập tiểu luận Những bước đường tư tưởng của tôi của Xuân Diệu, đăng trên báo Văn học tháng 9 năm 1958, ông ký bút danh Thạch Hãn (tên một con sông tỉnh Quảng Trị quê ông). Nhiều bài báo in trên báo Thống Nhất, xuất bản ở Hà Nội trước tháng 5 năm 1975, ông cũng ký bằng bút danh này. 

Từ năm 1959 đến năm 1963, trong thời gian làm biên tập báo Văn học, phụ trách chuyên mục Nói chuyện văn thơ, trả lời bạn đọc, ông ký bút danh Chàng Văn. Năm 1961, Nhà xuất bản Văn học đã cho xuất bản hai tập Vào nghề và Nói chuyện văn thơ của tác giả Chàng Văn. 

Trong mục Nụ cười xuân trên báo Văn học, Chế Lan Viên có hai bài viết ngắn là Ngô bói Kiều và Lý luận Đờ Gôn ký tên Oah (tức Hoan).



























Tác phẩm chính







Thơ



Gửi các anh
(1960)
 
...Cái vui bây giờ
A và H
Đêm ra trận
Đêm tập kết
Ðêm xuân sầu
Đọc Kiều (I)
Đi ra ngoại ô
Đi thực tế
Điện và trăng
Ý nghĩ mùa xuân
Ôi chị Hằng Nga cô gái Nga
Bay ngang mặt trời
Cành hoa nhỏ
Cành phong lan bể
Cách chia
Cỏ nghĩa trang
Cờ đỏ mọc trên quê mẹ
Chị văn công
Chớ hái hoa trong bệnh viện
Chim lượn trăm vòng
Gắn huân chương
Gốc nhãn cao
Giữa ngày Phú Lợi
Giữa tết trồng cây
Hai câu hỏi
Hoa đào nở sớm
Hoa hồng trong bệnh viện
Kết nạp Đảng trên quê mẹ
Khi đã có hướng rồi
Lá nguỵ trang
Lạ nhà
Lương mới
Mây và hoa
Mặc dù trong đêm, mặc dù trong tối
Mẹ
Một ngày thống nhất, ngày mai
Nay đã phù sa
Nỗi đau ngày cũ...
Ngô thuốc độc ngợi ca máy chém
Ngủ rừng Lào 1952
Nghĩ về thơ (I)
Ngoảnh lại mùa đông
Ngoảnh lại mười lăm năm
Người đi tìm hình của nước
Nhật ký một người chữa bệnh
Nhớ Bế Văn Đàn
Nhớ Việt Bắc
Qua Hạ Long
Tàu đến
Tàu đi
Tình ca ban mai
Tặng An-tô-kôn-sky
Tết trung thu
Từ xa rừng bản...
Thăm bia liệt sĩ Nam Ninh
Theo tình nguyện quân qua biên giới năm 1952
Thư mùa nước lũ
Tiếng chim (I)
Tiếng hát con tàu
Tiếng hát thằng điên trong dinh Độc Lập
Toán
Trên dải Trường Sơn
Trông thư
Trăng
Trưa
Vàng của lòng tin
Xa Tổ quốc
Xóm cũ
Xem ảnh
Xuất cảng trúc




Hoa ngày thường - Chim báo bão
(1967)

60 tuổi một nhà thơ lưu vong nước Thổ
Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta
Đức Chúa Trời của chúng mặt Xa-tăng
Đừng quên
Đi trong hương chùa Hương
Ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng
Bé Thắm đàn
Cái hầm chông giản dị
Cây dẫn về em
Cảnh giác
Cờ giặc Mỹ
Chùm nhỏ thơ yêu
Chiều
Chim vít vịt
Con đi xơ tán xa
Con cò
Con hỏi cha
Con lên Quế Võ
Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa
Con tập nói
Con thức dậy
Cuối năm
Cuộc vui trong dinh Độc Lập
Dậy
Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ
Hoa những ngày thường
Không ai có thể cứu chúng mày
Làm bà mẹ ở Việt Nam
Lộc mùa xuân
Mây và hoa trên Vạn Lý Trường Thành
Ngọn lửa Mô-ri-xơn
Nghĩ về Đảng
Nghĩ về thơ (II)
Người thay đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi
Nhớ
Nhớ em nơi huyện nhỏ
Phải có thời gian
Quả vải vào mùa
Sao chiến thắng
Sông Cầu
Suy nghĩ 1966
Tôi đi từ... Tôi đến...
Tặng bạn gần gửi những bạn đang xa
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
Thành phố tuổi thơ
Thóc mới Điện Biên
Thế đấy mà miền Nam
Trời đã lạnh rồi
Trước hầm Đờ Cát





Những bài thơ đánh giặc
(1973)

Đào
Đạp tuyết
Đặt tên con
Đọc "Bất khuất"
Đợi thư con
Bác
Bác vẫn còn đây
Búp lộc vừng
Cành đào tiểu đội Y
Cây giữa chu kỳ
Cây mai vườn Thống Nhất
Cầu vồng
Chim ấy, rau này
Chim bao gặp mẹ
Chim biếc Vĩnh Linh
Chim con trong liễu
Chim về
Chuỗi thơ anh Trỗi
Chơi chữ về ngõ Tạm Thương (tức Tạm Sương)
Chơi Yên Tử, nhớ Hoa Yên
Dương liễu thôn
Hồng trận địa
Hoa chùa Hương
Hoa gạo son (I)
Hoa lau trắng
Hoa mộc trong vườn Bác
Hoa quê mình
Hoa tháng ba
Hoàng thảo hoa vàng
Im bớt màu hoa
Lòng anh làm bến thu
Lặng im thì mới nghe
Liễu cũng chờ em
Mai
Mây của hoa
Nội dung và hình thức
Nghĩ suy 68
Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...
Nghìn rưởi ngày đêm
Nhánh đào yêu
Nich-xơn chơi hoa
Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể
Rễ... hoa
Súng bên bàn
Sổ tay thơ
Sơn Mỹ
Tặng một chiến sĩ Pathét Lào
Tặng thơ
Từ đất đến bình
Thời gian không đợi
Thời gian và nỗ lực
Thăm sư cụ ngày mùa
Tranh ngựa
Trận tuyến này cao hơn cả màu da
Trở về Quảng Bá
Trăng hoả tuyến
Trung thu 69
Tu hú
Tuỳ bút một mùa xuân đánh giặc
Tuyên bố của mỗi lòng người, khẩu súng, cành hoa
Vừa thấy môi hoa
Vườn mẹ không hoa
Xuân 68 gửi miền Nam Tổ quốc
Xuân vĩnh viễn








Ngày vĩ đại
(1976)








Hoa trước lăng Người
(1976)






Hái theo mùa
(1977)
 
Anh ấy tên Đào
Đói
Đến con trẻ cũng lưu đầy ư, nước Mỹ?
Đọc Kiều (II)
Đi giữa mùa xuân
Biện chứng
Bướm Trường Sơn
Canh cá tràu
Cành mai ở chốt
Các anh xưa
Cây và bóng
Chân trời
Chơi với sư
Dây thép gai
Dọc đường
Gửi Nguyễn Du
Gửi nhà thơ lớn Chi–Lê: Pa-lơ-lô Nê-ru-đa
Gió mùa đông bắc
Giống quê ta
Hai bờ Bến Hải
Hai danh hiệu
Hai giây
Hầm rượu nho
Hoa đại đỏ
Hoa gạo son (II)
Hoa hoài trên đảo Long Châu
Hoa súng hồng
Hoa súng tím
Hoa trong vườn mẹ
Hương lúa hương rừng
Hương lúa vào chùa
Hương trái đất
Kém mắt
Làm Hăm-let ở Việt Nam
Lời ru tháng chạp
Lửa rừng
Nếu
Ngày vĩ đại
Nghe sóng
Nhắn Tô Đông Pha
Pháo binh
Pho, tên mẹ mìn của thế kỷ hai mươi
Quá nửa đường
Quê và hương sơ tán
Ra hoa và đậu củ
Rừng Cúc Phương
Sau cơn bom, hoa sữa
Tìm lại ra mình
Tóc mẹ
Tấn kịch
Tập qua hàng
Tằm và nhện
Tặng Việt kiều về nước
Tự trách mình
Thà nó cứ là thằng mất dạy
Thỏ thẻ hoà bình
Thống kê ở ga Yên Viên
Thơ bổ sung
Tiếng bom
Tiếng chim (II)
Tiếng cười năm đói
Tiếng gọi
Tiếng mùa xuân
Trang giấy
Trận đánh
Tương quan
Và ong
Vào chùa
Vào lịch sử
Vòng cườm trên cổ chim cu
Vẫn cành mai ấy
Vịt trời Hồ Tây
Vườn mẹ
Xã viên
Xe sợi









Hoa trên đá
Tuyển tập thơ Chế Lan Viên
(tập I, 1985; tập II, 1990)






Ta gửi cho mình






Phần II - Các bài mới ở dạng phác thảo







Phần III - Nghĩ về thơ và nghĩ ngoài thơ (phác thảo)




























văn



Vàng sao
(1942)






Thăm Trung Quốc
(bút ký, 1963)






Những ngày nổi giận
(bút ký, 1966)






Bác về quê ta
(tạp văn, 1972)






Giờ của số thành
(bút ký, 1977)






Nàng tiên trên mặt đất
(1985)























Tiểu luận phê bình






Kinh nghiệm tổ chức sáng tác
(1952)







Nói chuyện văn thơ
(1960)







Vào nghề
(1962)




Phê bình văn học
(1962)







Suy nghĩ và bình luận
(1971)







Bay theo đường bay dân tộc đang bay
(1976)







Nghĩ cạnh dòng thơ
(1981)







Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân
(1981)







Ngoại vi thơ
(1987)







Nàng và tôi
(1992)














Chú thích

1- Có tài liệu ghi ông sinh ngày 14 tháng 1 năm 1920.

2- Thực ra trong thời gian 1945-1950 Đảng Cộng sản Việt Nam không hoạt động công khai mà tuyên bố tự giải tán, chỉ có một bộ phận "công khai" mang tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin.

3- Hoàng Như Mai, Nguyễn Đăng Mạnh, Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Long, Trần Hữu Tá, Văn học 12, nhà xuất bản Giáo dục, 2007, trang 119

4- Sđd, trang 119

5- Sđd, trang 119

6- Sđd, trang 119

=================
trích từ blog phan nguyên
==================















0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ