paris est une fête: một hồi ký viết báo, làm văn thời 20s, ernest hemingway ở paris/ bài viết: nguyễn bảo hưng (source; sangtao.org/ )
tựa chính,' paris set une fête ' hay là câu chuyện về một cuốn sách'
source: sangtao.org/
nguyên bản 'a moveable fesat' --sketches of the author's life
in paris in the twenties' / ernest hemingway
(chụp trên internet)
tác phẩm 'paris est une fête' , một bản dịch của nxb gallimard (paris)
(chụp trên internet)
paris est une fête: một hồi ký viết báo,
làm văn,
thời 20s, ernest hemingway ở paris
bài viết: nguyễn bảo hưng
paris est une fête/ ernest hemingway,: một trong nhiều bản dịch pháp văn
của nhiều nhà xuất bản ở Pháp. (chụp trên intrnet)
'Paris est une fête', tựa một [tập hồi ký] Ernest Hemingway; bình thường chắc ít ai để ý, thậm chí [chỉ] được nghe nhắc tới [mà thôi].
Bản thân tôi cũng không ngờ; [tác giả] có cuốn sách này trong sự nghiệp đồ sộ [của ông], từng được giải Nobel văn chương [năm 1954].
Cái biến cố thời sự làm tôi chú ý; ấy là vụ việc trong đêm thứ sáu, ng\ày 13-11- 2015; quân khủng bố hồi giáo IS; đã mở một loạt tấn công, khủng bố tại 4 địa điểm ở Paris -- gây thiệt hại 121 người + hơn 200 người bị thương.
Đợt khủng bố tấn công đã làm thế giới bàng hoàng xúc động, ... và; đối tượng nhằm bắn đều là thường dân vô tội, tuổi đủ mọi thành phần xã hội, quốc tịch, tôn giáo. ...
chỉ riêng tại Bactalan; một sân khấu trình diễn nhạc rock, được giới trẻ Paris ưa chuộng -- đã có 81 người bị giết ; trên tổng số 121 người bị thương. ...
Riêng tại Paris; bên cạnh những cuộc biểu tình phản đối, còn có nhiều tụ tập đông đảo; [để] đặt hoa tưởng niệm các nạn nhân. ...
Tại buổi tụ tập này; một phụ nữ, hẳn là dân parisienne chính cống -- bà Danielle 77 tuổi; đã giơ cuốn sách 'Paris est une fête/ E./ Hemingway' , trước ống kính đài truyền hình RFM; lớn tiếng cổ động:
" ... rất cần phải đem hoa đến tưởng niệm những người quá cố. Rất cần phải đọc; đọc nhiều lần cuốn' Paris est une fête'/ E. Hemingway' . Bời vì, chúng ta là một nền văn minh rất lâu đời; và, chúng ta cần nêu cao các giá trị của chúng ta. "
( 'C'est très important d' apporter des fleurs à nos morts. C'est très important de voir, plusieurs fois, lelivre
d' Hemingway 'Paris est une fête'. Parce que nous sommes une civilisation très ancienne et nous porterons au plus haut nos valeurs." )
Lời kêu gọi của bà Danielle có phép nhiệm mầu . Nội ngày hôm sau, cuốn sách của Hemingway; bấy lâu vẫn nằm ngoan ngoãn trên các quầy sách, bỗng dưng biến sạch. Khách mua đọc nhiều đến độ; nhà xuất bản Gallimard phải cho in lại tựa sách mất đợt liền; mới kịp đáp ứng yêu cầu.
Về phần tôi, lần tới vài tiệm sách gần nhà; lần nào cũng bị khách phỗng tay trên hết thảy. Mò ra thư viện; lại được phải trả lời 'phải chờ dăm ba người đ0ã ghi tên trước, mới đến lượt mình'. ...
Càng đọc tiếp, tôi càng hụt hẫng; thất vọng cay cú, như khi bị 'tháu cáy' đau trong một ván bài 3 lá. Thất vọng; bởi khi nhìn cuốn sách mang tựa 'Paris est une fête' được bà Danielle giơ cao; tôi liên tưởng ngay tới 'xen' ấn tượng của bộ phim 'Le soleil se lève aussi' , phỏng theo cuốn truyện cùng tên Hemingway, [mà ]tôi được coi trước đây.
Đó là không khí sôi động cuộc thi 'đấu bò' (fiesta) tại Tây ban nha; khi cáo thủ 'toreador' xuất hiện oai phong lẫm liệt; đúng lúc trổi lên những nôt nhạc thúc giục rộn rã bản 'Espana Cani' -- giữa những tiếng vỗ tay khán giả đông ních ở hội trường cổ võ cuồng nhiệt. ...
[Đọc 'Paris est une fete'] ; ngay những trang đầu; tả khung cảnh Place de la Contrescarpe, nơi [phóng viên] trú ngụ. Đó là một khu phố tồi tàn, với quán cà phê hồi đó còn mang bảng hiệu 'Les Amateurs', nơi tề tựu của dân vỉa hè nam, nữ say sưa tối ngày. Quán cà-phê ở ngay đầu phố Mouffetard; còn được mệnh danh là 'đầu hầm cống' (le tout-à-l'égout'); do mùi hôi hám bộc ra từ dân tứ xứ bám rễ, khiến người thường ít ai dám lai vãng.
Cách quán cà phê chỉ vài chục thước, con phố Cardinal Lemoine; với nhà trọ rẻ tiền, ở ngay đầu phố, nơi Hemingway mướn một căn phòng; để cùng vợ trú ngụ. Từ căn phòng tận lầu chót; mỗi sáng Hemingway có thể nhìn thấy chiếc xe 'hốt phân' + bình chữa lửa lớn; lọc cọc do ngựa kéo, từ dưới phố đi lên; mang theo mùi hôi thối nồng nặc.
Cũng từ căn phòng này, mỗi sáng Hemingway lại xuống phố; lần theo các con đường, tới một tiệm cà- phê Place de Saint-Michel; ngồi để viết bài suốt ngày. Đó [là] quang cảnh+ không khí sinh hoạt của Paris; trong những năm đầu sau đệ 1 thế chiến; mà Hemingway không ngại phơi bày trước mắt ta. Bức họa về một Paris hãy còn khố khó này; ông lại đưa ngay vào chương đầu, mang tựa 'Un bon cafe, place Saint-Michel'.
(tr. 41-48 Paris est une fête/ Coll. Follio/ édit.. Gallimard 1964+2011).
Cố gắng đọc tới trang chót, tôi không tỉm nổi một sự kiện nào đáng gọi là 'fête'; quanh đi quẩn lại; vẫn chỉ là mấy khu phố, thuộc quận 5+ 6 [của] Paris+ vài quán cà-phê, ông thường lai vãng + một vài địa chỉ thân thuộc , với ông.
Như ở tiệm sách Sheakspeare + Company, số 12 rue d'Odéon của cô Sylvia Beach, người vẫn thường cho ông mượn sách đem về đọc. Hoặc ; tư gia bà Gertrude Stein, số 27 rue des Fleurs; nơi được coi là một salon littéraire , do nữ chủ nhân đóng vai Mạnh thường quân, đối với nhóm văn nghệ sĩ gốc anglo-saxon. Ngoại trừ vài địa điểm vừa nêu; người đọc chẳng một lần tìm thấy Montmartre, Tour Eiffel, Champs Élysées ở đâu cả.
Thậm chí; các phòng trà ca vũ lừng danh quốc tế; tiêu biểu cho lối sống vui nhộn của đời sống Paris, như Moulin Rouge, Folies Bergères; với vũ điệu French Cancan, cũng không hề được nhắc tới. ...
Không tìm được vết tích nào đáng gọi là 'fête' (lễ lạc) ; tôi quyết định đem trả cuốn sách [cho thư viện]; nhưng thâm tâm vẫn thắc mắc về lời nhắn nhủ của bà Danielle.
---
* ... - tạm lược một số chữ; có thế ít, hoặc nhiều. (Bt)
Thắc mắc này chắc khó đường giải tỏa; nếu trong tháng 7, lại không xảy liên tiếp xả ra 2 vụ khủng bố mới. Đó là vụ trong đêm 14-7- 2016 tại Nice; một tên khủng bố đã dùng xe tải hạng nặng phóng lên hành lang, dọc theo bờ biển; cán bừa đám đông khán giả đi coi bắn pháo bông, [vào ngày quốc khánh Pháp], đang lũ lượt ra về. Vụ tấn công thô bạo này gấy thương tích cho 202 người, 84 người thiệt mạng; trong số đó có 10 trẻ em. Không đầy 2 tuần sau; khoảng 9 giờ sáng ngày thứ ba 26-7-2016, 2 tên khủng bố lại bất ngờ đột nhập nhà thờ Saint-Etienne du Vouray, một thị trấn nhỏ gần Rouen; giữa lúc [linh mục] Jacques Hamel 84 tuổi, đang làm lễ cho cặp vợ chồng ngọai thất tuần, với sự tham dự của 3 bà sơ.
Chúng thẳng tay sát hại cha Hamel; gây thương tích ông chồng 76 tuổi. Chỉ có bà vợ + 3 bà sơ thoát nạn. Xét về mặt tổn thất nhân mạng; vụ thảm sát tại nhà thờ gần Rouen không đáng sợ, so với vụ thảm sát tại Nice. ...
Ý nghĩa biểu tượng của hành vi sát hại này, làm tôi nhớ lại lời phát biểu của bà Danielle, ... lời kêu gọi sức tỉnh; nghĩa rằng cuốn sách của Hemingway; không chỉ để nói về lễ lạc; còn chuyển tải một nội dung ý nghĩa nào đó.
Thế là, tôi quyết định phải ra thư viện mượn sách [của Hemingway để] đọc lại. Trước khi đọc; tôi có ý thăm một vài địa điểm, [mà] Hemingway đề cập trong sách; đặc biệt khu phố ông từng cư ngụ. Biết đấu cuộc thăm dò này chẳng gíup tôi có thêm yếu tố; hiểu đúng hơn nội dung cuốn sách [kia]. Thế là, tôi đã dành trọn gần một ngày để làm cuộc hành trình thăm viếng. Đúng như điều dự liệu : cuộc hành trình đem lại cho tôi nhiều phát hiện thích thú, bất ngờ.
Lộ trình thăm viếng khởi đầu bằng một chuyến du hành 45 phút; trên chuyến xe lửa RER A, từ nhà tôi tới trạm Châtelet-les-Halles. Sau Châtelet là 2 trạm métro trên tuyến 7; để xuống trạm Saint-Michel. Rời hầm métro, tôi đi ngược lên khoảng 800 thước về phía bờ sông Seine, để tới Place Saint-Michel; nơi có quán cà-phê, [Hemingway] từng chọn làm nơi đến để viết bài.
Sau một hồi quan sát,, từ Place Saint-Michel, tôi lại tản bộ đi xuống; dọc theo lề đường phải, hướng về phía vườn Luxembourg. Trên lề đường này có nhiều tiệm sách [nếu] có dịp thì quí vị nên ghé lại các nơi này. Chịu khó lục lọi các ô sách bày trên vỉa hè; quí vị có thể kiếm ra một vài cuốn sách giá trị, với giá rẻ dề; có 1, 3 euros thôi; còn rẻ hơn cả tiến 'bo' cho một bữa ăn tại nhà hàng. Sau khi lục lọi, tôi đã 'thủ cẳng' được một vài cuốn sách gối đầu; để khi cần, khỏi phải ra thư viện mượn. Sau ngã tư Saint-Michel + Saint Germain des Prés có vài chục mét; nhìn sang lề đường đối diện, là thấy ngay đại học La Sorbonne, với Place de la Sorbonne đằng trước. Tôi ghé lại quán cà-phê mang bảng hiệu L' Écritoire ngồi nghỉ. ...
Vừa nhâm nhi cà- phê, vừa đưa mắt nhìn quanh; tôi bồi hồi sống lại niềm vui ngày nào được làm sinh viên. Lúc này đang là tháng 8, nên khuôn viên trước đại học hãy còn vắng vẻ. Các quán cà-phê cũng thưa thớt khách; phần đông là du khách. Đối diện với quán cà- phê; [ở] tiệm sách J. Vin, chuyên bán các loại sách triết học; vẫn còn đó. Hồi đó, tôi đã mua được trong đống sách cũ, bày trước cửa tiệm; [đó là] cuốn' La révolte des écrivains d'aujourd' hui'/ R.M. Albérès. Còn lại; [ở đây] cảnh vật vẫn không [có gì ] hay đổi. ...
Tuy nhiên, trước cảnh Librairie P.U.F. [hình như] đang bị rơi vào quên lãng; tôi không tránh khỏi nỗi buồn nao nao tiếc nuối; ngậm ngùi như cảnh 'Thăng long hoài cổ'/ Bà huyện Thanh quan,: 'Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo / Thành quách lâu đài bóng tịch dương. ...
Từ rue Mouffetard ngó qua, quán cà-phê Les Amateurs; theo Hemingway mô tả, nay không còn nữa. ...
Bên kia đường là ngôi nhà 5 từng, mang số 74 rue Cardinal Lemoine, nơi Hemingway đã thuê một căn phòng ở tầng 3 để trú ngụ cùng người vợ đầu tiên, tên Hadley.
Trên bức tường giữa 2 tầng lầu, có gắn một tấm bảng đồng, với các hàng chữ:
(De Janvier 1922 à Aout 1923, a vécu au 3e étage de cet immeuble, avec Hadley, son épouse, l'écrivain américain Ernest Hemingway (1899- 1961). Le quartier, qu'il aimait par-dessus tout, fut le véritable lieu de naissance de son oeuvre et du style dépouillé qui le caractérise. Cet American à Paris entretenait des relations familières aves ses voisins, notamment avec le patron du bal-musette attenant. " Tel était le le Paris de notre jeunesse où nous étions très pauvres et très heureux." ( Ernest Hemingway/ Paris est une fete.").
(Từ tháng giêng 1922 đến tháng 8 1923, nhà văn Mỹ Ernest Hemingway (1899-1961) đã cùng vợ là Hadley ở tại tầng 3 ngôi nhà này. Khu phố mà ông yêu mến hơn bao giờ hết; mới thực sự là nơi ông khai sinh ra tác phẩm + văn phong chắt lọc của ông. Người Mỹ đến với Paris này, đã những mối quan hệ mật thiết với dân lối xóm; đặc biệt là chủ quán nhạc khiêu vũ musette ở kế cận. " Paris của chúng tôi ở tuổi thanh xuân là vậy đó; khi mà chúng tôi sống còn rất nghèo, nhưng rất hạnh phúc ." ...
Tôi đứng đó, đứng trước ngôi nhà, [là] nơi Hemingway cùng vợ đã trú ngụ.
...
Cuối cùng, tôi đành kết thúc chuyến viếng thăm với tâm trạng nửa buồn, nửa vui. Buồn vì nao nao tiếc nhớ; vui vì phấn khởi, như vừa tìm được giải đáp cho một điều bí ẩn.
Tấm bảng đồng kia với dòng chữ "Tel était le Paris de notre jeunesse ou nous étions très pauvres et très heureux" -- chính là chìa khóa giải tỏa cho tôi sự thất vọng [ban đầu]; khi mới đọc cuốn sách của Hemingway; đồng thời nó cũng là ánh đuốc soi đường; để tôi biết cách đọc lại, hầu hiểu sâu hơn, hiểu đúng hơn nội dung tác phẩm của ông. ...
Paris est une fête, với Hemingway; không phải vì Paris là kinh đô của ánh sáng; [hoặc] Paris có đại lộ Champs-Élysées thênh thang tráng lệ; Paris còn là chốn ăn chơi vui nhộn, với vũ điệu French Cancan đú đởn của các nhà hàng ca nhạc: Moulin Rouge, Folies-Bergeres, thu hút được được du khách 4 phương.
Nhưng Hemingway đến Paris lại không phải vì vậy.
Tới Paris với tư cách là phóng viên trẻ cho một nhật báo Canada; ông đã sớm phát hiện nơi đây có môi trường văn hóa thuận lợi; cho những ai có tâm hồn nghệ sĩ, muốn tìm ra nguồn cảm hứng, [để] phát huy tài năng của mình
bởi vậy, ông không ngần ngại từ bỏ nghề phóng viên, với đồng lương bảo đảm; để dấn thân vào nghiệp văn-- rồi tự kiếm sống bằng đồng tiền [gọi là] nhuận bút. Cũng vì chấp nhận cuộc sống rủi ro như vậy, ông vẫn không nề hà, chịu đóng đô tại khu phố Contrescarpe nghèo; thuê một căn phòng ở lầu 3, số 74 rue Cardinal Lemoine; để cùng vợ sống trong những điều kiện ăn ở đều thiếu tiện nghi, như ông thuật lại:
" Tổ ấm chúng tôi, ở phố Cardinal Lemoine là căn phòng 2 buồng, không có nước nóng, không cầu tiêu; ngoại trừ một vài sô nước để rửa ráy. "
( Notre foyer, rue Cardinal Lemoine, était un appartement de deux pièces, sans eau chaude courante, ni toilettes, sauf un seau hygiénique." ( sđd: tr. 66).
Phải sống trong những điều kiện khắc khổ như vậy; ông không lấy làm buồn phiền; mà, còn hoan hỉ chấp
nhận. ...
Paris est une fête [đối với Hemingway]; bởi vì tại khu phố Contrescarpe; không chỉ có quán cà-phê bụi đời Les Amateurs; mà sát nách nhà ông; còn có quán Bal-musette; đểông qua lại vui chơi + tán gẫu với ông chủ quán vui tính.
Paris est une fête; bởi vì gần kề với Contrescarpe; Paris còn có không khí văn học của Quartier Latin; với các quán Cafe terrasse, như tại Place Saint-Michel; để ngày ngày , ông tới đó viết bài. Hay là quán La Closerie des Lilas, gần Montparnasse; nơi ông thường lai vãng, gặp gỡ đấu hót với ab5n bè văn chương.
Paris est une fête; bởi vì chỉ cần băng qua điện Panthéon, là ông có thể tới viện Bảo tàng trong vườn Luxembourg, ngắm nghía những bức tranh của Cézanne, của Manet -- [nhất là tranh Manet] giúp ông quên được bữa ăn trưa; vì chưa nhận được tiền nhuận bút. (xem' La faim est une bonne discipline' -- sđd, tr. 108- 109).
Paris est un fête; bởi vì, chẳng mấy xa Place de Saint- Michel là bao; có tiệm sách Shakespear & Company, 26 rue de l'Odéon -- với cộ chủ đồng hương Sylvie Beach hào hiệp, sẵn sàng cho ông tha hồ mượn sách đem về đọc; mà không bắt ứng trước tiền cọc.
Nhờ vậy, ông có dịp làm quen với các nhà văn Nga Tourgueniev, Tchekov, Leon Tolstoi, Dostoievski ... giúp ông mở rộng chân trời hiểu biết.
Với một môi trường sinh hoạt văn học thuận lợi như vậy; làm sao ông không cảm thấy nơi đây, tâm hồn được mở hội như ông tâm sự:
" Phát hiện cả một thế giới nhà văn xa lạ; và có thì giờ để đọc, trong một thành phố như Paris, nơi đó ta có thế sống + làm việc thuận lợi; dù nghèo, thật chẳng khác gì ta được tặng một kho tàng vậy. "
(Découvrir tout ce monde nouveau d'écrivains, et avoir du temps pour lire, dans une ville comme Paris, où l'on pouvait bien vivre et bien travailler, même si l'on était pauvre, c'était comme si l'on vous avait fait don d'un trésor." (sđd. tr. 160).
Phải chăng [đó là] cái môi trường sinh hoạt văn hoá đặc thủ đô, cái môi trường với những thú vui nho nhỏ làm, nên hạnh phúc bình thường của đời sống thế gian, đã quyến rũ Hemingway; khiến ông muốn coi 'Paris est une fête'.
Thế nhưng cái môi trường, với những nét sinh hoạt đặc thù ấy, tiêu biểu cho một phong cách sống, một nghệ thuật sống -- và, trong một chừng mực nào đó -- ta có thể nói là tiêu biểu cho nếp sống văn minh; lại bị quân khủng bố cuồng tín lên án là đồi trụy+ tìm cách hủy diệt.
Và, phải chăng vì muốn bảo tồn phong cách sống đó, nếp sống văn minh đó; bà Danielle mới giương cao cuốn
sách [Paris est une fête/ Hemingway ; rồi khuyến khích [nên] tìm đọc. ...
Va, họ sẽ cơ hội chiêm nghiệm lời Hemingway muốn nhắn nhủ:
" Không hề có hồi chung cuộc với Paris; và, những ai đã sống tại đó, đều giữ lại cho mình kỷ niệm riêng... Paris rất đáng để ta đặt chân tới; và, Paris sẵn lòng đãi ngộ những ai biết tỉm đến với Paris ."
(Il n'y a jamais de fin à Paris et le souvenir qu'en gardent tous ceux qui y ont vécu diffère d'une personne à l'autre. ... Paris valait toujours le déplacement et on recevait quelque chose de ce qu'on lui donnait. " (sđd. tr. 345).
[]
viết xong ngày 16--9-- 2016
nguyễn bảo hưng
(nguồn: tác giả gửi tới sangtao.org/ )
http://sangtao.org/2016/09/21/paris-est-une-fete-hay-la-cau-chuyen-ve-mot-cuon-sach/#more-88909
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ