Thứ Hai, 18 tháng 2, 2013
nhà văn, tác phẩm, cuộc đời - thế phong - 7
nhà văn, tác phẩm, cuộc đời 7
tự-sự-kể : thế phong
4
Tôi bắt đầu viết cho tạp chí Văn hóa Á châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục. Bái đầu tiên đăng là Kỷ niệm Hàn Mặc Tử và tháng 11 năm 1958, cho trích trong một cuốn sách nói về thi sĩ này , mà tôi đã viết xong xuôi từ ngày còn ở Xóm Chùa - Tân Định . ngoài việc thông cảm cuộc đời đau đớn buổi sinh tiền, lại có tài; tôi viết về ông, còn là để khích lệ và tự buộc mình chấp nhận đới sống mật đắng để theo đuổi nghiệp văn.
Khi tôi đưa bài cho Lê Xuân Khoa, tông thư ký tòa soạn, tôi chắc bài sẽ được đăng ngay và tôi sẽ có tiền. Vì vào thời kỳ ấy, tất nhiên Thiên chúa giáo được ưu đãi, ông Ngô Đình Diệm là tổng thống, còn là tín đồ đấng Christ . Tất nhiên, viết về về nhà thi sĩ có tài, cũng là một tín hữu Thiên chúa giáo, rất hợp thời, hợp cảnh , chẳng ai phản đối.
Thực ra, nếu tôi không viết về tài hoa Hàn Mặc Tử trước 1955; chắc chắn không bao giờ tôi viết, mặc dầu Hàn rất tài. Ở nhược tiểu dân tộc chúng tôi, nhất là giai đoạn bè phái và sự mua chuộc, đề cao, mạ lị, không còn là một sự tự ý muốn người viết, mà còn là sự đâm thuê, chém mướn, hoan hô, đả đảo, trên lĩnh vực tinh thần.
Đây, tôi xin nhắc lại một câu chuyện văn học chính trị phối hợp, xảy ra vào năm 1957- 1958. Hồi ấy, tôi viết xong một tập chót về văn học Việtnam ,đó là Tổng luận 60 năm văn nghệ Việt Nam : 1900- 1956 ( trong bộ Lước sử văn nghệ Việtnam 1900-1956 gồm 4 tập ) . Nhưng lại nhằm vào đúng giai đoạn Nhất Linh về Saigon làm văn nghệ, xuất bản tạp chí Văn hóa ngày nay.
Tôi biết rằng trong một lần tổng thống Ngô Đình Diệm lên Đà Lạt, có gặp Nhất Linh ở trên đó và có sự thỏa thuận ngầm giữa hai vị: Nhất Linh sẽ được phép hoạt động văn nghệ và báo chí.
Một mặt, ông Trần Chánh Thành nhận lệnh Phủ tổng thống : canh chừng sự bành trướng về văn hóa, văn nghệ của Nhất Linh ; nên tạp chí Văn hoá ngày nay vẫn phải đưa lên trình kiểm duyệt, không được cấp giấy phép báo chí chính thức, mà gọi là giai phẩm văn nghệ. Một mặt, ôngTrần Chánh Thành tung tiền cho một số chủ báo , như Hoàng Phố với báo Ngày mai để sau đó , có bài mạt sát Nhất Linh. Người đâm thuê chém mướn ấy, chính là nhà văn Quốc Ấn.
Nếu tôi vô tình cho xuất bản tập chót kia ( Tổng luận 40 năm văn nghệ Việtnam: 1900-1856) , mà trong đó, tôi lên án Nhất Linh , tuy thực lòng tôi suy nghĩ và phân định vậy, nhưng vô tình tôi bị rơi vào cái thế ông Trần Chánh Thành đang ra tay thuê viết bài đả phá Nhất Linh. Nên tôi đành gác lại, mãi đến sau này mới xuất bản, khi tình trạng kia chấm dứt.
Còn cái lý do viết về Hàn Mặc Tử không đến nỗi nguy hiểm như trường hợp trên, song tôi vẫn thắc mắc, bận tâm hoài. Giá mà tôi như Thái Văn Kiểm thì đỡ biết bao, chẳng biết ân hận làm gì cho đỡ mệt xác ! Viết về Hàn Mặc Tử phải có điều kiện, cũng như giới thiệu Việtnam qua Le Vietnam d' hier et d' aujourd'hui thì mấy chốc mà thăng quan tiến chức đâu .
Riêng tôi, thầm cảm ơn Hàn Mặc Tử, vì cuộc sống khốn nạn buổi sinh thời của một nhà thơ tài hoa, và bây giờ tôi viết về đời sống khốn nạn ấy, thì tôi được trả 100 đồng / 1 trang
báo , thí dụ một bài 10 trang cũng đủ để tôi trang trải công nợ một món rồi . Ý thâm sâu nhất của tôi khi ấy, không nói với ai, sau khi cầm 1000 đồng từ quản lý Trịnh hoài Đức trao- tôi vẫn còn thời giờ rỗi, ra thư viện đọc sách, viết văn.- như thế, tôi sung sướng nhất đời rồi !
Viết thơ ngăn ngắn ở thư viện, hoặc cuốn Friedrich Nietzsche & Chủ nghĩa đi lên con người , thì vào buổi trưa viết ở đình Phú Nhuận, hoặc những truyện ngắn trong Người lính Casablanca, và đôi khi đọc, sửa lại tự truyện Nửa đường đi xuống. Cuốn truyện chiếm nhiều nhất thời gian viết đi, viết lại 2, 3 lần, đó vẫn là tự truyện Nửa đường đi xuống , ấy là khi tôi chưa rời nơi ngủ nhờ nơi nhà bếp của ông Trần Thanh Đạm, tôi ngủ ở đấy mà nhìn thấy cả trăng sao. Về sau, tôi còn xin trú ngụ ít đêm ở nhà Nguyễn Quốc Toàn (*) ,hoặc, đến ngủ nhờ ở một vài nơi khác nữa..
------ T
* còn ký bút danh Tuấn Linh, dưới những đoản kịch đăng trên tuần báo Văn nghệ tiền phong.
( chủ nhiệm : Hồ Anh ).
-------
Lắm khi, tôi chưa biết tối nay về đâu, đêm đêm vẫn đạp xe đạp đi lang thang, có 1 đêm phải ngủ ớ bến xe hoặc chịu khó leo lên lầu khách sạn Cửu Long , ở 135 Hai bà Trưng , nơi Minh Đăng Khánh thuê tháng . ( lúc ấy kịch sĩ kiêm nhà báo chưa lập gia đình ) . Có một đêm, tôi ngạc nhiên khi thấy Khánh nhìn ảnh em gái, hiện còn ở ngoài Bắc, rồi khóc rống lên. Lúc này, tôi mới thấy thấm cảm tình cảm nghệ sĩ khó dằn được, nhất là, đối với Minh Đăng Khánh, bề ngoài lúc nào cũng vui vẻ, cười hề hề lạc quan.
Còn nhà của Nguyễn Quốc Toàn hơi xa, ở mạn Cầu Kênh Thanh Đa, cách Saigon 5, 6 cây số, vây mà đêm nào không tìm được chỗ ngủ nhờ, tôi vẫn phải đạp xe về, dầu trời mưa gió.
Còn biết bao nỗi nhọc nhằn, ê ẩm khác nữa chứ !
Một lần, tôi ra thu viện , khi quay về, đến ngã tư đường Mayer và Lê Văn Duyệt , bắt gặp sát huýt còi thổi lại kiểm tra giấy tờ. Tôi quên mang giấy căn cước, nên bị dẫn về Bót cảnh
sát quận Nhất hoặc quận 3 chi đó ( hồi ấy bót đóng tại ngã tư Mayer và Đinh Tiên Hoàng, Dakao, nơi này chưa chuyển thành bệnh xá).
Đêm hôm ấy, họ bắt cởi hết quần áo, trừ quần đùi, tôi bị xếp nằm chung với mấy cô gái điếm, du côn, ăn cắp; đủ loại người. Trước khi vào đây, tôi mang theo lá thư tình của Cao Mỵ Nhân cùng 1 bài đánh máy : Dừng lại dốc nguy hiểm của nhà báo Hànội: Lưu Quý Kỳ - tôi sao chép lại bài báo này làm tài liệu , vì Lưu Quý Kỳ đả kích Nguyễn Đức Quỳnh.
May thay, khi bị tống vào sa-lim, cảnh sát viên không lưu ý về bài báo ấy.
Đêm hôm ấy, nằm, trong khám, chỉ lo họ khám phá ra bài báo kia, thì thật là tai họa ! Phải chờ đến sáng hôm sau, họ tìm thấy Sổ gia đình có tên tôi , qua mấy lần kiểm, vì trùng số , như A, B, C, C, Đ, E ... mỗi lần cảnh sát mở Sổ gia đình chưa tìm thấy vần E , họ lại định đánh tôi, cho rằng khai man. Ôi chao ! ông cảnh sát đối với tôi khi ấy, quyền uy to hơn cả những vị nào to nhất, tôi nghĩ như vậy đấy.
11 giờ trưa, cảnh sát trưởng tới, sau một hồi giảng về công dân giáo dục - chính ông đây, cũng phải luôn luôn mang theo giấy căn cước bên mình, huống hồ thường dân ? Mọi công dân phải nhớ nằm lòng điều này, khi ra khỏi nhà, để không bị làm phiền.
Và , tôi bị phạt 20 đồng về tội " cao bồi". Quên căn cước là " cao bồi", rõ chán cho cái chính thể anh minh dân chủ của Ngô tông tông biết là chừng nào ? Mình không muốn phạm tội, nhưng bị đẩy vào thế phạm tội, đó là chủ trương DÂN CHỦ PHÁP TRỊ mà ông Ngô Đình Nhu buộc treo bảng đầy ngoài đường phố, đầu cầu, ngã 3, ngã 4 đó ư ? .
Hàng tuần, tôi nhận được ít nhất từ 2, 3 lá thư Cao Mỵ Nhân . Tình tôi với nàng thật đẹp, hầu hết những bài thơ trong thi tập Nếu anh có em là vợ , trừ 2 bài tặng Linh Bảo , 1 bài tặng Đặng Ngọc Oanh .còn đa số bài làm, vì cô Mỵ .
. Còn Thơ Mỵ / Cao Mỵ Nhân , hầu hết là những bài thơ , nàng nói về sinh hoạt đòi sống yêu đương chúng tôi. Khi tôi cho xuất bản Thơ Mỵ trong Tủ sách Đại Nam văn hiến,( 1961) nàng buồn không ít ! Nàng cho vậy là tước đoạt tình yêu thầm kín nhất, phơi bầy ra ngoài công chúng là điều chưa nên. Cuối tuần nàng tới nhà tôi thuê ở xóm đạo Tân Sa Châu, có khi tự nấu cơm ăn , trưa ngủ lại tâm tình. Thời gian này thi sĩ Sao Trên Rừng tới ở nhờ, ăn đậu, nên cứ tới thứ 7, khi Mỵ sắp tới, tôi phải báo trước để anh " biến đi trong khỏanh khắc "
Đôi khi, chúng tôi còn gặp nhau ở thư viện, cả 2 coi nhau như không quen biết. Chẳng là, có một ông " chú hờ " làm précepteur , hoặc répétiteur gì đó hường đi kèm Cao Mỵ Nhân, như hình với bóng. . Ông giáo dạy kèm kia tên Định thì phải, trạc tuổi tôi, lại được ông thân sinh ra Mỵ tin cậy. Ông" chú hờ" ấy mê tơi Mỵ không ít, sau này Mỵ mới cho tôi biết - đó là lần chúng tôi vào rạp Eden xem phim, gặp ông " chú hờ" kia ở đó. Có lẽ, ông chú kia đeo kính cận nặng, nên không nhìn rõ chúng tội chăng ?
Viết bài đăng trên Văn hoá Á châu chẳng mất thời giờ là bao, tôi chỉ cần hàng tháng một , hai bài, khoảng chục trang báo khổ tạp chí, là đủ sống thừa thãi . Trong khi ấy, còn rất nhiều bản thảo không tài nào xuất bản được. Tôi đã đem chúng thương lượng với nhiều nhà xuất bản , nhưng chẳng thành công một nơi nào hết. Mỗi khi ở ngoài phố thì chẳng sao, về đến nhà lại như phát điên lên, nhìn chồng bản thảo cao ngút ngọn.
Tôi đến nhà anh Nguyễn Đức Quỳnh , đưa ra ý kiến, hỏi anh có nên xuất bản bằng rô-nê-ô, anh Quỳnh ngăn , cho là quá nôn nóng !
Qua năm sau, tôi đến nhà anh Nguyễn Hiến Lê chơi, lúc này đã dọn nhà về đường Kỳ Đồng , Saigon 3 - thấy ý kiến tôi đưa ra phải in rô- nê-ô mới giải tỏa được đống bản thảo cao ngất ngư kia, anh cho là hợp lý, tán đồng ý kiến cái rụp.
Và tội bẫy tỏ ý kiến này với một, hai bạn khác, họ đều tán đồng như anh Nguyễn Hiến Lê - nên, tháng 4 năm 1959, tôi cho ra mắt tập 4 : Nhà văn hậu chiến 1950-1956 ( tập 4 trong bộ Lược sử văn nghệ Việtnam : 1900-1960) .
Cũng phải mở thêm 1 dấu ngoặc nơi đây, để giải thích tại sao lại xuất bản tập 4 : Nhà văn hậu chiến 1950-1956 , lại không phải là tập 1 : Nhà văn tiền chiến 1930-1945 ?
Bởi, đã 8 tháng, tôi đem toàn bộ bản thảo bộ Lược sử văn nghệ Việtnam 1900-1960 lên xin kiểm duyệt. Khi thì được gặp gíam đốc Nha Báo chí , ông Hoàng Nguyên , nhưng ông cho biết chưa thấy dưới báo cáo lên, phải chờ đã. Ông Nguyên chẳng còn xa lạ gì tôi; vẫn khó dễ như thường. Làm công chức cao cấp , phải luôn tin báo cáo cấp dưới, mà cấp dưới kia kiểm duyệt bỏ, đó là ông Trần Tán Cửu không tán đồng. ( tức nhà văn Trọng Lang).
Một cuốn sách xin kiểm duyệt phải qua 3 nơi: Văn hoá vụ, Hội đồng Kiểm duyệt và Nha Chiến tranh tâm lý . Ông Trần Tán Cửu hạch sách :
"... tại sao tôi viết phê bình về nhà văn Vũ Trọng Phụng dài thế và lại nhiều trang đến vậy, cùng hết lời tán thưởng...".
Ý ông ta muốn so sánh , lại không hài lòng về chương tôi viết về nhà văn Trọng Lang- ông bảo tôi lấy bút ghi đầy đủ phần tiểu sử về nhà văn Trọng Lang còn thiếu - nên phần tiểu sử kia dài dằng dặc , còn phê bình văn chương lại ngắn, tôi không thêm thắt và giữ đúng nguyên văn .
Đọc lại, vẫn không đồng ý, nên không thể đề nghị Hội Đồng kiểm duyệt cấp phép xuất bản tập 1 : Nhà văn tiền chiến 1930-1945 .
Vì thế, bây giờ trong tập Nhà văn tiền chiến 1930-1945, cái tiểu sử viết về nhà văn Trọng Lang nặng bồng nhẹ tếch, phần tiểu sử thì dài như rễ rau muống già ( ông Trần tán Cửu đọc tiểu sử, tôi ghi và in đúng nguyên văn ) ; còn phần bình luận thì tôi vẫn giữ y nguyên như ban đầu viết , không thêm thắt , bổ sung .
Một bộ sách mà bị cấm đến 2 phần 4, chỉ còn lại 1 tập 4 : Nhà văn hậu chiến 1950-1956 cấp phép xuất bản.
Tôi quyết định cho xuất bản bằng rô-nê-ô, dưới nhãn Tủ sách Đại Nam văn hiến trong Nhà xuất bản Huyền Trân / Nhật Tiến chủ biên. Nhà văn Nhật Tiến đồng ý để Tủ sách Đại Nam văn hiến đứng trong nhà xuất bản Huyền Trân , vì, cuốn truyện đầu tay Những người áo trắng ra mắt, có sự thúc đẩy của tôi một phần. Chúng tôi bàn với anh, chúng ta sẽ ra 2 lọai sách:
1) in ty-pô : Những người áo trắng . 2 / in rô-nê-ô: Nhà văn hậu chiến 1950-1956 .
Nếu in ty-pô cả thì không đủ vốn, mà không in rô-nê-ô thì không sao giải quyết được nạn bản thảo quá nhiều tồn đọng.
( còn tiếp )
thế phong
( Nxb Đại Ngã tái bản , Saigon 1970 - tr. 105 - 113 )
.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét