HOÀNG NHƯ MAI / Thế Phong -- trích: Việt Văn Mới / 2/2024 -- Troyes- France.
LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM
Từ Vũ và Việt Văn Mới Newvietart chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ, tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .
KỲ THỨ XXII
CHƯƠNG 6
BỘ MÔN KỊCH
HOÀNG NHƯ MAI
Tiểu Sử.
Sinh năm 1918 (32) trong gia đình quan lại. Theo học Trưỡng Luật Hà Nội. Bắt đầu văn nghiệp, ông bị ma lực thi ca kịch nghệ hấp dẫn. Thời gian 1941–45, cộng tác với nhóm Hàn Thuyên bút danh Như Mai. Từ 1945, kháng chiến bùng nổ, tham gia ban kịch lưu đoàn kịch nghệ nhà nghề Sỹ Tiến, trình diễn vở kịch đầy tính yêu nước, và có nữ diễn viên tài sắc tuyệt vời cùng lưu diễn suốt từ Trung ra Bắc. Hiện nay ông sống ở Miền Bắc (VNDCCH). Hoàng Như Mai được khán giả yêu chuộng, đó là vở kịch, bối cảnh 1789 khi Mãn Thanh kéo quân sang xâm lăng Việt Nam. Vở kịch kết thúc bằng hồi trống thắng địch vang dậy từ Hà Hồi (Tiếng trống Hà Hồi).
Kịch này được công diễn ở Hà Nội vào ngày 31 tháng 12 năm 1950 và 1 tháng giêng năm 1951 do Vũ Khắc Khoan dàn dựng. Năm 1951, nhà xuất bản Vĩnh Thịnh in thành sách, và Nguyễn Tường Phượng viết tựa, bài vào đề Vũ Khắc Khoan và bài phê bình của Thượng Sỹ.
Phân tích
Năm 1789 (Kỷ Sửu) năm mở màn cho tinh thần anh dũng quân Việt chống xâm lăng, qua tài điều khiển thao lược của Quang Trung, Quân dân Việt Nam đánh tan 20 vạn quân Thanh ở Đống Đa (Thái Hà ấp). Nguyễn Huệ kéo quân qua Tam Điệp tiến về Hà Hồi, tràn vào Thăng Long thành, Tôn Sĩ Nghị chạy bạt vía. Một khóa sinh mưu đồ cứu nước, tên Đồ Trần bèn rủ Khóa Vũ, mời các vị khoa bảng như Tú Bảng, Quan Giáo Thụ, vong thần Nhà Lê tán trợ. Trong số đó có cụ Tú cương quyết, lại không hành động, cụ Bảng đồ nho chịu nhục nhã, không dám hành động, chỉ khua môi múa mép xằng. Quan Giáo Thụ nhát như cáy. Hai thầy đồ không bị lui đi. Khóa Vũ báo tin Nguyễn Huệ đang tụ tập binh mã ở Nghệ An tiến quân ra Bắc đánh quân Thanh. Khóa Vũ rủ anh đồ Nghệ xuôi Nghệ An. Khóa Vũ thu xếp nhà cửa xong xuôi, thầy Đồ Nghệ vướng mắc thê nhi, sau quyết tâm như Yên Ly thời Chiến Quốc giết vợ con để lên đường gia nhập đại nghĩa. Vừa khi đó, Quang Trung ào ào đem quân Thăng Long thành. Tiếng trống thúc quân nổ ròn rã, hai thầy Đồ nhập đoàn quân tàn sát quân xâm lăng Mãn Thanh.
Vở kịch gồm ba màn. Nhân vật Tiếng Trống Hà Hồi: thầy Đồ, Khóa Vũ, hai khóa sinh yêu nước, sôi sục tim gan thấy quân xâm lăng Mãn Thanh giày xéo quê hương, có ý định tham gia đoàn quân cứu nước. Vợ Đồ Trần, người đàn bà hiền thục, chỉ biết thờ chồng, nuôi con. Bà Hai, người hàng xóm, cùng chí hướng với thầy Đồ chán ghét bọn xâm lăng Mãn Thanh. Ông Bát, chú của thầy Đồ, tên phản quốc, tay sai của bọn xâm lăng Mãn Thanh. Cụ Tú, cụ bảng, mang danh vong thần Nhà Lê, song chịu nhục nhã với nho phong, hơn phải dấn thân hành động. Quan Giáo Thụ mang danh dạy học trò đạo lý gia phong, tinh thần yêu nước; nhưng hèn nhát, không dám bộc bạch lòng yêu nước chính mình bằng hành động. Lính Mãn Thanh, bọn côn đồ tay sai Tôn Sĩ Nghị, cướp của, hiệp tróc đàn bà con gái, giết lương dân. Bấy nhiêu nhân vật đại diện cho vở kịch ba màn rất sinh động kích thích lòng yêu nước, của kịch tác gia Hoàng Như Mai.
Vở kịch có nhiều động tác kịch ngay hai màn đầu, song ít động tác kịch biến (coup de théâtre). Màn chót Đồ Trần cầm gươm hạ thủ vợ con, nhẹ gánh gia nhập đoàn quân thì động tác kịch biến, nổi bật, tạo sự hồi hộp cao độ và khán giả. Tác động kịch phụ khác, tiếng thúc quân, ầm ầm vang thành tan, núi lở binh mã Quang Trung tiến quân vào Thăng Long thành, tạo được sự nôn nao, háo hức khán giả và không cần dàn quân, bố trận, khó thực hiện trên sân khấu. Dùng biểu tượng xây dựng cho mỗi nhân vật một cá tính riêng, điển hình hèn nhát cụ Tú, cụ Bảng, Quan Giáo Thụ... rõ ra hèn nhát hoặc lưu manh bất cố vô sĩ tay sai cho giặc chỉ nghĩ đến tiền, như Bát:
“... Ông Bát: Ừ phải, thề bao nhiêu tiên đây (sờ túi, chậc)... để rồi tiện lúc nào bảo trẻ nó cầm sang trả. Ai lại thế, chị cũng còn phải bỏ vốn ra chứ? Chứ làm thế thì còn ra thế nào nữa?)
Bản tính đàn bà Việt ít muốn gây gổ, nép mình một bề, mỗi khi nghe bàn đại cuộc. Qua vài nét điển hình hình dung được mẫu người phụ nữ của thế kỷ trước: “... Mợ Đồ: Nhưng mà thôi, người ta làm gì thì làm, việc mình mình làm, quý hồ cứ biết làm ăn lương thiện là hơn...”
Thái độ cương quyết đạp đổ bất công, không an phận của thầy Đồ, Hoàng Như Mai tả lại:
“... Đồ Trần – Đã chắc làm ăn lương thiện mà chúng nó để yên à? Đấy hàng ngày xảy ra bao nhiêu việc, thanh thiên bạch nhật mà dám đột nhập vào nhà lương dân cướp của giết người. U nó không trông thấy hay sao? Đấy hôm qua Phường Đồng Xuân lại vừa xảy ra vụ sát phu hiếp phụ do lũ chó đói gây ra...”
Biến động kịch tính trong kịch, đoạn hay nhất trong Tiếng Trống Hà Hồi:
“...Vợ: (hỏi ra) – Thầy nó chưa đi ngủ à?
Trần: – Hai u con cứ đi ngủ đi.
(xa xa có tiếng đại bác nổ)
Vợ: Quái nhỉ! Sao nhà nào đốt pháo cối ấy nhỉ? Mồng ba rồi còn pháo. (Tiếng đứa trẻ khóc, mợ Đồ ra) Tiếng rú rời rạc nhỏ dần, hai mẹ con cùng ngủ.
Trong khi ấy Đồ Trần ngồi yên lặng nhìn trừng trừng, trong ám ảnh một định kiến. Bên ngoài tiếng cú, tiếng chó gióng một. Trống canh điểm sang ba. Trần giật mình chồm dậy quả quyết bước về phía thanh kiếm, cầm lên ngần ngại một lát, rồi quả quyết tuốt kiếm, bước vội về phía cửa phòng, vừa tới cửa, mợ Đồ giật mình trong giấc ngủ ú ớ nói mê, rồi tiếng guốc lẹp kẹp. Mợ Đồ cầm chiếc đèn con từ trong nhà thấy chồng đi ra ngạc nhiên.
Mợ Đồ: (hỏi) – Thầy nó đêm khuya rồi mà chưa đi nghỉ à? làm gì mà cầm gươm trần thế, nhà có trộm à?
Trần: (giọng bàng hoàng) – Canh năm tôi xuôi Nghệ an.
Mợ Đồ: – Cả nhà có mình thầy nó là đàn ông. Thầy nó đi rồi, mẹ con tôi biết nương tựa vào ai? Thầy nó có nghĩ đến mẹ con tôi một chút. (khóc)
Trần: (giọng ghê rợn) – Có, tôi đã nghĩ đến u con nó rồi. Tôi đã có cách (vừa lúc ấy có tiếng đạp cổng và tiếng gọi)
- Bác ơi.
Trần: Hoảng hốt đứng dậy.
Mợ Đồ: Tiếng ai như tiếng bác Khóa Vũ, đêm khuya rồi còn đến có việc gì?
Tiếng Vũ: Bác Đồ ơi, bác Đồ ơi!...
Trần: – Bác Khóa đến, việc lớn không thể bỏ lỡ được, tôi đã nhất quyết rồi
(Cầm gươm sầm sầm chạy vào)
Mợ Đồ: (nắm lại) – Thầy nó làm gì thế? tôi sợ quá!
Trần: (giật áo) – Buông tôi ra.
(Tiếng Vũ gọi gấp bên ngoài như quát: “Bác Đồ ơi, mau lên mau lên, đẩy cửa vào. Bên ngoài có tiếng sung reo, tiếng chó cắn... Mợ Đồ hoảng hốt chạy ra cổng, vừa lúc ấy có tiếng đổ sầm. Khóa Vũ chạy vội vào, tay cầm bó đuốc sáng rực).
Vũ: – Bác Đồ ơi, bác Đồ... Quân Tây Sơn đã ra Bắc phá vỡ Kinh Kỳ rồi. Dân chúng nổi lên giết giặc. Ta đi mau lên bắt cho kỳ được Tôn Sĩ Nghị. (Hai người chạy vụt ra ngoài, tiếng người hò reo. Tiếng súng ầm ầm. Tiếng quát inh ỏi. Bắt lấy lũ giặc, bắt lấy chúng nó...”. Màn hạ.
Kết luận.
Kịch Tiếng Trống Hà Hồi Hoàng Như Mai bố cục chặt chẽ, kịch đầy kịch tính, lòng quả cảm yêu nước, tạo sức mạnh trong giả cũng như khán giả. Vở kịch nằm trong ẩn dụ lên án đoàn quân viễn chinh Pháp tái chiếm, như Tôn Sĩ Nghị đem quân xâm lăng Việt Nam thế kỷ trước. Không cần đưa kết luận bằng công thức, tả hành động diễn tiến trong kịch, người xem, người đọc kịch Hoàng Như Mai, biết được ý tác giả muốn gửi gấm điều gì, kích thích, lòng yêu nước - khi đất nước bị xâm lăng.
CHƯƠNG 7
TỔNG LUẬN VỀ BÌNH DIỆN VĂN NGHỆ MIỀN BẮC: 1950 – 1954 (Quốc Gia Việt Nam)
Từ năm 1946 đến 1956, bình dân văn nghệ kháng chiến, văn nghệ Quốc gia phát triển hai hướng ngươc chiều nhau, cùng có tác phẩm ghi lại hình tượng mới thời chiến tranh. Sự hiện diện bộ máy quân sự viễn chinh Pháp không mấy khắt khe, chỉ lo mặt quân sự hàng đầu. Chính Phủ Quốc Gia là chính phủ, nhưng ở trong lồng son Liên Hiệp Pháp. Mỗi miền tạo được số tác phẩm có bản sắc riêng biệt độc đáo.
Về văn, như Nguyễn Minh Lang, Hoàng Công Khanh, Thanh Hữu, Sao Mai, Triều Đẩu, Văn An, Huy Sơn, Nguyễn Thiệu Giang, ... về thơ Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Nguyễn Hoàng Quân, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Hoàng Song Liêm… Và các nhà thơ tiền kháng chiến: Hoàng Công Khanh, Huyền Quang, Hoài Việt, Về bộ môn kịch, Tiếng Trống Hà Hồi tác phẩm nổi trội hiển hách bộ môn kịch và đêm công diễn vào năm 1950 và 1951, khán giả Hà Nội đón nhận nồng nhiệt, vở kịch kích động lòng yêu nước được kịch tác gia đạo diễn Vũ Khắc Khoan dàn dựng.
Biên khảo dịch thuật, sử học, phương danh: Mặc Đỗ, Lê Đình Chân, Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Phạm Việt Tuyền, Giản Chi... được nhắc đến. Về phóng sự châm biếm hoạt kê điển hình: Triều Đẩu, Đoàn Thu, Hiền Nhân, Hoàng Lan – Nguyễn Xuân Huy,...
Phần sau, chúng tôi bàn đến nhà thơ miền Trung (Quốc Gia Việt Nam); điển hình Huyền Chi (nữ), Hồ Đình Phương, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh v.v...
CÒN TIẾP ...
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ