Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

Thếphong: nhà văn-nhà thơ & mối tình ' Nếu anh có em là vợ ' / Lê Quang Sinh 1926 - Hoa Kỳ -- trích : tản mạn văn chương.

                               Thếphong: nhà văn - nhà thơ

                                          & 

                   mối tình   Nếu anh có em là vợ 

 

                                      NHƯ HOA- LÊ QUANG SINH


  Chúng tôi xin hân hạnh giới thiệu cùng quý độc giả, bài viế t về mố i tình lãng mạn của nhà văn Thế Phong ( hiện đang số ng tại Saigon ) do phóng viên Thanh Hải ghi theo lời kể của nhà văn Thế Phong. Tài liệu nầ y, chúng tôi vừa nhận được từ quê nhà gởi sang .

   ( báo PHÁP LUẬT  Tp. HCM  , tháng 4 - 2006)

        NHƯ HOA-   LÊ QUANG SINH


. Thế Phong sinh ngày 10-07-1932 tại Yên Bái. Ông viế t văn, làm thơ từ hồ i còn rấ t trè. Năm 20 tuổi, ông viế t truyện ngắ n đầ u tiên , ' Đời học sinh' , ký bút hiệu Tương Huyề n, đăng trên nhật báo Tia sáng ở Hànội ( 17- 11- 1952 ). 

Truyện vừa đầ u tiên in ở Saigon năm 1954 : ' Tình sơn nữ'. 

Tổng số có trên 50 tác phẩm, đủ thể loại: thơ, truyện, phê bình, khảo luận, và dịch thuật, đã có nhiề u tác phẩm được chuyển dịch sang Anh và Pháp ngữ.

 Những sách ông viế t vào thập niên 90 và gầ n đây nhấ t, gồ m có:

- 'T.T.KH Nàng là ai ?' ( ký Thế Nhật )

 - ' Nế u anh có em là vợ '

 - ' Cuộc đời viế t văn làm báo : Tam Lang- Tôi kéo xe '

 - ' Chiêu niệm 4 nhà văn Saigon ,

 Hànội 40 năm xa 

- Hàn Mặc Tử, nhà thơ siêu thoát  v.v. ...

. Ông chủ trương nhà xuấ t bản Đại Nam Văn Hiế n ở Saigon từ 1959 đế n 4- 1975

. Và đăng truyện ngắn Les Immondices dans la banlieue trên báo Le Monde Diplomatique 

( tháng 12/ 1970).

- đăng thơ trên tạp chí TENGGARA từ 1968 đế n 1973. 

Năm 1971, thơ ông đã được in thành sách 'Asian Morning Western Music, Đàm Xuân Cận chuyển dịch anh ngữ, giáo sư Lloyd Fernando viế t tựa, Saigon 1971 & tạp chí TENGGARA giữ bản quyề n.

 Bút danh thường ký trên các tác phẩm : Tương Huyề n, Đường Bá Bổn, Đinh Bạch Dân. 

Tên tuổi tác giả đã được đưa vào các sách Intoduction à la littérature vietnamienne của

 M.M. Durand & Nguyen- Tran Huân ( Collection UNESCO, Nxb La Rose, Paris 1969) và ' Who's who in Vietnam ' ( Vietnam Press, Saigon 1974).

 Sau 1975, 2 cuố n sách in ở Hoa Kỳ: Hồ i ký ngoài văn chương ( Nxb Văn nghệ , Cali, 1996) và ' Thư viế t ở Saigon ' ( Nxb Văn Uyển, San Jose, Cali, 2000 ). 

 Chúng tôi được làm quen với ông Thế Phong từ năm 2000, qua sự giới thiệu của nhà văn, nhà báo Thanh Thương Hoàng ở San Jose. 

Và từ đó, ông đã tham gia thi tập ' Cụm hoa tinh yêu' do Hội Thơ Tài tử Việtnam Hải Ngoạ

xuấ t bản hàng năm cho tới nay .

 Đáng lẽ ông đã đế n Hoa Kỳ để tham dự Đại hội Thơ quố c tế vào ngày 17 tháng 9 năm 2006, theo lời mời của chúng tôi, nhưng lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Saigon đã từ chố i cấ p chiế u khán cho ông và phu nhân Nguyện Thị Khê, với lý do rấ t đơn giản : có khả năng không trở lại Việtnam- -  hay, nói cách , là họ ngại vợ chồ ng ông sẽ tìm cách ở lại Mỹ luôn ! 

Chúng tôi không tin như vậy. Thế Phong là một con người khá đặc biệt.

 Học giả Hoàng Xuân Việt, nhà văn Hoàng Lại Giang, nhà văn Tạ Tỵ đã nói nhiề u về cá tính của ông.

 Ông có lố i viế t bộc trực như cách số ng của ông.

 Tuy nhiên, dù thuộc thành phầ n ưa ông hay ghét ông, độc giả vẫn bị cuố n hút bởi những chuyện ông kể. Ông có lố i số ng ' bạt mạng ' , như chính ông cũng tự nhận mình la ' con ngựa bấ t kham '.

 Người ta nói,' có tật, có tài'.

 Nhưng, đố i với Thê Phong, chúng tôi xin nói ngược lại, ông là người' có tài, có tật '.

 Mười ba tuổi , khi đang học phổ thông, tôi đã cảm một cô bé học cùng lớp. Cô bé có đôi má ửng hồ ng, rất xinh. Tôi viế t vào vở cô ấy một câu tiế ng Pháp:' Je t'aime ' ( Anh yêu em ).

 Cô bé đem quyển vở nộp cho cha tôi là hiệu trưởng của trường. Ông bắt tôi xin lỗi bạn rồ i về nhà cho tôi một trận no đòn.

 Mười tám tuổi, tôi lại si là vở của một anh dân tộc Thái là thượng sĩ của Pháp. Anh ta tức tôi, báo với quan đồ n Pháp tôi là Việt Minh. Cha tôi lo lắng, bắt tôi nghỉ học, đem sang gửi ở nhà ông giáoNguyễn Quốc Bảo (sau này là bố vợ tôi ) --  nhờ thầy lo giấy tờ cho tôi về Hànội lánh nạn. 

Về Hànội khắt khe của bà cô, nhưng, tính tôi ngang tàng, ưa phóng khoáng, nào có chịu ngồ i một chỗ.

 Bà cô mắng nhiề u, vì tự ái, tôi bỏ đi lang thang, rồ i, bắt đầu viế t báo.

 Năm 1954, tôi vào Saigon, bắt đầu cuộc đời viế t văn, làm báo--  gặp Cao Mỵ Nhân, người phụ nữ để lại dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời tôi. 

Từ chuyện làm thơ, viế t báo, chúng tôi nhanh chóng sánh đôi ngay từ mới quen . Trái tim lãng đãng và nghệ sĩ trong đời tôi như đã tìm thấy ' nửa' kia cho mình.

 Cao MỵNhân  là con thứ trong gia đình khá giả. mấy chị em gái đề u tên là Nhân : Thi Nhân, Mỹ Nhân, Mỵ Nhân, Văn Nhân .

Cô số ng rất có tâm hồ n. Khi tôi dự định hỏi xin cưới Mỵ, cha cô phản đố i  anh chàng nhà văn nghèo, túi không tiề n, không nhà cửa như tôi.

 Tôi vừa giận ông, vừa buồ n cho mố i tình éo le của mình.

 Một buổi tố i, tôi đế n nhà Mỵ dõng dạc

: . Thưa bác, tôi xin trả bác cô con gái con gái còn nguyên si ạ !

Sau đó , chúng tôi chia tay để cô ấy lấy chồ ng theo ý cha mình.

 Tập thơ đầu tay Nế u anh có em là vợ ( Sài Gòn 1959) ra đời, khi lòng tôi còn tan nát về mố i tình ấy. Sau đó, còn nhiề u tập thơ tôi viế t về Mỵ và mố i tình dang dở của mình. 

 Tháng 11 năm 1965, tôi gặp Nguyễn Thị  Khê ở Đà- Lạt. Tôi mê ngay vẻ đẹp dịu dàng của người nữ 

này, cô là con ông giáo Nguyễn Quốc  Bảo  ở Nghĩa Lộ đã xin giấy phép  quan Tây cho tôi về Hà Nội học. 

. Một tháng sau, tôi lên thăm nàng, rủ nàng ra Đồ i Cù chụp hình và chụp luôn 3 cuộn phim được hơn 200 kiểu.

 Về Saigon, tôi gửi thư và thiệp cưới có in hình tôi với Khê cho bố vợ tương lai, ghi rõ :

' Cháu đã gửi thiệp cho bạn bè rồ i, chỉ chờ ý kiế n bác và Khê '.

 Cha Khê giật mình, định viế t thư bảo tôi thư thả, nhưng cũng không thể khác được.

 Hôm sau các báo đăng tin tôi sắp làm đám cưới với Khê. Bạn bè vẫn bảo tôi bắ t cóc vợ là vì thế 

. Vì từ khi gặp đế n ngày cưới chỉ hơn 2 tháng, vỏn vẹn 2 lần gặp. 

Cao MỵNhân lấy chồ ng  đã có 4 con, nhưng không hạnh phúc. 

Thỉnh thoảng, chúng tôi vẫn gặp nhau. Cô ấy vẫn làm thơ tặng tôi, vì thế mà chồ ng Mỵ buồ n, rồ i đi tìm vui nơi khung cửa khác. 

Năm 1968, chúng tôi gặp lại ở Đà Nẵng, Mỵ tặng tôi một cuố n thơ viế t cho tôi.

 Tôi đã, sau mấy năm số ng với chồ ng có 4 con, trai gái đủ cả; nhưng, cũng nổi hứng làm thơ tặng lại nàng. Sau chuyế n công tác ấy, tôi im lặng, không hề nửa lời với vợ về chuyện Mỵ, sợ nàng nổi nóng với chuyện tình cũ không rủ cũng tới của tôi. 

Và, Cao Mỵ  Nhân  sau mấy năm số ng với chồ ng không hạnh phúc, họ chia tay. 

Có lẽ cũng một phần tại tôi. Mỵ có chồ ng, nhưng vẫn làm  thơ tình nói về mối tình của  tôi và nàng .  

Tôi ngạc nhiên, khi thấy vợ chẳng giận hờn, ghen tức, còn đùa tôi :' Em sẽ tiế p sức cho anh đi '.

 Lúc ấy, tôi chưa hiểu ý vợ, nên, vẫn thường xuyên gặp Mỵ. năm 1979, Mỵ bàn với tôi sang Mỹ số ng cho mố i tình đi đường vòng của 2 đứa. Tôi mụ mị cả người, giữa một bên là cuộc số ng khó khăn, vợ tôi 5 đứa con nhỏ, một bên là tình yêu với nàng thơ , với nửa tâm hồ n.

 Tôi băn khoăn đâu là lẽ số ng  của mình !1! 

 Một sáng tinh mơ , tôi thức dậy, lặng lẽ xế p đồ , đi theo tiế ng gọi của trái tim

. Vợ tôi tưởng chồ ng dậy đi làm, nhét vội vào ví tôi 500 đồ ng đổ xăng.

 Nhưng  Trời công bằng thật, ít nhất là với vợ tôi. 

Cuộc ra đi không thành, tôi thất thểu như mấ t sổ gạo, trở về nhà, lặng thinh.t

Thấy chồ ng về muộn, vợ tôi số t sắng : ' Anh đi đâu mà chẳng nói, giờ mới về , em lo quá !' . 

Tôi sinh ra cáu giận vô cớ, còn hạ cẳng tay với nàng. Vợ tôi chắc cũng lờ mờ nhận ra nỗi lòng của chồ ng, nhưng, vẫn dịu dàng. 

 Một đêm, cô ấy thủ thỉ :

 ' Nế u anh không muố n ở với em, thì cứ đi, để 5 đứa con cho em, em không trách anh đâu !'.

 Tự nhiên, tôi mủi lòng, thấy mình không phải với nàng. Thương vợ con quá ! Sự nhẹ nhàng của người phụ nữ có sức mạnh ghê gớm thật ! Nó thức tỉnh con ngựa bất kham trong tôi. Tôi ôm lấy vợ và kể hế t mọi chuyện đi không thành cho cô ấy nghe như một đứa trẻ .

 Vợ tôi bảo : ' Đưa xem thơ cô ấ y tặng anh có hay không ?

Tôi ngoan ngoãn đưa xem, xem xong, vợ tôi vẫn dịu dàng, không ghen, không giận. 

 Đầu những năm 90, Mỵ sang Mỹ số ng.

 Chúng tôi không còn nhiề u dịp gặp như xưa, nhưng, vẫn có thơ dành tặng nhau về mố i tình dang dở ấy . 

Vợ tôi vẫn vui vẻ, làm như chẳng yêu chồ ng nên không ghen ( thế mới chế t !).

 Đế n giờ, mố i tình với Mỵ vẫn luôn là kỷ niệm đẹp và đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi. Mỵ không còn ở Việtnam, nhưng, vài năm cô ấy vẫn về thăm chúng tôi, như một người bạn, hay, một người yêu , tùy theo cô ấy.

 Sau này, tôi còn có vài kỷ niệm riêng, khi vắng vợ, nhưng, tôi không bao giờ giấu vợ được điề u gì.

 Tôi viế t cuố n Hồ i ký ngoài văn chương,(*)  để ' Tặng riêng Khê, người vợ tuyệt vời của tôi ' .

Cô ấy bảo : 

' Đố i xử với vợ như vậy mà chỉ một câu tặng người vợ tuyệt với là xong đấ y hẳn ?!'

 Tóc tôi đã điểm bạc, cháu nội ngoại đề u có cả, nghĩ lại cuộc đời mình có nhiề u kỷ niệm để nhớ- trong đó --  có mố i tình Nế u anh có em là vợ dành cho Mỵ và, có cả sự dịu dàng của người vợ luôn là sợi dây vô hình kéo tôi lại với cuộc số ng bình yên của gia đình.

 THANH HẢI.

 (  báo Pháp Luật /Tp. HCM  : tr 94- 95)


------------

(*)- Nxb Văn Nghệ ( California 1994). 


==========================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét