Thứ Năm, 1 tháng 9, 2022

đọc thêm (2) : " nhà văn miền Bắc & sự hiện hữu trong văn học miền Nam 1954- 1975 "/ Trần Hoài Anh / tphcm -- trích: vanhocsaigon>

 

Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu trong văn học miền Nam 1954 -1975

Với một thể chế chính trị đa nguyên, chấp nhận mọi sự khác biệt nên ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã hình thành một nền văn học khá cởi mở. Sự cởi mở ấy không chỉ thể hiện ở việc tiếp nhận nhiều hệ hình lý thuyết của các nền văn hóa Đông, Tây và văn hóa Mỹ mà còn thể hiện ở việc tiếp nhận một cách khách quan, công bằng, khoa học đối với giá trị của nhiều hiện tượng văn học, trong đó có tác phẩm của các nhà văn /thơ thời Tiền chiến và thời kháng chiến chống Pháp đang sống, làm việc ở miền Bắc, dưới chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng HòaĐây chính là căn tố để hình thành một nền văn học đa khuynh hướng, đa giọng điệu, đa trường phái  không giới tuyến ở miền Nam. Đó cũng là những nội dung cơ bản mà bài viết hướng đến.

1. Mở

Không biết có dân tộc nào trên thế giới lại chịu nhiều nỗi đau chia cắt như dân tộc Việt Nam. Có người cho rằng sự chia cách ấy là định mệnh của dân tộc đã được “dự báo” từ trong truyền thuyết!? Tin hay không còn tùy vào sự tín niệm của mỗi người. Song, dù muốn hay không, sự chia cách ấy là một thực thể hiện hữu trong hành trình lịch sử dân tộc, không thể phủ nhận. Nhiệm vụ của chúng ta hôm nay là phải xóa bỏ sự chia cắt ấy trong tâm thức của mình trên mọi bình diện của đời sống xã hội, trong đó có đời sống văn học. Bởi, đối với người Việt Nam sự chia cách ấy chỉ có nghĩa về mặt địa chính trị mà hiệp định Genève tháng 7/1954 với việc lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân chia hai miền Nam Bắc là một xác chứng nhưng trong tiềm thức mỗi người không bao giờ có sự phân chia giới tuyến. Chính vì vậy, suốt hai mươi năm chia cắt, tình dân tộc, nghĩa đồng bào vẫn hằng sống trong tâm cảm mỗi người Việt Nam con Lạc cháu Hồng như một ý thức về giống nòi: “Các con sẽ không bao giờ quên/ Đã cùng sinh ra trong một bọc / Một trăm trứng /Một trăm con/ Các con sẽ không bao giờ quên…” [7, tr. 50-51]. Và, cho dẫu đất nước có bị cắt chia thì văn học dân tộc vẫn vẹn nguyên và không bao giờ có sự chia cắt. Thế nên, nhiều nhà văn/ thơ Việt Nam dù sống “bên kia vĩ tuyến” vẫn hiện hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, vẫn được quan tâm nghiên cứu, được đưa vào sách giáo khoa Quốc văn giảng dạy trong nhà trường, được tôn vinh như những giá trị cao quí của văn học dân tộc mà không có bất cứ sự kỳ thị nào. Vì vậy, trong lời “phi lộ” gởi độc giả viết ngày 1/5/1967, khi tái bản tập thơ Lửa thiêng của Huy Cận tại Sài Gòn, người biên soạn đã chia sẻ: “Gần đây một số thi phẩm của các Thi nhân Tiền chiến được tuyển chọn làm tài liệu tham khảo văn chương cho chương trình Đại học Văn khoa. Trong số những thi phẩm ấy, có một số của các thi nhân mà hiện thời, họ đang sinh sống bên kia giới tuyến, nơi phân nửa của lòng đất mẹ cách ngăn! (…) Đứng trong địa hạt văn chương- đối với thi nhân- chúng tôi quan niệm rằng: Đây là những bông hoa tươi sắc ngát hương của “Vườn Hoa Tiền Chiến” thì, không lý nào chúng tôi lại dang tay ngắt bỏ đôi cành! Mà trái lại, chúng ta còn có cái trách nhiệm vun bồi, và vun bồi mãi mãi để cho Vườn Hoa Đất Nước ngày càng thêm phô Sắc ngát Hương… Có quan niệm và nhận chân được như thế, chúng ta mới có thể hy vọng sẽ làm tròn bổn phận của kẻ “chăn Vườn” hiện đại” [1, tr.6 -7]. Và đây là một thực thể hiện hữu trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975.

2. Văn học miền Nam và việc nghiên cứu các nhà văn/ thơ miền Bắc

        2.1.Văn học miền Nam với các nhà thơ /văn Tiền chiến ở miền Bắc

           Xuất phát từ bầu khí quyển văn học cởi mở, dân chủ cùng với tinh thần trân quí các giá trị văn học dân tộc, nên trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, hầu hết tác phẩm của các nhà văn Tiền chiến dù họ đang sống ở miền Bắc vẫn được xem là di sản văn chương, được nghiên cứu, tìm hiểu trong nhiều công trình khảo cứu, lý luận phê bình văn học ở miền Nam mà chúng ta có thể nhận biết sau đây.

        Xuất hiện khá sớm trong đời sống văn học miền Nam 1954-1975, Biệt ly qua thi ca Việt Nam của Nguyễn Hữu Chi, (Nam Chi Tùng Thư  Xb, Sài Gòn, 1961), khi bàn đến cảm thức biệt ly trong thơ Việt, tác giả đã viện dẫn Tràng giang của Huy Cận; Viễn khách của Xuân Diệu; Giây phút chạnh lòng của Thế Lữ cùng thơ của Thanh Tịnh; Yến Lan, Tế Hanh; Nguyễn Bính; Lưu Trọng Lư… là những nhà thơ Tiền chiến (theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học ở miền Nam) đang sống và làm việc ở miền Bắc lúc bấy giờ để luận giải, minh chứng. Còn trong Thi ca việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967), ta cũng thấy sự hiện hữu các nhà thơ Tiền chiến đang sống ở miền Bắc, dù họ ở cương vị nào trong xã hội. Đó là nhà thơ Phan Khôi với Tình già, Chơi thuyền sông Tân Binh; Thế Lữ  với Nhớ rừng, Tiếng gọi bên sông, Bên sông đưa khách, Cây đàn muôn điệu; Lưu Trọng Lư  với Thơ sầu rụng, Thú đau thương, Nắng mới, Xuân về, Tiếng thu; Vũ Đình Liên  với Lòng ta là những thành quách cũ, Ông đồ; Thanh Tịnh với Mòn mõi; Anh Thơ  với Chiều xuân – Trưa hè;  Xuân Diệu với Viễn Khách, Huyền Diệu, Nhị hồ, Lời kỷ nữ, Hư vô, Nguyệt Cầm ; Yến Lan  với Bến My Lăng; Huy Cận  với Tràng Giang, Chiều xưa – Thu rừng, Ngậm ngùi – Hồn xa; Hồ Dzếnh với Ngập ngừng – Xuân ý, Phút linh cầu, Tình xưa, Phong Châu, Lỡ đò; Nguyễn Bính  với Xa cách, Tương tư, xuân về, Giấc mơ anh lái đò; Chế Lan Viên với Mơ trăng, Đêm tàn, Những sợi tơ lòng, Ngủ trong sao, Đêm xuân sầu, Xuân, Cõi ta ; Tế Hanh với Lời con đường quê, Ao ước, Vu vơ và kể cả Tố Hữu với Mồ côi, Tiếng hò sông Hương, Chiều

       Ở Hồn thơ nước Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., SG., 1967), Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã luận giải Hồn thơ nước Việt như một dấu ấn tâm linh của hồn dân tộc qua thơ của Phan Khôi, Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Anh Thơ; Vũ Đình Liên, Nguyễn Xuân Sanh… và xác quyết đây là những giá trị tiêu biểu của hồn thơ nước Việt. Còn ở công trình khảo cứu khá đồ sộ, có giá trị về lịch sử văn học như Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945), (Nxb. Trình bày, SG, 1967) của Thanh Lãng, khi phân chia các khuynh hướng văn học, ông không quên đề cập đến các nhà văn đang sống ở miền Bắc như: Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyên Hồng; Nguyễn Tuân, Thế Lữ, … Và trong cái nhìn tinh tế và uyên áo của Thanh Lãng “với Gió Trăng ngàn,  Thế Lữ muốn chúng ta tìm lại không phải cái nếp sống vừa mất đi như Nguyễn Tuân đã ghi nhận trong Vang bóng một thời mà là mất đi đã từ lâu. Cuộc đời trầm lặng ngây thơ, hồn nhiên hoang dại của đồng bào miền sơn cước, cái đời ấy là cái đời của tổ tiên chúng ta ở một cái thời đã xa lắm. Cái đời ấy mới đẹp, mới say sưa. Những mối tình ở đấy, mới là mối tình chân thật. Thế Lữ đưa chúng ta trôi dạt trong thế giới của gió, của trăng, của rừng, của núi, của tất cả cái gì hoang dại” [4, tr.750].

Là một trong những nhà nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền chiến (1932-1945), Nguyễn Tấn Long – Phan Canh trong chuyên khảo Khuynh hướng thi ca tiền chiến, biến cố văn học 1932-1945, (Sống mới Xb., SG, 1968) đã luận bàn về Tình già của Phan Khôi; Lửa thiêng của Huy Cận; Điêu tàn của Chế Lan Viên; Thơ thơ của Xuân Diệu; Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính; Nghẹn ngào của Tế Hanh; Tiếng thu   của Lưu Trọng Lư; Mấy vần thơ của Thế Lữ và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh. Đặc biệt, trong phần luận giải về khuynh hướng xã hội, các tác giả đã phân tích bài thơ “Vú em; Tiếng hò sông Hương; Dững dưng” của Tố Hữu và cho rằng: “Người thi nhân khuynh hướng xã hội không có quyền khách quan trước cái khổ của loài người, mà phải đem tình cảm mình trộn lẫn vào nỗi khổ cực của xã hội. (…) Nguồn thi cảm của họ đi tìm cái đau đớn chan hòa: Vú em: “Nàng gửi con về nương xóm cũ/ Nghẹn ngào trở lại đẩy xe nôi/ Rồi ừ hôm ấy ôm con chủ / Trong cánh tay êm, luống ngậm ngùi” [5, tr.540 – 543]. Còn trong công trình khảo cứu của riêng mình với bộ ba tác phẩm Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q.Thượng) Sống mới Xb., SG,1968, Nguyễn Tấn Long đã luận bàn khá sâu, rộng về cuộc đời, văn nghiệp và trích dẫn thơ của các nhà thơ: Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Thanh Tịnh,  Xuân Diệu, Anh Thơ; Ở Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q. Trung) là sự góp mặt của các nhà thơ: Huy Thông, Chế Lan Viên, Vũ Đình Liên, Huy Cận và ở Việt Nam Thi nhân tiền chiến (Q. hạ) là sự hiện diện của các nhà thơ: Yến Lan, Đoàn Văn Cừ, Hồ Dzếnh, Hằng Phương, Tú Mỡ, Tế Hanh. Có thể nói, với hàng ngàn trang viết và những tư liệu cùng sự luận giải của Nguyễn Tấn Long về đời và thơ của các nhà Thơ Mới, có thê nói, đây là một trong những công trình nghiên cứu công phu, có giá trị về mặt tư liệu và khoa học trong những công trình nghiên cứu về phong trào Thơ mới, không chỉ đối với văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà còn có giá trị trong đời sống nghiên cứu, phê bình văn học của dân tộc. Và dù không nghiên cứu chuyên sâu về thi ca Tiền chiến như Nguyễn Tấn Long, nhưng Huy Trâm ở công trình khảo cứu Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963), (Nxb. Sáng, Sài Gòn,1969), cũng đã phân tích một số bài thơ như: Bươm Bướm ngày xưa (Nguyễn Bính); Ngập ngừng (Hồ Dzếnh) Buồn đêm mưa, (Huy Cận); Thu (Xuân Diệu); Tiếng Thu (Lưu Trọng Lư); Ông đồ (Vũ Đình Liên) … Đặc biệt Huy Trâm đã phân tích bài thơ Chiều của Tố Hữu, một lãnh đạo cao cấp trên mặt trận tư tưởng – văn hóa – văn nghệ ở miền Bắc với những lời chia sẻ khá trân trọng: “Lão ngồi bên cửa sổ (…) Đôi chiếc lá vàng rơi/ Vô tình qua trước mắt/ Lão buông lạt trông trời…”, và nhận xét: “Một bài thơ viết theo lối tả thực làm chúng tôi nhớ đến bài “saison de semailles, le soir” của Victor Hugo” [9, tr.153].

      Bùi Giángmột trong những “quái kiệt” của văn học miền Nam 1954-1975, vốn không dễ ngợi ca ai, vậy mà trong công trình nghiên cứu được xem như một sự hợp hôn diệu kỳ giữa thi ca và triết học có tên Thi Ca Tư Tưởng, (Ca dao Xb., Sài Gòn, 1969), khi luận bàn đến các nhà thơ / văn Tiền chiến ở miền Bắc, Bùi Thi Sĩ cũng dành cho họ những lời “có cánh” mà nếu không thật sự nễ phục tài năng của họ, chắc Bùi Tiên sinh sẽ không “hết lời” ngợi ca như thế!? Đây là lời Bùi Giáng viết về thơ Xuân Diệu: “Sau ba mươi năm dài, trải bao phiêu du ngoài đời, cũng như lưu ly trong thi ca tư tưởng, ngày nay cầm lại cuốn Thơ Thơ, tại hạ cảm thấy một cái gì không thể tả. Đọc lại thơ Nguyễn Bính, thơ Lưu Trọng Lư, có thể không bồi hồi chi mấy. Nhưng đọc Thơ Thơ lại khác hẳn. Dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào. (…) Thơ hồn nhiên rộng rãi như thế đúng là thơ của thiên tài tuổi trẻ”[3, tr.32]. Còn với Hoài Thanh, người gắn liền tên tuổi mình với phong trào Thơ Mới qua tác phẩm phê bình văn học nổi tiếng Thi Nhân Việt Nam, Bùi Thi sĩ đã xác quyết: “Ngôn ngữ thơ Việt Nam thành tựu bởi Nguyễn Du. Văn xuôi Việt Nam đạt tới cõi thâm viễn với Hoài Thanh. Hoài Thanh bình kiều, Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam có những lời bất hủ. Thiên tài Hoài Thanh đủ tư cách dựng sừng sững những thiên tài đứng lên chót vót. Và ông mở ra không biết bao nhiêu con đường cho những thi sĩ và phê bình gia đi sau” [3, tr.65]. Viết về Huy Cận, một trong những nhà thơ Tiền chiến, Bùi Giáng rất “mê”, rất trân quí, và tình cảm đặc biệt nầy thể hiện rõ trong Thi Ca Tư Tưởng  khi ông dành rất nhiều trang viết về thơ Huy Cận. Với Bùi Giáng: “Thơ Huy Cận quả có như là cõi miền huyền bí nhất của tinh thể Đông Phương” [3, tr.89]. Đây cũng là điều khá lý thú mở ra những hướng nghiên cứu mới về thi tài của Bùi Giáng và Huy Cận đối với những ai quan tâm đến đời và thơ của hai thi sĩ kỳ tài nầy.

Hoàng Diệp, một người bạn thơ cùng thời, đã có những năm tháng sống và hoạt động văn học với Chế Lan Viên, trong khảo luận: Chế Lan viên – thi sĩ tiền chiến, (Khai Trí Xb, SG,1969) đã có những cảm nhận sâu sắc về thơ Chế Lan Viên mà theo Hoàng Diệp: “Hơn một phần tư thế kỷ, Sự hiện diện của Chế Lan Viên đã khuấy động và làm đảo lộn thật sâu xa một thế hệ Thi ca. Giữa đại dương của các trào lưu lãng mạn thời tiền chiến. Lan Viên đến như một dũng tướng từ một cõi xa lạ nào. Với một nguồn suối mới, một khuynh hướng riêng biệt, chàng đã gây ngạc nhiên không nhỏ đối với các nhà phân tâm học, nhất là về phương diện thần bí” [2, tr.117].

     Uyên Thao, một trong những nhà nghiên cứu văn học có uy tín ở miền Nam, với công trình khảo cứu Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., SG, 1969 cũng đã có những trang viết luận giải khá tinh tế về thơ của các nhà thơ đang sống và hoạt động văn nghệ ở “bên kia chiến tuyến”. Đó là Xuân Diệu với Thơ thơ, Gửi hương cho gió; Huy Cận với Lửa thiêng; Thế Lữ với Mấy vần thơ; Nguyễn Bính với Lỡ bước sang ngang; Lưu Trọng Lư với Tiếng thu; Vũ Đình Liên với Ông Đồ; Anh Thơ với Bức tranh quê; Tế Hanh với Nghẹn ngào; Chế Lan Viên với Điêu tàn; Tố Hữu với Qua cổ tháp; Một tiếng rao đêm…Những bài thơ nầy được người đọc đón nhận nồng nhiệt như món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống văn chương.

Trong Mười khuôn mặt văn nghệ, (Tác giả Xb., SG,1970), một công trình nghiên cứu khá ấn tượng về thể loại chân dung văn nghệ, Tạ Tỵ đã dành những trang văn giàu tâm cảm với tất cả sự quí trọng hiếm có của tình văn chương không giới tuyến cho những bạn văn của mình mà ông luôn thương nhớ dẫu rằng sự chọn lựa “chí hướng” của họ hoàn toàn khác biệt với ông. Đó là hình ảnh Nguyễn Tuân với bài viết “Nguyễn Tuân và thái độ kẻ sĩ trước Cách mạng qua tác phẩm Chùa đàn” mà qua cái nhìn của Tạ Tỵ: “Nguyễn Tuân là một trong những khuôn mặt lớn của văn học Nghệ thuật Việt Nam ở trước và trong cuộc chiến. Nói đến Nguyễn Tuân là nói một giá trị hiển nhiên, là khơi sáng lại dòng thời gian chìm khuất, là nhắc nhớ đến một vùng trời xôn xao của thanh âm ngôn ngữ. Nguyễn Tuân đứng sửng trước mặt chúng ta với vóc dáng kiêu kỳ, với từng ngón tài hoa, với đôi cánh chập chờn bay lượn trên đỉnh cao nghệ thuật. Hành trình đi vào tác phẩm Nguyễn Tuân như hành trình đi vào một cung điện tráng lệ đầy màu sắc diễm ảo” [10, tr.31]. Hay bài viết: “Nguyễn Bính một thiên tài lỡ dở” và “Văn Cao một tinh cầu giá lạnh” mà trong tâm thức Tạ Tỵ: “sự hiện diện của Văn Cao ở một hàng ngũ Cách Mạng nào đó trước 1945, người ta đừng lấy làm lạ, phải coi như một lẽ đương nhiên. Kẻ thù đã đẩy, chẳng riêng gì Văn Cao mà cả Dân Tộc đứng lên đòi quyền sống” [10, tr.178].

Bên cạnh các công trình khảo cứu, lý luận phê bình, gương mặt của các nhà văn/ thơ Tiền chiến ở miền Bắc, còn hiện hữu ở các công trình nghiên cứu mang tính chất văn học sử. Đó là gương mặt  của Thế Lữ, Nguyễn Công Hoan, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Tú Mỡ… trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 3 văn học hiện đại 1862-1945, (Quốc học Tùng thư Xb., SG, 1965), của Phạm Thế Ngũ. Hay gương mặt của Nguyễn Tuân, Xuân Diệu trong Văn học Phân tích Toàn thư, (Lá Bối Xb., SG, 1973), của Thạch Trung Giả. Và gương mặt của Xuân Diệu, Tú Mỡ, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Tuân, Trương Tửu – Nguyễn Bách Khoa, Phan Khôi, Huy Cận, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Đoàn Văn Cừ, Huy Thông, Tô Hoài, Nguyễn Công Hoan… trong Lược sử văn nghệ Việt Nam – Nhà văn tiền chiến, (Vàng Son Xb., SG, 1974), của Thế Phong. Còn trong Văn học sử Thời kháng Pháp (1858 -1945) của Lê Văn Siêu, (Trí Đăng Xb., SG, 1974), là gương mặt của Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Anh Thơ, Chế Lan Viên, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyên Hồng, Tú Mỡ…

Đặc biệt hơn cả là sự hiện diện của các nhà văn/ thơ ở miền Bắc trong sách giáo khoa Quốc Văn giảng dạy ở các trường trung học miền Nam như: Việt Văn toàn thư Tú tài I Ban ABCD của Vũ Ký, Á Châu Xb., có trích giảng thơ của các nhà thơ: Phan Khôi với Tình già, Thế Lữ với Giây phút chạnh lòngNhớ rừngCây Đàn muôn điệu, Tiếng sáo thiên thai; Xuân Diệu với Đây mùa thu tới, Chiều, Tương tư chiều ; Vũ Đình Liên với Hồn xưa; Huy Cận với Tràng giangQuốc Văn 12ABCD, Trường Thi xuất bản, nhóm Giáo sư Quốc Văn, Sài Gòn, 1974, trích giảng Ngậm ngùi của Huy Cận; Trưa vắng của Hồ Dzếnh; Ông Đồ của Vũ Đình Liên; Giây phút chạnh lòng; Nhớ rừng của Thế Lữ; Tình già của Phan Khôi; Tiếng thu của Lưu Trọng Lư, Nằm vạ của Bùi Hiển; Tắt đèn, Việc làng, lều chõng của Ngô Tất Tố; Tắt lửa lòng, Bước đường cùng, Kép tư Bền, Cô giáo Minh của Nguyễn Công Hoan; Quê người, O chuột, Xóm giềng ngày xưa của Tô Hoài; Bỉ vỏ, Bảy Hựu, Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng; Quê Mẹ, Ngậm ngãi tìm trầm của Thanh Tịnh; Quốc Văn lớp tám của Nguyễn Quế Viên, Tác giả Xb., 1974, có Nguyễn Tuân, (Chơi hoa, Vang bóng một thời); Nam Cao (Chí Phèo) Phan Khôi (Học với chung quanh ta); Thế Lữ, (Nhớ rừng); Giảng Văn lớp bảy, do Đỗ Văn Tú biên soạn, Việt Nam Tu Thư, Sài Gòn, 1974, có các tác giả: Thế Lữ (Mấy vần thơ, Vàng và máu, Gói thuốc lá) Tô Hoài (Quê Người, O chuột, Xóm Giềng ngày xưa, Dế mèn phiêu lưu ký)… Riêng công trình Văn học từ điểnNxb.Khai Trí, SG, 1974, của Thanh Tùng đã đề cập hầu hết tiểu sử và văn nghiệp các nhà văn sống ở miền Bắc như: Anh Thơ, Bùi Hiển, Chế Lan Viên, Đào Duy Anh, Đoàn Phú Tứ, Đoàn Văn Cừ , Hằng Phương, Hoài Thanh, Hồ Dzếnh, Huy Cận, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Mạnh Phú Tư, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính, Nguyễn Công Hoan, Phan Khôi, Tế Hanh, Thanh Tịnh, Thâm Tâm, Thế Lữ, Tồ Hoài, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Xuân Diệu, Yến Lan… Ngoài ra, còn có các số báo chuyên đề về cuộc đời và hành trình sáng tạo văn chương của các nhà văn, nhà thơ đang sống ở miền Bắc lúc bấy giờ như: Văn học số 100 (1/1/1970) về Nguyễn Bính; Văn học số 114 (1/11/ 1970) về Văn Cao; Văn học số 105 (15/4/1970) về Nguyễn Tuân; Văn học Giai phẩm (20/8/1970) về Chế Lan Viên; Văn số 4/1973 về Hồ Dzếnh; Thời tập số ra ngày 15/11/1974 về Nguyễn Tuân; Văn học giai phẩm/1974 về Thế Lữ; Văn học giai phẩm/1974 về Hồ Dzếnh …

Có thể nói, trong đời sống văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, Các nhà văn/thơ Việt Nam thời Tiền chiến (tên gọi định danh cho thời kỳ văn học 1932-1945) đều xuất hiện trong các công trình nghiên cứu văn học mà không có một sự phân biệt đối xử, phân biệt giới tuyến. Không những thế, các sáng tác của họ đều được tái bản ở miền Nam mà không hề bị cấm đoán, được người đọc trân trọng tiếp nhận, được xem như một bộ phận “trung tâm” của văn học miền Nam chứ không “bị” đẩy ra khu vực “ngoại biên”. Điều nầy cũng cho thấy tính “phi giới tuyến” của nền văn học miền Nam mà chúng tôi đã đề cập đến ở phần tóm tắt của bài viết.

      2.2. Văn học miền Nam với các nhà văn/ thơ kháng Pháp sống ở miền Bắc

    Không chỉ có các nhà thơ/ văn Tiền chiến mới hiện hữu trong văn học miền Nam 1954-1975 mà trong nền văn học không giới tuyến ở miền Nam còn có sự hiện hữu của các nhà thơ/ văn trong kháng chiến chống Pháp. Bộ phận văn học này cũng được các nhà lý luận, phê bình văn học miền Nam rất trân trọng, với những đánh giá khá cao, xem đây là một phần không thể thiếu để tạo nên hệ giá trị của văn học dân tộc như Uyên Thao trong Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969 đã xác quyết: “Những cái gì đã hình thành nên do một phần xương máu của chúng ta, của anh em, đồng bào ta, ta phải giữ lấy, và phải đặt nó vào vị trí xứng đáng của nó. Văn nghệ kháng chiến trong dòng sinh hoạt nghệ thuật của dân tộc là một mắc xích giữa hai chuỗi mắc xích. Như các giai đoạn khác, nó là những gạch nối để giòng sinh hoạt nọ được gọi là một giòng. Thiếu nó giòng sinh hoạt nọ chỉ xứng với cái tên là “những đoạn không gắn bó, đứt quảng (..) Phủ nhận văn nghệ kháng chiến chúng ta sẽ trở thành những tên bói mù” [8, tr.311].

Xuất phát từ điểm nhìn này, nên ở văn học miền Nam có khá nhiều công trình lý luận phê bình quan tâm nghiên cứu đến sáng tác của các nhà văn/ thơ thời kháng Pháp như Hồn thơ nước Việt Thế kỷ XX, (Sơn Quang Xb., Sài Gòn, 1967) của Lam Giang và Vũ Tiến Phúc đã luận bình về các bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng; Viếng bạn của Hoàng Lộc; Màu tím Hoa sim của Hữu Loan. Hay trong Thi ca Việt Nam hiện đại, của Trần Tuấn Kiệt, (Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, 1967) đã đề cập đến thơ Quang Dũng với kẻ ở, Đôi bờ; Hoàng Cầm với Em bé lên sáu tuổi; Văn Cao với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những ngày báo hiệu mùa xuân; Phùng Quán với Lời mẹ dặn; Hữu Loan với Cùng những thằng nịnh hót.  Còn Huy Trâm trong Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963) (Nxb. Sáng, Sài Gòn, 1969) thì phân tích thơ Quang Dũng với Đôi mắt người Sơn Tây; Kẻ ở ; Nguyễn Đình Thi với  Đất nước, Hữu Loan với  Đèo cả; Tố Hữu với Ngày về mà trong sự cảm nhận của Huy Trâm thì so với “Ngày về” của Guy de Maupassant, nội dung câu chuyện trong bài xem ra có phần cay đắng hơn” [9, tr. 171].

Uyên Thao với Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng Lĩnh Xb., Sài Gòn, 1969) đã luận bàn khá sâu sắc về văn học kháng Pháp qua phân tích Dọn về làng (Nông Quốc Chấn); Mùa cốm Mới, Lên Cấm Sơn (Thôi Hữu); Màu tím hoa sim (Hữu Loan); Tháng năm ra trận, Đồng chí (Chính Hữu); Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây (Quang Dũng); Bên kia sông Đuống (Hoàng Cầm); Đất nước (Nguyễn Đình Thi); Cá nước, Bầm ơi, Phá đường (Tố Hữu)…Và theo Uyên Thao: “Đối với lịch sử, văn nghệ kháng chiến là một tấm gương soi sáng xã hội Việt Nam, soi sáng tâm hồn cũng như tinh thần người Việt trong một giai đoạn cần nhiều máu đổ. Nó chứng minh với ngàn sau, tinh thần bất khuất và kiên cường của người Việt Nam trước giông tố (…)  Đối với văn học, đối với lịch sử, vị thế của văn nghệ kháng chiến là thế. Phủ nhận vị thế đó, chúng ta sẽ là những kẻ phản bội ngay cả cái phần gọi là NGƯỜI trong con người mình” [8, tr.313].

Ngoài những công trình nghiên cứu có đề cập đến thơ văn kháng Pháp đã nêu, trên lĩnh vực báo chí cũng có một số bài nghiên cứu về một số tác phẩm của các nhà văn/ thơ trong kháng chiến chống Pháp. Cụ thể, trên tạp chí Phổ Thông số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960, trong mục “Những áng thơ hay” có bài viết về bài thơ Nhà tôi của Yên Thao do Nguyễn Thu Minh giảng bình. Và đây là lời bình khá tinh tế và sâu sắc của Nguyễn Thu Minh : “Tôi có người mẹ già…. Tơ tằm rút mãi cho lòng heo hon” . Thử hỏi trong cuộc đời này, ngoài tình yêu tổ quốc, còn tình yêu thương nào hơn được tình gia đình, nghĩa vợ chồng nữa đâu? Yên Thao của chúng ta đau buồn, luyến nhớ là phải. Mà càng nhớ bao nhiêu lại càng lo âu, thắc mắc bấy nhiêu. Vì những người thân yêu của chàng hiện đang sống trong vùng giặc chiếm đóng, chả biết ra sao, liệu còn yên ổn sống hay đã không may trong cuộc đời ly loạn (…) Đọc bài thơ trên, chắc đã làm các bạn thỏa mãn từ lời thơ cho đến ý thơ của tác giả, dầu với hình thức tơ tự do. Và lòng chúng ta không khỏi rộn lên niềm thương vui, luyến nhớ lẫn lộn, với thi nhân Yên Thao, lúc thì man mác dìu dịu như làn hương thơm quyện lấy tâm hồn, lúc lại rộn rã, tha thiết ngập tràn lòng như ánh mai vừa ló ở chân trời xa mênh mông sáng đẹp của một ngày mới bắt đầu!” [6, tr.98 -99].

Đặc biệt, trong tiểu luận “Thi ca trước tình cảnh cực đoan”, (Ý Thức số 11 ra ngày 15/3/1971), Huỳnh Hữu Ủy đã đánh giá cao giá trị một số bài thơ viết trong những năm kháng Pháp của các nhà thơ đang sống ở miền Bắc như: Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao, Phùng Quán, Nguyễn Đình Thi; Hữu Loan; Hoàng Cầm…Trong đó, Tố Hữu là nhà thơ mà Huỳnh Hữu Ủy quan tâm đặc biệt với những câu thơ  mà nhà nghiên cứu rất ám ảnh: “Em là con gái Bắc Giang/ Rét thì mặc rét nước làng em lo”; và “Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm” hay “Đợi anh về (dịch thơ Simonov). Đó còn là hình ảnh anh bộ đội trong thơ Quang Dũng hay Chính Hữu: “Súng bên súng đầu nép bên đầu/ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”… mà Huỳnh Hữu Ủy đã xác quyết: “Ai dám bảo chiến sĩ chỉ biết chiến đấu và nuôi dưỡng căm hờn? Cuộc kháng chiến trường kỳ trước đây của dân tộc là một giấc mơ to lớn đẹp đẽ, vô ngần thơ mộng, đủ cả thất tình. Tình cảm đấu tranh, tình dân tộc, tình tự gái trai, tất cả đều chất ngất quyện vào nhau, tạo thành một trường ca vĩ đại … “Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Quang Dũng [11, tr.21]. Trong cảm thức của Huỳnh Hữu Ủy: “Thi ca của giai đoạn kháng chiến (mà những trích dẫn trên chỉ là một phần rất nhỏ của kho tàng to lớn này) đã đóng góp một phần rất lớn trong việc cổ xúy một cuộc đấu tranh trường kỳ. Nền thi ca ấy đã hoàn thành sứ mệnh cao đẹp của nó, đã để lại cho chúng ta những viên hồng ngọc quí giá như minh chứng của một phần hồn thiêng dũng cảm phi thường của dân tộc, một dân tộc của những người không khuất chí, luôn sẵn sàng đứng dậy, trước bất cứ hoàn cảnh và chông gai nào” [11, tr.22]. Và cũng như các nhà thơ/ văn Tiền chiến, thơ văn của các nhà văn kháng chiến thời chống Pháp cũng hiện hữu trong các công trình nghiên cứu về lịch sử văn học và sách giáo khoa Quốc văn trung học mà chúng tôi đã nêu ở trên. Ngoài ra một số báo tạp chí cũng ra số đặc biệt về các nhà thơ / văn thời kháng Pháp như tạp chí Văn học, một tạp chí nghiên cứu, phê bình khá uy tín trong văn học miền Nam đã dành hai số 125/1971 và 145/1971 giới thiệu về đời và thơ Quang Dũng và số 139/1971 giới thiệu về nhà thơ  Hữu Loan…

Có thể nói, hình ảnh các nhà thơ / văn trong kháng chiến chống pháp sống ở miền Bắc cùng sáng tác của họ hiện hữu trong văn học miền Nam 1954-1975 đã xác tín tính “phi giới tuyến” của văn học miền Nam, trong việc góp phần tôn vinh, gìn giữ và lan tỏa giá trị của văn học cách mạng và kháng chiến ở miền Nam suốt hai mươi năm chia cắt. Chính điều này đã góp phần thức nhận lòng yêu quê hương đất nước và tình tự dân tộc trong tâm thức người dân miền Nam mà lẽ nào hôm nay chúng ta có thể lãng quên!?

3. Thay lời kết

Như tên gọi của bài viết: Nhà văn miền Bắc và sự hiện hữu trong văn học miền Nam 1954 -1975 và với những gì đã minh chứng qua các tư liệu xuất bản ở miền Nam trước1975 được khảo sát trong điều kiện có thể, đã phần nào đặt ra vấn đề: “Phải chăng không có “giới tuyến” trong văn học miền Nam 1954-1975?. Rõ ràng qua những tư liệu này có thể xác quyết trong giai đoạn 1954-1975, cho dẫu đất nước bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, nhưng trong văn học miền Nam hình như không có “vĩ tuyến” đó. Bởi, trong tâm thức nhân dân miền Nam, trong đó có các nhà nghiên cứu văn học, văn chương của các nhà văn/ thơ đang sống ở miền Bắc luôn hiện hữu như một hệ giá trị của văn học dân tộc. Đây là một vấn đề cần được khẳng định trong văn học miền Nam 1954-1975 mà dường như lâu nay đã bị “chôn vùi” bởi những định kiến thiển cận về văn học miền Nam ở một thời không xa khi cho rằng, đây là bộ phận văn học “đồi trụy” “phản động” mà không thấy được Tinh hoa của văn học dân tộc vẫn tiềm ẩn trong bộ phần văn học nầy. Phải chăng, đến lúc cần thay đổi cách nhìn về văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, để nhận ra những giá trị đích thực của nó, với một cái nhìn khoa học, khách quan trên tinh thần nhuần thấm tình tự dân tộc, để làm thế nào tạo nên một nền văn học Việt Nam “không giới tuyến” cũng như đất nước chúng ta đã từ lâu không còn giới tuyến!?

Và để khép lại bài viết nầy, chúng tôi muốn viện dẫn ý kiến Uyên Thao trong Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, (Hồng Lĩnh Xb., SG, 1969), khi ông đặt vấn đề tiếp nhận tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 mà theo ông nếu “vì chính trị mà chạy quá xa, chối bỏ ngay cả tác phẩm của giai đoạn trước chỉ vì ngày nay tác giả còn ở bên kia chiến tuyến. Tính chất liên tục của một sự nghiệp nghệ thuật, một giòng sinh hoạt không có tận cùng buộc chúng ta không được làm thế, dù với lý do nào. Vì, nếu đắp đất chặn ngang một con sông thì nửa trên sẽ biến thành đầm, thành hồ, trong khi nửa dưới bơ vơ lạc lõng, không có phát nguồn. Chẳng sớm thì chày cái phần bơ vơ lạc lõng này sẽ cạn mà thôi” [8, tr.308]. Nhận định ấy, có thể không còn nguyên ý nghĩa của nó như trước đây khi đất nước còn bị chia cắt nhưng dẫu sao, cũng là một lời nhắn gởi bổ ích, hữu dụng với chúng ta ngày nay, trong việc nhìn nhận giá trị của văn học miền Nam 1954-1975, một di sản của văn học dân tộc không thể phủ nhận…


        Xóm Đình An Nhơn, Gò Vấp, 9.4.2022

PGS-TS TRẦN HOÀI ANH



Tài liệu tham khảo:

(1) Huy Cận (1967), Lửa thiêng, (tái bản tại miền Nam), Sài Gòn

(2) Hoàng Diệp (1969), Chế Lan viên – thi sĩ tiền chiến, Khai Trí Xb., SG

(3) Bùi Giáng (1969), Thi Ca Tư Tưởng, Ca dao Xb., Sài Gòn

(4) Thanh Lãng, (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (Q. hạ) Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945)Nxb. Trình bày, SG

(5) Nguyễn Tấn Long – Phan Canh (1968), Khuynh hướng thi ca Tiền chiến biến cố văn học 1932-1945, Sống mới Xb., SG

(6) Nguyễn Thu Minh (1960),“Bình giảng bài thơ Nhà tôi của Yên Thao”, Phổ Thông, số 44 (Bộ mới) ra ngày 15/10/1960

(7) Đỗ Nghê (1970), Tâm sự Lạc Long QuânÝ Thức số 04 ra ngày 15/11/1970

(8) Uyên Thao (1969), Thơ Việt Nam hiện đại 1900 -1960, Hồng Lĩnh Xb., Sài Gòn

 (9) Huy Trâm (1969), Những hàng châu ngọc trong thi ca hiện đại (1933 -1963), Nxb. Sáng, Sài Gòn

 (10) Tạ Tỵ (1970), Mười khuôn mặt văn nghệ, Tác giả Xb., Sài Gòn

(11) Huỳnh Hữu Ủy (1971), “Thi ca trước tình cảnh cực đoan”, Ý Thức số 11 ra ngày 15/3/1971

         (Bài đã đăng Tạp chí Nghiên cứu Văn học Viện văn học số 5/2022)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét