đọc thêm (1) : " nhà văn của tuổi thơ Nhật Tiến ( 1936- 2000 ) / Nguyễn văn Tuấn -- trích: http://nguyenvantuan.info>
Nhà văn của tuổi thơ Nhật Tiến (1936 – 2020)
Mới nhận được tin buồn Nhà Văn Nhật Tiến mới qua đời ở California ngày hôm nay (14/9/2020), thọ 84 tuổi [1]. Tôi mê văn chương của ông từ thời còn ngồi ghế trung học. Vậy là thêm một nhà văn nổi tiếng trước 1975 lại ra đi. Cần nói thêm là hiền thê ông cũng mới qua đời chưa đầy 1 tháng.
Nhà văn của tuổi thơ Nhật Tiến (1936 – 2020)
Nhật Tiến tên thật là Bùi Nhật Tiến, sanh ngày 24-8-1936 tại Hà Nội. Năm 1954 ông di cư tị nạn trong Nam, thoạt đầu sống ở Đà Lạt, sau này dọn về Sài Gòn. Ông có thời gian dạy học ở Bến Tre và Mỹ Tho (dù ông không tốt nghiệp trường sư phạm nào). Trong thời gian này ông sáng tác nhiều truyện ngắn, truyện dài. Theo bài của Ngô Thế Vinh [2] thì truyện đầu tay của ông là “Những Người Áo Trắng”, viết về một nữ tu tên Quỳnh thương thầm và đơn phuơng một nam sinh viên, và những xung đột nội tâm về cuộc tình đơn phương đó. Một bên là dâng hiến cuộc đời cho Chúa, còn một bên là xúc cảm cá nhân.
Bìa một số sách Nhật Tiến xuất bản tại Miền Nam trước 1975 Bìa một số sách Nhật Tiến xuất bản tại Miền Nam trước 1975. Ảnh và chú thích của Nhà văn Ngô Thế Vinh
Riêng cá nhân tôi thì thích tác phẩm Thềm Hoang hơn. Thật ra, những ai lớn lên thời 1970s đều biết ông qua tác phẩm này (được trao giải thưởng Văn học 1962). Thềm Hoang viết về thế giới của những người nghèo trong một xóm lao động ven đô Sài Gòn. Trong cuốn tiểu thuyết đó, nhà văn mô tả một cách sống động về cuộc sống của đủ thành phần trong xã hội, từ người đạp xích lô, người bán hàng rong, người ăn xin, người [nói theo ngôn ngữ ngày nay là] bán dâm. Nhật Tiến tỏ ra là một người quan sát tinh tế và có óc phân tích tâm lí, nên làm cho người đọc cảm thấy vừa hào hứng mà vừa suy tư.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Mạnh Trinh nhận xét, theo tôi, rất đúng về Nhật Tiến: “Có rất nhiều chân dung nhà văn Nhật Tiến: nhà văn của tuổi thơ bất hạnh, nhà văn của hiện thực xã hôi, nhà văn của lưu lạc xứ người, mà mẫu chân dung nào cũng đều có nhiều cá tính văn chương và trong mỗi dòng chữ, mỗi ý tưởng đếu có những thông điệp trao gửi theo“.
Vì là nhà giáo, nên sau 1975 ông không phải đi tù cải tạo, nhưng phải đi học ‘bồi dưỡng chánh trị’ tại chỗ. Năm 1979, ông vượt biên và cuộc vượt biển kinh hoàng đã để lại một vết thương lòng lớn. Ông là một chứng nhân về những bạo hành xảy ra trên đảo quỉ Ko Kra. Năm 1980 sau khi định cư ở Mĩ, ông cùng hai nhà báo Dương Phục và Vũ Thanh Thuỷ viết bản cáo trạng về thảm nạn thuyền nhân trên Biển Đông, trong các tại tị nạn Songkhla (Thái Lan) làm rúng động lương tâm thế giới thời đó. Sau cáo trạng đó là sự ra đời của Uỷ ban cứu nguy người vượt biển (Boat People SOS Committee) đã giúp rất nhiều người tị nạn thời đó.
Nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến ngồi viết cáo trạng thảm cảnh biển Đông trong trại tị nạn Songkhla, Thailand 1980 Nhà văn thuyền nhân Nhật Tiến ngồi viết cáo trạng thảm cảnh biển Đông trong trại tị nạn Songkhla, Thailand 1980. Ảnh và chú thích của Nhà văn Ngô Thế Vinh.
Thời gian ở Mĩ, ông vẫn viết văn thường xuyên cho các báo ở California (dù nghề thật của ông là sửa máy điện toán). Trong thời gian ở Mĩ, ông xuất bản hơn 10 tác phẩm. Nhà văn Võ Phiến trong Văn Học Miền Nam nhận xét rằng Nhật Tiến là nhà văn của tuổi thơ, nhưng là tuổi thơ bất hạnh (khác với tuổi thơ tinh nghịch của Lê Tất Điều hay trẻ thơ đáo để của Duyên Anh). Tôi muốn thêm rằng Nhật Tiến còn là nhà văn của những người tị nạn bất hạnh nữa.
Nay nghe tin ông qua đời, tôi viết cái note này như là một tưởng niệm và tri ân những gì ông đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam và những ‘thuyền nhân’ Việt Nam trong thập niên 1970-1980.
PS: Câu chuyện bi thảm trên đảo Ko Kra được kể lại qua clip của trung tâm Thuý Nga sau đây. Trong clip có Nhà văn Nhật Tiến nói lời cảm ơn người ân Nhân Ted Schweitzer đã giải cứu 157 thuyền nhân khỏi cái đảo kinh hoàng này: https://www.youtube.com/watch?v=isKq_bhSurg
***
[1] https://www.nguoi-viet.com/little-saigon/nha-van-nhat-tien-qua-doi-tho-84-tuoi/
[3] Nhà vănNhật Tiến có một người em là Nhà văn Nhật Tuấn (Hà Nội). Nhật Tuấn có kể lại chuyện 2 anh em gặp nhau năm 1975 mà ông anh không dám nhìn ông em. Nhật Tuấn kể chuyện:
Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tôi đang ở cuối đường 14 cũ và đầu đường Trường Sơn mới, tức sông A Vương, tỉnh Quảng Đà (cũ). Lúc đó tôi nghe BBC kể về một bức biếm hoạ đăng trên báo Mĩ, vẽ ngôi mộ có bia khắc dòng chữ “VNCH” (Việt Nam Cộng Hoà) và “nơi đây yên nghỉ một quốc gia vừa chết trong tức tưởi”.
Tôi cũng nghe đài Sài Gòn đọc tuyên bố buông súng, giao lại chính quyền của ông Dương văn Minh, sau đó là bài hát Giọt mưa thu của Đặng Thế Phong – “ngoài hiên gịot mưa thu thánh thót rơi, trời vắng…u buồn…mây hắt hiu ngừng trôi”, lát sau có tiếng người đọc: “Đây là tiếng nói của Quân Giải phóng khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn” và tôi nghĩ: chiến tranh đã kết thúc.
Đêm đó nằm trên võng với ánh đèn hạt đậu, tôi ghi sổ tay :
“ Lịch sử dân tộc sang trang mới. Nghệ thuật với “tiếng lòng” cáo chung . Tiếng nhạc Đặng Thế Phong như tiếng nức nở than khóc một thực thể vừa trút hơi thở cuối cùng. Đó là tiếng kèn đưa đám chế độ Việt Nam Cộng Hòa , tiếng thở than cuối cùng, tiếng thở hắt ra của một nền nghệ thuật tự do.
Thôi thế từ nay hết cái buồn mênh mang, hết cái sầu vạn cổ, hết cái bơ vơ trong cõi vô cùng…Mai tới là những điệu kèn đồng hối hả thúc giục lao động….Nghệ thuật, nghệ thuật và nghệ thuật…cũng đút tay vào còng..”
Sáng hôm sau xảy chuyện :
“ Bên trạm giao liên, cô Hoa đẻ non, con mới 15 ngày còn đỏ hỏn, đã phải ngồi xe tải vượt Trường Sơn ra Bắc. Cô van xin ở lại để mẹ con cứng cáp. Đâu có được. Cô và đứa con cô là biểu tượng của tội lỗi, của sự mất thanh danh tiểu đoàn, mất danh dự quân đội.
Lòng tôi như xát muối nhìn cô ẵm con lên xe , ngoái nhìn phương trời xa, bố đứa bé chưa biết mặt con vẫn đang lặn lội chiến trường.
Cô sẽ về một vùng quê nào đó, ôm con mỏi mắt đợi chờ . Nhưng cô chờ ai, người đàn ông chỉ sau một lần yêu chớp nhoáng đã lại đi vào lửa đạn. Mai sau còn sống trở về và liệu lúc đó có còn của cô ?”
10 ngày sau, tôi cùng đại úy Lê Tử Kỳ – sau này là Viện trưởng Viện thiết kế dầu khí, chạy commăng ca về Sàigon tìm tới nhà ông anh là nhà văn Nhật Tiến, nhờ báo Thiếu Nhi tôi biết được địa chỉ 159 Thiệu Trị , cạnh cổng xe lửa số 6.
Vào một buổi chiều, một chiếc xe con quân sự đỗ xịch trước cửa, hai ông “lính chiến” quân trang quân dụng đầy mình nhảy trên xe xuống gõ cửa ầm ầm. Xấp nhỏ chạy ra, tôi hét :
“ Mở cửa…cách mạng xét nhà…” .
Ôi chao, ngày đó như thế là chuyện lớn lắm. Tôi vào phòng khách nhìn thấy hình bố mẹ treo trên tường, yên trí nhà ông anh đây rồi. Tôi hét :
“ Bố mẹ đâu rồi ?”
Xấp nhỏ sợ xanh mắt, mếu máo :
“ Bố mẹ cháu ở nhà in…”
“ Gọi điện về ngay…”
Lát sau ông Nhật Tiến chạy về. Nhìn thấy hai ông bộ đội lù lù, ông tái mặt. Tôi lại gần ôm lấy ông anh :
“ Em Tuấn đây mà…”
Ông Nhật Tiến đẩy tôi ra :
“ Vâng vâng…mời hai ông ngồi chơi…”
Tới lúc đó ông Nhật Tiến vẫn chưa dám nhận thằng em xa cách từ năm 1954. Mãi sau khi tôi vào toa lét tắm rửa , mặc bộ pyjama bước ra, hai anh em mới ôm nhau khóc nức nở.
Chiều hôm đó sau bữa tiệc hàn huyên, tôi mặc quần tây , áo sơ mi lẻn ra lăng cha Cả tìm … “chị em ta”.
Mãi sau này tôi khó quên được cái cảnh “vui vẻ” trên giường với cô gái , nhìn vào cánh tủ gương thấy trên chiếc chiếu trải dưới đất đứa bé gái chừng 3 tuổi đang ngủ mê mệt. Tôi đoán cô gái là vợ lính cộng hòa đã nằm xuống đâu đó để lại hai mẹ con. Khi chia tay, cô gái cười buồn :
“ Chắc anh là…bộ đội cụ Hồ ?”
Tôi trợn tròn mắt :
“ Ối trời ôi…sao em đoán hay vậy”
Cô gái lại cười :
“Thì bị hãm trên rừng lâu ngày , riết rồi thành con chó đói….lính cộng hòa đâu có vậy !”
Tôi phải thưởng thêm cho em một tờ bạc “bác Hồ” nữa.
Tối đó mãi 10 giờ khuya chưa thấy ông em mò về , ông Nhật Tiến đánh xe hơi đi rà rà dọc đường Võ Tánh, chợt tá hỏa thấy ông em ngồi vỉa hè nói cười ngả ngớn , vỗ đùi vỗ vế mấy em đứng đường. Ông phóng vội xe đi sợ tôi “mặc cảm” .
Đêm đó tôi về khuya, ông anh đã “tế nhị” để sẵn trong toa lét một chai cồn 90 để ông em “tổng vệ sinh”. Tối hôm sau, ngồi uống càphê, hai anh em bàn chuyện chính trị, thời sự. Ông đưa ra mấy cuốn Mác Lê, mấy cuốn nghị quyết đại hội đảng coi y tôi ra sao. Tôi bật cười :
“ Thôi ông ơi, những cuốn này không nhá được đâu, đến tôi cũng còn chịu nữa ông. Tốt hơn hết ông tìm cách trốn ra nước ngoài . Người tử tế như ông sống sao được với cộng sản ….”
Ôi thôi thôi , thế là bao nhiêu thu hoạch sau đợt thành ủy Sàigòn tổ chức học tập nghị quyết chính trị cho văn nghệ sĩ Sàigòn trôi sạch.
Thế rồi sau mấy năm nhếch nhác làm nhà giáo, ông anh tôi mới bước chân xuống tàu di tản sang Mỹ sau một chuyến đi trên hải đạo kinh hoàng..
--------------------------
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ