Thế Phong: " nhà văn bất mãn thường trực'/ Tạ Tỵ [ 1921- 2004 Saigon ] -- Virgil Gheorghiu : 18/ 10/ 2022 -- ( bài đăng lại/ 18/8/ 2022 ).
THỨ BA, 18 THÁNG 10, 2016
thếphong: 'nhà văn bất mãn thường trực'/ tạtỵ
source: http://phannguyenartist.blogspot.com/
Nửa đường đi xuống
(bìa: ảnh Nguyễn Cao Đàm)
Tạ Tỵ viết:
"...Nửa đường đi xuống' giống cái cây có nhiều lá; đứng nhìn ...
không nom rõ cái 'thê' vững chãi của thân cậy ... Có lẽ, ví nói
tới mình; nên, tất cả những gí 'thuộc về mình' khó lòng gỡ bỏ ..."
Tôi đi dân vệ mỹ / Đinh Bạch Dân
(một bút danh khác của Thế Phong)
( courtesy photo of Vũ Hà Tuệ / Tp.HCM)
The ordeal of an American militiaman
( translated by Đàm Xuân Cận)
( a courtesy-book of the filmmaker Lawrence Johnson/ USA)
' bộ sách
'Cornell University Librairie (Volume 6)
- ghi rõ Đinh Bạch Dân see Thế Phong [1932- ]
Thế Phong :
'nhà văn bất mãn thường trực'
Tạ Tỵ
- ký hoạ: tạ tỵ & bút tích tác giả)
( in kèm bài) --
Thế Phong vu par Phan Nguyễn artist
(in kèm bài )
Thế Phong
(mở và nhắm mắt nhìn cuộc đời)
[ ảnh: tự chụp 15/ 08/ 2017 )-- (a)
(a) - thêm vào sau, khi cho post trên Blog Virgl Gheorghiu ( Bt)
(...)
Phần II của cuốn Nửa đường đi xuống (hay Quyển Truyện Thứ 2); mở đầu bằng lá thư gửi một nữ y tá, người yêu. Mỗi phần sách có một phần đời tác giả. Vì là tự thuật, nên tất cả mọi sự việc; đếu được viết ra có lớp lang, tuần tự theo thời gian. Nội dung lá thư chứa chấp nhiều cay đắng, hờn hận. Nó là lời chào vĩnh biệt. Nó là cơn đau vò xé nội tâm người trong cuộc. Tình yêu, ôi tình yêu; đứng trước nó, con người trở nên hèn mọn; và, sẵn sàng chấp nhận khổ đau một cách tự hào ! ...
" ...Cách đây 2 năm, anh đã viết cho em nhiều thư lắm. Nhưng chưa bao giờ gửi; mặc dù em cùng sống với anh trong một thành phố đang quen, cùng một bầu không khí lành lạnh buổi sáng, nóng bỏng càng lúc non già trưa. Hẳn là em ngạc nhiên; lẽ tất nhiên rồi, vì anh muốn đoạn tuyết quá vãng. Song; anh làm sao có thể là một con người như xưa nữa, tuyên bố trước mặt mọi người: 'Tôi lột xác; và, bỏ ngày qua, để nhìn rõ hiện tại, như thế là xây dựng cho ngày mai. Gần 10 năm phục vụ, gần 6 năm thực tập cái lề lối, cả nếp sống 'bề ngoài thơn thớt nói cười', để mà nham hiễm' giết người không dao'. Rồi, anh chợt nhớ, nhớ lắm! Có những đêm, anh chắp tay vào má; trước ngọn đèn dầu ở xóm Chùa, bên bờ sông Tân định; suy nghĩ mung lung, sau khi đã tự tử dần bằng những ly cà-phê sánh đượm ..."
Qua những dòng thư; người đọc đoán biết tâm trạng của tác giả. Cuộc đời đã quất những chiếc roi da ngang mặt, làm nổi hằn từng đau đớn, qua chứng tích văn chương. Tác giả đã nói thực cho người yêu biết, đừng tin tưởng vào bề ngoài; mà xét đoán cái phong lưu bên trong, vì bề ngoài chỉ là chiếc mề-đay giả đấy thôi. Cả 2 mặt đều khắc sẵn những nét xấu xa ! Cuộc đời đã dạy cho Thế Phong nhiều bài học; nhưng, không bao giờ nhà văn oán trách sự xấu , nếu có đến với mình+ cả sự tốt của người đời; cũng chỉ giúp cho tác giả biết đứng trên 2 thứ đó, mà nhận diện cuộc sống đích danh.
Tác giả cũng chẳng cần che đậy, giấu diếm sự nghèo túng. Bạn mời đi ăn cưới, ăn mặc thật 'luých' , cúc 'manchette' hình'taureau' đẹp bậc nhất của Paris; mà thiếu 5 đồng tiền tắc-xi, phải nhờ chú rể hỏi vay một trong những cô gái có mặt ở tiệc cưới.
Đến đâu,ở đâu, bóng dáng tình yêu cũng như bầy ma quái quấn riết lấy thân phận Nguyên, để làm khuất chìm mọi ước vọng khác. Nguyên không ở đâu yên một chỗ, vì tính tình bừa bãi, phóng túng; không chịu ép mình dưới khuôn thức nào của nếp sống -- nên, sự đi, ở, đói, khát là những gần gũi nhất; trong một đời sống đã được điểm danh. Nhà ông Đội, một gia đình phong kiến dởm;với kẻ hầu người hạ; với sự khinh bạc trong cách xưng hô; làm Nguyên hờn giận, nên chỉ coi đây là những ngày ở đây là tạm bợ.
Nguyên đi học, nổi tiếng là hay quấy nghịch; đã mấy lần suýt bị đuổi, tuy có khiếu về sinh ngữ Pháp. Tuổi học sinh vốn vô tư, hồn nhiên; nhưng vào đời sớm quá; Nguyên đã có nhận định & phong cách của một tráng niên. Trong mấy năm học; thi không bao giờ đậu; vì ngoài môn sinh ngữ Pháp, môn nào cũng bết. Hình ảnh cô Thương [ngoài đời là Đặng Ngọc Oanh]; người nữ sinh cùng lớp đã làm đẹp tuổi niên thiếu, bằng những ức mơ, hoa bướm. Thế là một niên khoá qua đi rất nhanh.
Một buổi, có người cô ruột đến ký túc xá tìm Nguyện, gặp cháu ruột; người cô khuyên nên về nhà ờ; sẽ tốt hơn là ở ký túc xá. Nguyên mừng qúa ; vì đang lo Nghĩa lộ sẽ bị rơi vào tay quân kháng chiến Việt minh; nếu xảy ra, tất nhiên Nguyên sẽ không còn tiền để theo học. Và, đây là dịp may gặp lại người cô ruột giàu có; dầu Nghĩa lộ có mất đi nữa; Nguyên cũng có chỗ nương tựa.
Bài học đầu tiên đến với Nguyên làm anh sửng sốt; đó là bà nói sẽ cho một lô áo quần cũ còn tốt cho đứa cháu ruột. Nguyên bị chạm tự ái, tự biết mình là con khá giả; mặc toàn hàng hiệu Dormeuil đi học; đâu thèm mặc quần thừa, áo cho .
Giữa lúc đang cần tiền; thì nhận được một thư + măng-đa; từ Nghĩa lộ gửi về; cái tin cô Quán, cô gái Thái đã từng dan díu với Nguyên; mới sinh con gái. Trong khi ấy, hiện tại, anh đang có mối tình với cô nữ sinh, tên Thương ở Hà nội. Và, cách đó ít lâu; Nguyên nhận được tin mẹ anh bị ốm nặng; Nguyên cũng không thể nào trở về Nghĩa lộ thăm mẹ được; vì mặt trận thu động đang dìm cả vùng trời Tây bắc vào biển lửa. Người mẹ rất mực chiều chuộng con trai; không còn một lần được nhìn lại mặt Nguyên; kể từ buổi đưa tiễn con về Hà nội học; và, rất có thể kể cả khi lìa đời. Còn người cha bị Việt minh bắt đi, mất tăm tích; sống chết, tù đày ra sao; chẳng hề có tin tức.
Từ đấy, Nguyên bắt đầu viết văn. Từ đấy, những đêm dài ...
Một nhận xét: Thế Phong quá tham lam trong vấn đề chọn lựa sự kiện đưa vào tác phẩm. Có nhiều việc thừa; hoặc, không mấy cần thiết về kỹ thuất; khi dựng truyện -- thì vẫn được viết tới; làm tâm trí người đọc bị phâ tán ; không gây được tác động mãnh liệt dồn vào một chủ điểm chính yếu nào đó.
'Nửa đường đi xuống' giống cái cây quá nhiều lá; đứng nhìn, người ta chỉ thấy một màu xanh nặng nề bao phủ; mà không nom rõ cái 'thế' vũng chãi của thân cây+ những nhánh+ cành; đang vươn cao sức sống.
Có lẽ, vì nói tới 'mình'; tất cả những gì 'thuộc về mình', khó lòng gỡ bỏ; dù cho là vì nó; [thì] tác phẩm sẽ mất đi một phần hiệu năng của truyền cảm. Chủ quan bao giờ cũng nguy hiểm, nhất là văn chương; chúng ta không thể bắt chước G. Duhamel 'thầm kín ôm ấp những cái gì thuộc về giai cấp mình, chung quanh mình mà thôi.'
Tôi lỗi và tội lỗi ở đâu;Nguyện cũng tạo ra cho mình 'vực thặm của Pascal .
Mỗi lần phạm tội; Nguyên đều tìm nguyên cớ để khỏa lấp -- như trường hợp với Bảy, cô cháu họ của ông chú dượng.
"... Ở Hà nội, những chiếc xe bọ hung màu xám chạy qua phố. Trên xe là những bô mặt sát khí của các chú linh Pháp. Nguyên cảm thấy rằng sinh mạng con người chỉ là sợi tơ nhện chăng vào đêm giống tố. Nguyên thèm khát những bộ ngực nở nang ... "
Cái gì đến phải đến, Nguyên đã bị dục tình quật ngã; Bảy mang thai sau hơn 1 trăm lần 'ghi sổ'.
Chuyện này: lúc đầu mọi người đều nghi cho chồng cô Thảo (chú dượng của Nguyên) vô luân, đã ăn nằm với cháu gái. Nguyên càng tỏ ra mình vô can trước dư luận; nhưng, sau mọi người đều biết thủ phạm chính là Nguyên. Bảy phải bỏ nhà ra đi, với cái thai hơn 7 tháng; Nguyên đưa cho bảy số tiền nhỏ còn lại; để nàng tạm chi dụng. (chỉ 1 lần duy nhất, là hết). Đau thay, thân phận đàn bà !
Nguyên vừa đi học, vừa tập viết văn; gửi đăng các nhật báo. Cái sư nghiệp văn học; bước đầu tiên, Nguyên nhìn qua vóc dáng các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Tô Hoài v.v. ..; quả là còn xa lắm!
Nguyên ở nhà bà cô ruột cũng chẳng êm ấm gì. Vì không chịu được nếp sống của Nguyên; nên 2 cô cháu gây gổ. Bà cô mắng, rủa, đánh Nguyên. Tuổi trẻ không dằn được nóng tính; Nguyên đấm lại bà cô, đến sưng vù mắt. Sau đó, Nguyên bắt đầu bỏ nhà đi, lang thang, với câu thề, 'Không bao giờ mình trở lại cái nhà này nữa.'
Khung cảnh thẩm vấn được Thế Phong viết lại; vô cùng xác thực, đã nói lên được cái không khí nghẹn thở của hà nội; trongt hời gian Pháp tạm chiếm thành phố :
".Trưởng ban điều tra chững chạc hỏi:
Một lát sau , hình như nhớ ra điều gì, trưởng ban 'rờ-sẹt' gọi một thanh niên trẻ lại:
Nguyên mừng thầm. Đến khi ông trưởng ban quta phắt lại, gọi:
Nguyên bắt đấu hơi lo, chưa biết chuyện gì đây? Nhớ lại: lúc gần sáng, anh nhìn qua khe cửa bên kia: nhân viên điều tra thay nhau đánh đập; đàn bà có, đàn ông có, choai choai có ... Những tiếng khóc thét lên, im bặt tiếng van lạy như tế sao . " Con đau quá! ..." văng vẳng trong tiềm thức anh.
" ...
Tiếng người đàn bà ban nãy; bây giờ chỉ còn giãy giụa, vang ra từ trong căn phòng điều tra. Nguyên và Hiển (thằng bạn bị bắt cùng khi chơi xì-phé) cùng nhìn thấy cảnh người hành hạ người vừa qua. Họ không nói; nhưng, cả 2 đều biết rằng :'người đàn bà có đôi mắt đẹp lúc nãy; nay chỉ còn là một thân xác lõa thể, bị dày vò'. Hiến chương Liên Hiệp Quốc! Hiến chương Liên Hiệp Quốc bảo vệ nhân quyền, ở đâu? ...
" Đánh cho bỏ mẹ nó đi -- một người ra lệnh -- dí điện vào 'số ta' nó ."
Đọan văn đã vẽ lại trước mắt người đọc một pha tra tấn, thường xảy ra ở bất cứ quận Cảnh sát nào; dưới thời Pháp chiếm lại Hà Nội; sau khi đã đẩy lui Trung Đoàn Thủ Đô qua bên kia bờ Hồng Hà; và, đi xa nữa ...
Nguyện đã chán nghể viết báo; có ý định vô Sài gòn làm cuộc phiêu lưu. Nguyên xuống Hải Phòng,; lên tàu Ville de Saigon, vào Nam; với số tiền do mưu mẹo của Hiển, người bạn tốt. Vào Nam, Nguyên không quen ai; ngoài hành lý tùy thân + đôi lời gửi gắm của bạn bè -- với lá thiếp của Minh (nhà văn Nguyễn Minh Lang) giới thiệu với một làm báo ở Sài gòn.
Trong suốt phần II của Nửa đường đi xuống; sự thật cũng chẳng có dữ kiện nào đặc biệt để má nói; ngoài chuyện quấy phá, nghịch ngợm của tuổi trẻ, với vài lỗi lầm nặng nề dục vọng. Nhưng, vì tác giả muốn trình bày sự diễn tiến của một đời người dấn thân vào văn chương; với những mốc vui buồn của nó một cách trung thực-- nên sự việc được nói tới, viết ra; đều ở ngoài văn chương.
Phải qua đến phần III (quyển truyện thứ 3), Thế Phong mới thực sự đi vào môi trường dự định, Từng khuôn mặt anh em, bạn bè, người tình đã mất đi vĩnh viễn; hay, còn sống trong cùng kích thước, không gian Sài gòn; đều được vẽ lại, với những hận thù + tiếc thương đằm thắm. Sóng gió bắt đầu thổi từng cơn giận dữ.
Những ngày đấu ở miền Nam trôi đi trong khốn khó. Đêm cô đơn lo ngại ngày mai; đến nỗi từ chối cả đàn bà mời chung vui.
Nơi đây, Nguyên gặp Hồ Hán Sơn, người chuyên viết lý thuyết Cách mạng; sau cũng chết tối tăm.' bị rói chặt thả xuống giếng ở Bến Kéo, một trại lính Quân đội Cao Đài; vì bị nghi là ' tay trong' của chính phủ Ngộ Đình Diệm. ..
" ... Thuê nhà được hơn 1 tháng, Nguyên bắt đầu thất nghiệp. Chính anh từ bỏ việc làm. Nguyên biết ngày mai chẳng còn gì để bấu víu; nhưng anh đành bỏ. Ban đầu, anh còn tiền ăn; dần dần không xoay sở vào đâu được; anh đến nhà một họa sí, ăn nhờ. Tân ngạc nhiên, khi thấy bạn không còn bút máy Parker treo ở túi áo như mọi lần.
Câu chuyện túng thiếu, chuyện thường xuyên đối với hầu hết những người làm văn nghệ; sự túng thiếu ở Nguyên; một phần do tính hào phóng; lúc có tiền ăn chơi cho đã, ngày mai xét sau; đến lúc xét được, thì đã muộn ! Biết bao nhiêu lần lỡ đà, quá trớn về tiền bạc , cũng như tình ái; chẳng lần nào giúp Nguyên được mảy may kinh nghiệm; để vượt thoát. Trên thực tế, Nguyên có thể kiếm ra tiền bằng nhiều cách; khi làm ủy viên Báo chí; nhưng tuổi trẻ, nhìn đời qua lăng kính lý tưởng; Nguyên đã đễ lỡ -- chắc không bao giờ còn tìm thấy cơ hội đó nữa !
Cái nghề viết văn, có gì đâu mà nhiều người ham mê vì nó; chịu cực cả một đời. Có lẽ, nó là cái nghiệp thật ! Sách viết xong mang bán; đi rạc cẳng, không chắc đã bán nổi; dù bán với món tiền chết đói :
" Bằng hẹn với anh đã nhiều lần lắm. Không còn xe đạp, anh đi bộ từ Tân Định vào Chợ Quán. Nhưng, phải đi làm sao chop đỡ mệt; đầu tiên đi bộ đến nhà Tấn (ngoài đời nhạc sĩ Y Vân, tên thật Trần Tấn Hậu] ), hy vọng có tiền uống nước mía. Tấn đi vắng, anh nhìn con đường dài , rồi trẩy bộ. Đến nơi, Bằng lại lỡ hẹn với anh;' mặc dầu cuốn sách in được mấy chục trang. Mỏi mắt đợi, ông quản lý nhà in thương hại, bảo:
Cứ như thế, nhà văn kéo dài cuộc sống trong khốn quẫn triền miên; hỏi, làm sao không căm giận cuộc đời ? Tác phẩm bán đắt, bán rẻ; thì quanh quẩn cũng tiêu hết; trong khi đó vẫn phải ăn, phải trả tiền thuê nhà, phải tiêu một vạn thứ linh tinh; làm gì còn tinh thần ca tụng cuộc sống.
trích NHẬT KÝ CỦA NGUYÊN :
"... Lại hết tiền rồi. Bắt đầu chịu tiền cơm. Chưa biết ngày mai phiêu điêu; rồi, định đoạt cuộc sống ra sao ? Chị chủ nhà giục tiền quá. 3 tháng rồi. Xuống nhà bạn, xoay tiền không ra. Anh ta đưa mình lên quán Văn Sửu; anh ta định giao cho mình trông nom 'một loại sách văn nghệ' ;nửa tháng ra 1 kỳ'. Cuốn đầu tiên là truyện ngắn của mình. Sau, công việc không đi tới đâu, phát hành tập truyện ngắn 'Làm lại cuộc đời/ Thế Phong' ,dày 32 trang, bìa Tạ Tỵ' ; rồi ngưng. Trong khi ấy, mình nợ quán Văn Sửu thêm 2 ngàn đồng rồi.
Người bạn văn nghệ quý tài Nguyên, mời ra Vũng Tàu ăn bí- tết; ai ngờ, anh ta bị Nguyên ăn cắp một số tiền 10 ngàn đồng [của nhà triệu phú tương lai Trần Hoài dành dụm trong phong bì . Sau, trong cuốn 'Nhà văn, tác phẩm & cuộc đới' Thế Phong có viết lại lần nữa về việc này.
'Ăn cắp' 2 chữ đó xấu lắm. -- một người biết tự trọng & chút lương tâm thôi; dù đói khổ cách mấy cũng không làm vậy.
Thế Phong đã làm, vì quá túng thiếu, nợ nần: nào tiền nhà, tiền cơm, , tiền cà-phê, tiền nợ thuốc lá quá nhiều -- đến nỗi người chồng nghi vợ anh ta có tình ý với Nguyên, không ráo riết đòi nợ tiền cơm+ thuê nhà đã 3 tháng.
Việc bất chính, 'ăn cắp tiền 10 ngàn đồng của nhà triệu phú tương lai Trần Hoài'; đã giải thoát cho nguyên được 1 khoảng thời gian ngắn trong vần đề 'sống'. Nhưng, những dằn vặt, lo âu sợ bị tù tội hằng đêm vẫn lởn vởn trong tâm trí, làm khổ Nguyên không ít.
Chị Năm Hưởng có số phận lận đận, qua mấy đời chồng con rồi. Ý nghĩ đen tồi về xác thịt bắt đầu nhen nhúm; để đốt cháy lưng tri Nguyên trong cơn thèm khát dục tình. Mỗi lần Nguyên thức khuya để viết, những dòng chữ nào xuống mặt giấy; [thì], đuôi con mắt + nụ cười tình chị Năm như mời mọc ân ái. Chính vì muốn xâm chiếm thể xác chị Năm; Nguyên để ý từng tí một, đâu là cách thức mở cửa ra sao cho êm, không kêu cót két; để chui vào mùng chị cách nào cho êm thấm? Đêm khuya, chờ cho anh chị chủ nhà ngũ kỹ, Nguyên thi hành dự định.
Sáng hôm sau, hàng xóm nghe tiếng chị Năm Hưởng nói, như phân bua; với chị Hai Nụ, chủ nhà của Nguyên:
Nhưng rồi, khốn khổ thay cho người đàn bà ấy -- một mầm sống đã hình thành trong bụng -- để rồi sau này, khi sinh nở; chỉ nhận được một hộp Hépatrol, thuốc bổ máu, gía chỉ hơn trăm bạc !
Thế Phong đã gieo vào cuộc đời vài mầm sống với dăm người đàn bà gặp gỡ, trong cách hoàn cảnh đặc biệt khác nhau .
Những đứa trẻ không may này, nếu Trời để cho lớn lên; không biết chúng có đọc 'lời nhắn trong cuốn sách; để tìm thấy bố'. Chung sẽ nghĩ gì về trường hợp khốn nạn, ở đó; chúng đã góp mặt !
Nguyên không hoàn bất nhẫn đối với đàn bà cả đâu; Nguyên đã dám từ chối tình yêu cô Nam Châu Đốc, người đàn bà cùng xóm tình nguyện dâng hiến. Cô Năm Châu Đốc cũng lỡ dở đường chồng con; chỉ vì Nguyên nghĩ đến chị Năm Hưởng + cái bào thai; đã mấy lần dùng thuốc phá thai không được; hối hận hối hận chất chồng !
Đời sống cứ thắt dần từng nút, từng nút; như sợi dây oan nghiệt đang xiết từ từ vào xuống họng kẻ chán đời; Nguyên đã cố gắng đến cùng, vẫn không giải quyết được vấn đề cơm áo. Cuốn sổ ghi nợ cứ chồng chất những con số nặng nề; làm Nguyên muốn gục mặt xuống. Một chiều, chị chủ nhà Hai Nụ , nói:
"... Cậu Nguyên ơi; chiều hôm nay không thể nấu cơm cho cậu ăn nữa rồi-- nói xong, chị đưa tay lên trán lau mặt. Anh Hai nói với tôi thế này, có khổ cho tôi không ? Bảo là 'tôi với cậu có tình ý với nhau; nên tôi sợ, không đòi nợ cậu ! ..."
Qua phần IV của Nửa đường đi xuống (Quyển Truyện Thứ 4) ; Nguyên đành rời bỏ Sài gòn đi Rạch Giá; để kiếm sống bằng nghề dạy học. Cũng chẳng được bao lâu; lại trở về thành phố, như con thiêu thân không xa rời được ánh sáng. Những kỷ niệm đau đớn, hay oán hận; đều được nhắc nhở minh bạch; kể cả chuyện bị bệnh phong tình, do cô gái làng chơi gửi tặng.
Những ngày vô định tiếp nối, kéo lê trong phiêu bạt; tối nằm ngủ, sợ ngày mai chóng sáng; phải nhìn thấy thực chất cuộc đời + những khuôn mặt chủ nợ.
Một cuộc sống tay 3: Tô + Thảo+ Nguyên; những người trai bị đời hất hủi; được tổ chức trong một khuôn khổ không mấy khích lệ; vì họ luôn luôn bị ám ảnh, bị mặc cảm, như ý kiến của Tô:
"... Mày bảo tao không chán chường sao được. Khi tuổi thanh niên của bọn minh đã chết một cách bất đắc dĩ. Chỉ còn sa ngã vào tình yêu, dù trụy lạc; dù phải chà đạp lên luân lý ..."
Vì vững tin như vậy; họ tạo một lối sống riêng -- Nguyên có leo qua vách để làm tình với mụ me Tây về già, trong một đêm nào đó; cũng là chuyện thường. Khổ thay, người đàn bà đã lọc lõi ở đời về đường tình ái; vẫn bị thằng con trai, đáng tuổi 'em út' mình lừa dối !
Trong hoàn cảnh khốn khó như thế , những người ở xa Nguyên không nhìn thấy sự thực; nên vẫn mơ mộng, trong từng cánh thư gửi từ Hồng Kông. Nói rằng yêu, chưa đúng; vì chẳng có lời yêu đương nào được ghi nhận; nói không yêu cũng sai, vì, nội dung lá thư có hàm chứ những ý tình.
Thế Phong đã viết rõ chuyện này trong cuốn tự truyện 'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm, cuộc đời' (Đại Ngã tái bản, Saigon 1970) -- với những ray rứt, đứt nuối ở mỗi dòng, mỗi chữ.
Trong suốt phần IV của tác phẩm, dành để nói về mối tình trên với vài hình bóng con gái khác + những dang dở.
Phần V cũng là phần chót của Nửa đường đi xuống; được viết với tâm trạng vô cùng bi đát. Tình yêu cũng chỉ là hư ảnh. Nghệ thuật còn xa vòi vọi; chân trời vẫn nặng chĩu mây mù. Cuộc sống nối tiếp trong thiếu thốn trường kỳ. Với tình yêu, không phải bao giờ Nguyên cũng là kẻ chiến thắng; dù rằng, có người con gái đã viết thư cho nhà văn, những dòng chữ đằm thắm, chân tình:
" ...Ông Nguyên ơi! ông phải nhớ rằng, giả thử xã hội này; tất cả đều ruồng bỏ ông, ông hãy tự hào sung sướng; có một người bao giờ cũng tìm ông ..."
Nhưng đau thay; cũng có giọng khinh bạc đến với Nguyên, qua câu chuyện được thuật lại, cùng trong thư đó :
"...Thưa cô, tôi trông cô quen lắm ".
Hình ảnh những cái rủi luôn luôn chờ đợi, rình rập xuang quanh Nguyên; đợi dịp thuận tiện xông ra đẩy Nguyên xuống bùn đen. Đã không tiền, không nơi ở; lại còn gặp nhiều điều rắc rối không như ý ; nên có lời nào viết về bạn hữu -- trừ một vài người, vì quá tốt, hay may mắn -- đều bị tác giả ném vào mặt những lời sỗ sàng, tàn bạo. Mỗi khuôn mặt trong trang sách; đều mang theo tì vết chém của Nguyên.
Nào là thi sĩ Trần Thanh Đạm, nhà văn Thanh Thương Hoàng , v.v. ; trong đoạn kết cuốn sách, với những cái tát cuối cùng & những lời sỉ nhục quá đáng!
Thế Phong đã dùng hết sức mìn, để công phá lần chót; trả thù đời. Khi viết lại thân phận, qua những nét gian truân, oán hận; Thế Phong không dằn được cái 'váng nổi của ý thức'-- khi còn trẻ nên nói hết, viết hết những gì chưa chấp trong tâm tư; mặc kệ hậu quả. Câu mà thi sĩ Trần ThanhĐạm nói, " tất cả đều sợ anh", trong buổi tối mà Nguyên đánh Thanh Thương Hoàng; vì anh ta đã nói xấu khi vắng mặt, là như thết đó!
Cuốn sách tạm ngưng với vài lời cảm ơn bạn bè; dù tốt, hay là phản phúc; nhưng họ đã cho 'nhà văn cái vốn sống để hoàn thành sự nghiệp'.
Maxime Gorki đã kích động căm thù + dương danh vai trò vô sản trong mọi tác phẩm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho công cuộc Cách mạng Nga, tháng 10- 1917. Do đó, ông được nhà nước Liên xô tôn xưng là 'đại anh hùng văn nghệ vô sản'. Hoàn cảnh Việt nam khác; dĩ nhiên mơ ước lại càng khác nữa.
Trở về với Thế Phong, của Việtnam Cộng Hòa; thì sao?
Thế Phong: nhà văn, tác phẩm & cuộc đời' là sự nối tiếp những trang đời của tác giả.
. Ở Nửa đường đi xuống, Thế Phong còn ngụy tạo danh tính+ các nhân vật được đề cập; nhưng, ở 'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm& cuộc đời'; nhà văn đã cho người đọc biết tên thật của mỗi vai trò. Có nhiều chuyện được nhắc lại trongNửa đường đi xuống , với nhiều chi tiết hơn; những chi tiết nhức nhối làm chết sững nhiều người.
Người con gái làm thơ: Cao Mỵ Nhân [1939- ] đã cho Thế Phong nguồn đam mê tình ái & làm khổ nhà văn không ít trong suy nghĩ.
.
Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in ronéo; lấy số kiểm duyệt ma; vẫn ra đời; nhưng với nợ nần, thiếu thốn.
Trong khi đó, sách bán rất chạy, dù in lem nhem; vì kỹ thuật ấn loát kém.
ảnh : nữ nhà văn Nguyễn Thị Bích Nga tới thăm,
Vừa lo sống, vừa lo công việc nghệ thuật; vừa lo yêu -- ngần thứ ấy lúc nào cũng đeo đẳng vào số phận nhà văn; để hành hạ.
Anh em, người này đi; người khác đến; cả những khuôn mặt đàn bà cũng vậy -- như nàng Oanh, người tình cũ; gặp lại ở một trường hợp đặc biệt,
[Sau], Oanh đã tự tử, không chết, bỏ chồng; ĐẶNG NGỌC OANH
Thế Phong viết lại rất lạnh lùng, tàn nhẫn. Mỗi dữ kiện được nhắc tới, bao giờ cũng gói ghém trọn vẹn 2 chữ: 'thù hận', không phải với cá nhân; mà, với cuộc đời.
Thế Phong mê mải làm việc; có thể ngồi cả tháng trước máy chữ, đánh bản thảo trên giấy xáp (stencil) để in ronéo. Sự thực trong dòng sống; Thế Phong cũng có chuyện tình chua xót, với một người đàn bà góa, gặp gỡ ở giữa đường.
Người đàn bà này đã có con gái lớn; hết lòng chung thủy với chồng đã chết. Nhưng đốm lửa nên duyên; để rồi, ân hận đến cho tới khi nhắm mắt. Trong một đêm vắng; Thế Phong muốn thử xem người đàn bà 40, đáng tuổi chị mình đó, thờ chồng đến mức nào? Nhưng hỡi ôi! con người đâu phải thần thánh; làm sao chống nổi được với đam mê thân xác, bên cạnh một chàng trai khỏe mạnh. Thế rồi sau đêm hoan lạc đó; bà ta ở luôn. Biết cần phải có chồng mới chung sống được; bà bảo tác đưa tiền mua cỗ bài tây, để bà hành nghề bói toán kiếm ăn. Thế Phong đi vay tiền đưa cho bà. Từ đó ngày ngày; bà kiếm tiền nuôi 2 miệng ăn, bằng cỗ bài tây kia.
Nhưng có một buổi; bà không quay về nhà nữa, tác giả đoán được là bà đã bị cảnh sát bắt; vì một tội gì đó -- tác giả xúc động viết bài thơ Cửa mở đón em về :
Nửa đêm anh ôm suốt vòng lưng tưởng tượng
Rồi một tối, bà trở về cho biết: 'bị giam ở khám Chí hòa'; và, báo tin mình đã mang thai, mang thai sau bao năm chờ chồng.
Nhà văn sợ quá; chợt nghĩ đến chị Năm Hưởng & hộp Hépatrol, bèn tìm cách tháo chạy. Chạy bà góa mang thai chưa xong; nghe tin nàng Oanh lại sinh nở. Tác giả muốn có chút tiềnt ặng khi nàng nằm ổ; biết vay không ai cho; thọi đành ăn cắp tiền của bạn cùng nhà; rồi đem tới bệnh viện Hùng Vương cho Đặng Ngọc Oanh.( nhân vật Thương trong tác phẩm của Thế Phong).
Chuyện vỡ lở; Thế Phong lại phải lên đường tìm chỗ khác trú ngụ. Chuyện ăn cắp còn đến với người bạn tốt; thấy nhà văn không có chỗ ngủ; bèn mời đến nhà mình; ở hẻm đường Bùi Viện.
Tất cả tác phẩm ronéo in trong những năm 1960, 1961, 1962 và 1963; đếu có ý hướng chống chính quyền Ngô Đình Diệm; nhất là tập thơ Mây Hà Nội/ Nhị Thu; Vô cùng/ Đào Minh Lượng.
Nhưng vẫn chưa hết; còn nhiều khuôn mặt nữa; toàn những khuôn mặt anh em + đôi ba người tuy không làm văn nghệ; nhưng dùng văn nghệ phục vụ cho mình; Phạm Xuân Thái, bác sĩ Lý Trung Dung, chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa.
Còn nhiều, nhiều nữa; cả đàn bà lẫn đàn ông, mỗi người được Thế Phong đeo cho chiếc thẻ bài & dòng chữ số .
Mối tình Cao Mỵ Nhân, tuy cuối cùng tan vỡ; nhưng có lẽ là mối tình đẹp nhất đời; Thế Phong đã làm nhiều thơ vì nàng.
Để tỏ bày lập trường văn nghệ & sự kiên trì thái độ; Thế Phong viết,
"... Những ngày có dấu chân của chàng kỵ mã văn nghệ, là tôi đây; quang cảnh miền Nam đã thay đổi. Tôi như là mũi tên, không tha thứ một tên nào; dù có quyền hành móc sau đời sống văn nghệ, tôi cũng lao những mũi tên tẩm thuốc độc để cảnh cáo; hoặc, khử trừ. Những tên làm 'văn nghệ xấu'; như đạo văn, làm mật vụ; chúng phải nghĩ tới đối tượng tôi, trước khi bắt tay vào việc. Có thể ghét bỏ tôi; chung quy thì phải nể + kính trọng tôi. Tôi đòi phải thừa nhận lỗi lầm, nhơ nhớp của họ; mới có thể tránh + sửa chữa tội lỗi ..."
Những dòng trên, có chủ quan lắm không ? Với tuổi trẻ, cái gì cũng có thể đúng -- ngay cả mặt trời kia, nếu nổ vỡ & nhiệt độ rớt xuống, có làm cháy tan trái đất này; họ cũng coi như chuyện thường, vì họ không có gì để mất; ngoài tự ái! Nhưng rồi thời gian& tuổi đời chín dần; họ mới thấy, mới nhận biết: 'văn nghệ hay gì gì nữa cũng là thừa cả, trước vũ trụ'.
Lão Tử đã nhìn rõ, mới cất lên 2 chữ 'vô vi'.
Phải nhận rằng Thế Phong rất yêu nghề; nguyện sống & chết với nghiệp. Dù gặp bao nhiêu khốn khó; dù đói cơm, rách áo, dù tình yêu tội lỗi quây chặt tâm hồn, dù đời có phụ rẫy, dù bạn bè tốt xấu, dù mình có hư đốn; nhưng không bao giờ Thế Phong xao lãng văn nghệ, thứ 'văn nghệ đắng' không nuôi nổi mình.
Thế Phong viết ra cái xấu bản thân; của xã hội, để ghi dấu khoảng đời, chuỗi thời gian góp mặt. Công việc nghĩ rằng dễ; nhưng thực khó!
Đã có lúc'nhà văn muốn tự hủy đời sống của mình' ; trong những ngày ở xóm đạo Tân Sa Châu (Quận Tân Bình) , vì quá tuyệt vọng! Nhưng với tuổi trẻ & Trời phú cho sức chịu đựng; Thế Phong đã vượt thoát, dù vượt thoát với ngàn vạn cay đắng, nhục nhằn ! ...
Ngoài 2 tác phẩm tự-sự-kể 'Nửa đường đi xuống' &'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm & cuộc đời'; được ghi nhận như những bài học đắt giá của văn nghệ, Thế Phong còn dùng văn chương để nói về đời sống tình cảm của một nữ văn sĩ nổi tiếng tử thời tiền chiến.
để tránh những khó khắn về kỹ thuật dựng truyện, Thế Phong phải dùng 'Lời nói đầu' trong cuốn 'Truyện người của tình phụ' :
" Đây chỉ là thể hiện cuôc đời qua tiểu thuyết; mà, xã hội cỏn con ấy không liên hệ gì; hoặc xa, gần với đời sống một cá nhân nào, trong xã hội thực. Nói như thế, tác giả không trách nhiệm, biện giải; khi có ai muốn thể hiện tiểu thuyết này có sự liên hệ đến họ ."
Câu trên, thực tình viết ra; mà, chẳng viết gì cả. Câu chuyện tình của người đàn bà có chút học vấn; vì gia đình hay duyên nợ (?) phải lấy anh chồng nhà quê không ưng ý; gặp người đàn ông hơn thế; mê liền, bỏ chồng đi theo ; để rồi lại mê nữa,tới người thử, thứ 4 ...
Sự mê đắm một phần do nhục thể, một phần vì hào quang sự nghiệp văn hoá & chính trị từ người đàn ông tỏa ra. Cái tâm trạng đứng núi này trông núi nọ; rốt cuộc ngọn núi nào lúc đến gần, cũng ngàn ấy thứ xấu xa, ghê tởm; làm cả cuộc đời tan nát trong đam mê, ước vọng !
Toàn bộ cuốn truyện không mấy xuất sắc; vì tình tiết cũng như cốt truyện: không nằm ở môi trường chung của mọi thành phần xã hội, nó là ngoại lệ -- nên chỉ có thể gây xúc động ở một vài tâm sự đồng cảnh ngộ nào đó. Hơn nữa, các sự kiện nói tới; được tiểu-thuyết-hóa quá độ, trở thành giả tạo. Nghệ thuật một khi giả tạo, khó gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người đọc.
Thế Phong: 'nhà văn có khuynh hướng xã hội'...
... những cảnh sống khốn cùng của một lớp người chỉ trông vào 'đồ thừa'; quân đội Mỹ thải ra, cũng đủ nuôi sống phong lưu cho cả gia đình: những thân phận con người ngoại ô. Những thảm trạng xã hội ở đấy; chỉ vì chút lợi lộc, con người có thể căm thù nhau mãn kiếp; có thể hy sinh luôn danh dự + thể xác, để đánh đổi lấy quyền lợi; dù quyền lợi nằm trong đống rác nhơ bẩn, thối tha.
Truyện Khu rác ngoại thành được viết bằng cả nước mắt, bằng nỗi nghẹn ngào; trong mỗi trạng huống được đề cập. Phải xác nhận, từ ngày có sự hiện diện Quân đội Mỷ ở Việt Nam, sinh hoạt thành phố đã thay đổi theo mức độ đáng ngại. Các 'bar' mọc lên tua tủa + ổ mãi dâm lan tràn trong mọi ngõ ngách; ngay cả trung tâm thành phố. Giá sinh hoạt tăng vùn vụt; muốn ông còn, bắt buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải kiếm thêm bằng mọi cách.
Truyện Khu rác ngoại thành với đống rác cao như núi+ những ti tiện + bỉ ổi trong vấn đề giành mối lới, cái mối lợi do quân dội Mỹ vứt đu; được viết ra với những tình tiết vô cùng càm động. Hình ảnh người lính không quân, tên Tiết; với những hình ảnh GI( Di-Ai) & vợ Tiết, gái điếm hoàn lương & nhiều vóc dáng khác, quay tròn xung quanh đồng tiền; làm chóng mặt ;
" ... Tôi nhớ lại những buổi tối, mấy người Mỹ đến nhàTiết chơi. Mỗi lần nhìn thấy tắc-xi. đậu trước cửa, vợ Tiết sai thằng con đem tiền ra trả; cho rằng cử chỉ đó là một thái độ chiều chuộng. Sau đó, chị thường đem chuyện người Mỹ đến nhà chị chơi ra sao, kể lại với hàng xóm; coi như đó là một vinh dự; và, lên mặt với mọi người. Năm gian nhà khu chúng tôi không rào giậu gì; bếp nước chung nhau một gian nằm dài sau dãy nhà chính. Giấy má, thư viết bằng tiếng Anh. Tôi tò mò đọc. Nội dung lá thư đại khái như thế này:
Tiết là lính không quân, nhưng ăn mặc 'luých' như một công tử miền Nam , gốc giàu có. Trong nhà có đủ thứ sang trọng của một gia đình sung túc; nào là nho, cam, táo, đào hộp, thịt bò, bánh kem, kẹo, cà-phê bột, chocolat, xà-bông bột , v.v. ... Nhưng vì miếng ăn, cái 'đống rác' ấy lục đục với nhau :
"... Xe ngoại kiều càng ngày càng đổ nhiều vỏ đạn rốc-kết, những thùng đạn đôi khi còn mới nguyên. Bọn Tàu ve chai, đi mua đạn để lấy đồng, với gái rẻ mạt. Bác Chánh bắt đầu làm đon khiếu nại, nhưng không cho tôi biết; khác hẳn với mọi lần -- mỗi khi làm việc già, bác cũng thăm dò ý kiện tôi trước. Chủ căn nhà A ( tức nhà bác Chánh) khiếu nại rằng : 'đổ rác làm mất vệ sinh'. Tôi chắc Trần có đóng góp vào việc thảo lá đơn này. Trong khi đó; ở một mặc khác, tôi được biết Trần cũng làm đơn tố cáo với tòa đại sứ Mỹ + cơ quan quân sự Mỹ, về việc xe ngoại kiều đi đổ rác đều được Tiết ve vãn: cho tiền , dẫn gái; nên đem đi đổ rác mà toàn là những đồ nhà binh còn mới toanh. Tôi thấy không cần phải đóng góp thêm một ý kiến nào .."
Rồi cũng quanh đống rác; người ta chửi nhau, đánh nhau, thưa kiện để giết chết nguồn sống của nhau. Tiết bị quân cảnh bắt giữ, vì dính líu vào vụ rác Mỹ. Trong khi Tiết bị hoạn nạn; ở nhà, vợ Tiết lao đầu vào tội lỗi :
" ... Bây giờ không phải là mùa xuân nữa; mặc dầu chưa hết tháng 2 âm lịch. Thằng bé càng hát lớn; con bé càng khóc to hơn. Rồi, thằng bé lại hát bài quốc ca để ruc háu nữa. Nhịp đi hùng mạnh của đoàn quân, hình như không thể làm cho đứa bé hài lòng. Gần sáng mẹ nó mới trở về. Xóm lao động ở bìa rừng cao su, anh Bẩy loan tin về chuyện thức, xảy ra trong đêm qua trong 'rừng ái-ân': " Vợ thằng Tiết đêm qua cặp kè với ngoại kiều suốt sáng; ở chiếc mả cũ trong rừng cao su. Đ.M. thằng chồng mới bị bắt ít bữa, mà làm vậy rồi. Đồ chó điến mà, bọn bây ! Con đó trước làm điếm ở Lăng Cha Cả, gái chơi bời mà ...! "
vợ Tiết, người đàn bà lai Tàu đã dày dạn tình đời, bướng bỉnh thừa nhận:
"... Đ.M. tụi bây. Tao không có tiền, tao nghèo, tao 'đi' cho Mỹ đụ đấy... Bọn bay thối miệng, học làm chi đây. Đ.M. tụi bây, chồng tao bị bắt, tụi bay sướng ghê !":
Đời sống cứ tiếp tục chiều quay của nó. Nhưng vui buồn cũng trở thành tầm thường như mưa nắng.
Tác giả vẫn phải nhìn ngấn ấy sự việc, trong khuôn khổ đống rác + sự tàn nhẫn chính mình; khi không thích con chó khôn ngoan yêu quý; đi lang thang kiếm ăn, tìm đực. Con vật bé mọn bị quất một cây gậy lớn đến trụy thai; từ đó, nó ốm đau, lê lết. Tác gỉả muốn mua thuốc cho nó; mà, không tiền; bởi thân chủ nó còn phải ăn bám bác Chánh; đã bi phẫn, than:
Trong từng hoàn cảnh; hoặc, trường hợp nào; hễ Thế Phong dấn thân vào, đều bị bao phủ bởi những oán thù, bất mãn. Óan thù những luật lệ xã hội + bất mãn thân phận làm người.
Tập truyện Khu rác ngoại thành gồm 3 truyện ngắn * ; mỗi truyện đều khuấy động, tự đáy tâm tư những dằn vặt, đau đớn; chẳng phải cho bản thân tác giả; mà còn cho xã hội.
"... Có thiệt chi đâu anh, tôi và anh đều buồn về cuộc đời cả mà. Ngủ với nhau nói chuyện cho vui. Nhất là đêm nay trời lại mưa lâm râm ... "
câu nói như đưa Thế Phong vào khung trời ước muốn; như kẻ đi giữa sa mạc, gặp hố nước; gục đầu, uống no nê. Tuy cái hố nước ấy đã có người uống trước; nhưng đấy không phải điều hệ trọng; cái [quan] trọng là người đàn bà đã biết rõ cuộc tình này chỉ là chuyện tạm bợ; xong rồi, rất vui vẻ chia tay, chị xin được địa chỉ thật; để nếu có mang thai, sinh con trai; sẽ báo tin chung sống lậu dài -- nếu hoàn cảnh cho phép.
Trong những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra; đều ẩn nấp những ý nghĩ chống đối, những chua chát não bề; dù đã được ngụy trang, bằng đam mê nhục dục. Những chữ, những câu dùng để tự sỉ vả; buồn thay, nó lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ-- vì những thứ ấy đã tạo cho tác giả trở nên như thế, trở thành như thế !
Thế Phong viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện trình bày một nhức nhối về cuộc đời; dù ân tình, hay, thất vọng. Từng vết roi do cược đời quất vào mặt, Thế Phong nghiến răng chịu đựng; rồi trả thù bằng ngôn ngữ. Nhà văn không tạo ra cuộc sống; hoặc, dùng cuộc sống như điểm tựa -- nhưng đích thực, Thế Phong đã ném vào cuộc sống những vốc bùn; vì cuộc sống đối với nhà văn như một địa ngục.
Đi suốt cả cuộc đời thanh niên; tìm không thấy lý tưởng, Thế Phong uất hận; viết thành thơ :
" Chợt nhớ rằng tổ quốc đang lầm than nên trời Saigon quanh năm không cân áo ấm kiếm miếng sống đợi chờ trong đống rác ngoại nhân. Tôi đứng bên tiềm thức Ngã Tư Bẩy Hiền thấy trẻ con lớn lên bằng những miếng bánh mì con sót và, quà đưa anh tặng em, miếng sô-cô-la lượm ...
Bị ám ảnh vây hãm quá lậu trong túng thiếu; căm phẫn -- nên mỗi dòng, dù [là] thơ hay văn , cũng gói ghém trọn vẹn những đối kháng tự thâm tâm của một 'con người đã có qúa khứ'
Tác phẩm của Thế Phong còn được dịch sang Anh ngữ, phổ biến ở ngoại quốc -- và, đăng tải. trong tờ TENGGARA ( Malaysia) :Vietnam: under Fire & Flames (Việt Nam, Vùng Trời Khói Lửa) ; South Vietnam, the Baby in the Arms of the American Nurse ( Nam Việt Nam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ) ; Thephong by Thephong: the witer, the work & the life ( autobiography/ tự-sự-kể) ; Asian Morning Western Music ( Sáng Á Đông, Nhạc Tây phương/ thơ ( với lời tựa của giáo sư Lloyd Fernando).
Phải chăng, Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có gương măt trầm buồn; đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió, trên khắp nẻo đường phiêu bạt -- nhân vật điển hình trong Don Quichotte de La Manche, cuốn tiểu thuyết triết lý, châm biếm bất hủ của đại văn hào Tây BanNnha, Miguel De Cervantès. (1547- 1614).
-nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca tượng trưng cho ý thức, hiện diện đằng sau hay bên cạnh Thế Phong .
Tạ Tỵ
http://phannguyenartist,blogspot.con/2016/08/the-phong.html
(...)
Phần II của cuốn Nửa đường đi xuống (hay Quyển Truyện Thứ 2); mở đầu bằng lá thư gửi một nữ y tá, người yêu. Mỗi phần sách có một phần đời tác giả. Vì là tự thuật, nên tất cả mọi sự việc; đếu được viết ra có lớp lang, tuần tự theo thời gian. Nội dung lá thư chứa chấp nhiều cay đắng, hờn hận. Nó là lời chào vĩnh biệt. Nó là cơn đau vò xé nội tâm người trong cuộc. Tình yêu, ôi tình yêu; đứng trước nó, con người trở nên hèn mọn; và, sẵn sàng chấp nhận khổ đau một cách tự hào ! ...
" ...Cách đây 2 năm, anh đã viết cho em nhiều thư lắm. Nhưng chưa bao giờ gửi; mặc dù em cùng sống với anh trong một thành phố đang quen, cùng một bầu không khí lành lạnh buổi sáng, nóng bỏng càng lúc non già trưa. Hẳn là em ngạc nhiên; lẽ tất nhiên rồi, vì anh muốn đoạn tuyết quá vãng. Song; anh làm sao có thể là một con người như xưa nữa, tuyên bố trước mặt mọi người: 'Tôi lột xác; và, bỏ ngày qua, để nhìn rõ hiện tại, như thế là xây dựng cho ngày mai. Gần 10 năm phục vụ, gần 6 năm thực tập cái lề lối, cả nếp sống 'bề ngoài thơn thớt nói cười', để mà nham hiễm' giết người không dao'. Rồi, anh chợt nhớ, nhớ lắm! Có những đêm, anh chắp tay vào má; trước ngọn đèn dầu ở xóm Chùa, bên bờ sông Tân định; suy nghĩ mung lung, sau khi đã tự tử dần bằng những ly cà-phê sánh đượm ..."
Qua những dòng thư; người đọc đoán biết tâm trạng của tác giả. Cuộc đời đã quất những chiếc roi da ngang mặt, làm nổi hằn từng đau đớn, qua chứng tích văn chương. Tác giả đã nói thực cho người yêu biết, đừng tin tưởng vào bề ngoài; mà xét đoán cái phong lưu bên trong, vì bề ngoài chỉ là chiếc mề-đay giả đấy thôi. Cả 2 mặt đều khắc sẵn những nét xấu xa ! Cuộc đời đã dạy cho Thế Phong nhiều bài học; nhưng, không bao giờ nhà văn oán trách sự xấu , nếu có đến với mình+ cả sự tốt của người đời; cũng chỉ giúp cho tác giả biết đứng trên 2 thứ đó, mà nhận diện cuộc sống đích danh.
Tác giả cũng chẳng cần che đậy, giấu diếm sự nghèo túng. Bạn mời đi ăn cưới, ăn mặc thật 'luých' , cúc 'manchette' hình'taureau' đẹp bậc nhất của Paris; mà thiếu 5 đồng tiền tắc-xi, phải nhờ chú rể hỏi vay một trong những cô gái có mặt ở tiệc cưới.
Đi từ lá thư vào truyện không cần qua đọan chuyển tiếp thông thường của kỹ thuật hành văn;Thế Phong đưa người đọc trở lui qúa khứ, trở về khung trời Hà nội; khi Nguyên vừa góp mặt, sau một chuyến bay. Từ đó, Nguyên ôm Hà nội vào lòng, với đam mê + tội lỗi.
Đến đâu,ở đâu, bóng dáng tình yêu cũng như bầy ma quái quấn riết lấy thân phận Nguyên, để làm khuất chìm mọi ước vọng khác. Nguyên không ở đâu yên một chỗ, vì tính tình bừa bãi, phóng túng; không chịu ép mình dưới khuôn thức nào của nếp sống -- nên, sự đi, ở, đói, khát là những gần gũi nhất; trong một đời sống đã được điểm danh. Nhà ông Đội, một gia đình phong kiến dởm;với kẻ hầu người hạ; với sự khinh bạc trong cách xưng hô; làm Nguyên hờn giận, nên chỉ coi đây là những ngày ở đây là tạm bợ.
Rồi đến quán ăn Mai Hương [20 Hàng Bạc] ; vừa trọ học + làm bồi bàn; lòng vẫn nhớ Kiều, người bạn gáiTàu lài, quen từ khi còn ở Nghĩa lộ. Sau đó, bỏ trọ ở quán Mai Hương , Nguyên lải xin vào ở ký túc xá Phan Đình Phùng ở phố hàng Đẫy; và, đi tìm Kiều & mối tình dang dở xưa; nhưng được biết: nàng đã lấy chồng lính viễn chinh Pháp; để cứu gia đình lâm nạn. U hoài bắt đấu đến; và, Nguyên xin gió lạnh 'hãy về gác trọ thật nhiều để làm bạn với cô đơn !'.
Nguyên đi học, nổi tiếng là hay quấy nghịch; đã mấy lần suýt bị đuổi, tuy có khiếu về sinh ngữ Pháp. Tuổi học sinh vốn vô tư, hồn nhiên; nhưng vào đời sớm quá; Nguyên đã có nhận định & phong cách của một tráng niên. Trong mấy năm học; thi không bao giờ đậu; vì ngoài môn sinh ngữ Pháp, môn nào cũng bết. Hình ảnh cô Thương [ngoài đời là Đặng Ngọc Oanh]; người nữ sinh cùng lớp đã làm đẹp tuổi niên thiếu, bằng những ức mơ, hoa bướm. Thế là một niên khoá qua đi rất nhanh.
Một buổi, có người cô ruột đến ký túc xá tìm Nguyện, gặp cháu ruột; người cô khuyên nên về nhà ờ; sẽ tốt hơn là ở ký túc xá. Nguyên mừng qúa ; vì đang lo Nghĩa lộ sẽ bị rơi vào tay quân kháng chiến Việt minh; nếu xảy ra, tất nhiên Nguyên sẽ không còn tiền để theo học. Và, đây là dịp may gặp lại người cô ruột giàu có; dầu Nghĩa lộ có mất đi nữa; Nguyên cũng có chỗ nương tựa.
Bài học đầu tiên đến với Nguyên làm anh sửng sốt; đó là bà nói sẽ cho một lô áo quần cũ còn tốt cho đứa cháu ruột. Nguyên bị chạm tự ái, tự biết mình là con khá giả; mặc toàn hàng hiệu Dormeuil đi học; đâu thèm mặc quần thừa, áo cho .
Giữa lúc đang cần tiền; thì nhận được một thư + măng-đa; từ Nghĩa lộ gửi về; cái tin cô Quán, cô gái Thái đã từng dan díu với Nguyên; mới sinh con gái. Trong khi ấy, hiện tại, anh đang có mối tình với cô nữ sinh, tên Thương ở Hà nội. Và, cách đó ít lâu; Nguyên nhận được tin mẹ anh bị ốm nặng; Nguyên cũng không thể nào trở về Nghĩa lộ thăm mẹ được; vì mặt trận thu động đang dìm cả vùng trời Tây bắc vào biển lửa. Người mẹ rất mực chiều chuộng con trai; không còn một lần được nhìn lại mặt Nguyên; kể từ buổi đưa tiễn con về Hà nội học; và, rất có thể kể cả khi lìa đời. Còn người cha bị Việt minh bắt đi, mất tăm tích; sống chết, tù đày ra sao; chẳng hề có tin tức.
Từ đấy, Nguyên bắt đầu viết văn. Từ đấy, những đêm dài ...
Một nhận xét: Thế Phong quá tham lam trong vấn đề chọn lựa sự kiện đưa vào tác phẩm. Có nhiều việc thừa; hoặc, không mấy cần thiết về kỹ thuất; khi dựng truyện -- thì vẫn được viết tới; làm tâm trí người đọc bị phâ tán ; không gây được tác động mãnh liệt dồn vào một chủ điểm chính yếu nào đó.
- trang 2 : Nửa đường đi xuống;
" nhà văn Nga KROPOTKINE phán:
' Di sản độc nhất mà anh có là cuộc đời riêng của chính anh"
-- rất hài lòng vể câu ấy,
" anh đặt đầu trang truyện này - tặng 2 người thân yêu nhất :
ME ANH & EM ".
'Nửa đường đi xuống' giống cái cây quá nhiều lá; đứng nhìn, người ta chỉ thấy một màu xanh nặng nề bao phủ; mà không nom rõ cái 'thế' vũng chãi của thân cây+ những nhánh+ cành; đang vươn cao sức sống.
Có lẽ, vì nói tới 'mình'; tất cả những gì 'thuộc về mình', khó lòng gỡ bỏ; dù cho là vì nó; [thì] tác phẩm sẽ mất đi một phần hiệu năng của truyền cảm. Chủ quan bao giờ cũng nguy hiểm, nhất là văn chương; chúng ta không thể bắt chước G. Duhamel 'thầm kín ôm ấp những cái gì thuộc về giai cấp mình, chung quanh mình mà thôi.'
Tôi lỗi và tội lỗi ở đâu;Nguyện cũng tạo ra cho mình 'vực thặm của Pascal .
Mỗi lần phạm tội; Nguyên đều tìm nguyên cớ để khỏa lấp -- như trường hợp với Bảy, cô cháu họ của ông chú dượng.
"... Ở Hà nội, những chiếc xe bọ hung màu xám chạy qua phố. Trên xe là những bô mặt sát khí của các chú linh Pháp. Nguyên cảm thấy rằng sinh mạng con người chỉ là sợi tơ nhện chăng vào đêm giống tố. Nguyên thèm khát những bộ ngực nở nang ... "
Cái gì đến phải đến, Nguyên đã bị dục tình quật ngã; Bảy mang thai sau hơn 1 trăm lần 'ghi sổ'.
Chuyện này: lúc đầu mọi người đều nghi cho chồng cô Thảo (chú dượng của Nguyên) vô luân, đã ăn nằm với cháu gái. Nguyên càng tỏ ra mình vô can trước dư luận; nhưng, sau mọi người đều biết thủ phạm chính là Nguyên. Bảy phải bỏ nhà ra đi, với cái thai hơn 7 tháng; Nguyên đưa cho bảy số tiền nhỏ còn lại; để nàng tạm chi dụng. (chỉ 1 lần duy nhất, là hết). Đau thay, thân phận đàn bà !
Nguyên vừa đi học, vừa tập viết văn; gửi đăng các nhật báo. Cái sư nghiệp văn học; bước đầu tiên, Nguyên nhìn qua vóc dáng các nhà văn Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Tô Hoài v.v. ..; quả là còn xa lắm!
Nguyên ở nhà bà cô ruột cũng chẳng êm ấm gì. Vì không chịu được nếp sống của Nguyên; nên 2 cô cháu gây gổ. Bà cô mắng, rủa, đánh Nguyên. Tuổi trẻ không dằn được nóng tính; Nguyên đấm lại bà cô, đến sưng vù mắt. Sau đó, Nguyên bắt đầu bỏ nhà đi, lang thang, với câu thề, 'Không bao giờ mình trở lại cái nhà này nữa.'
Nguyên đến ở nhờ một bạn thân ở miệt chùa Vua. Buổi tối đang đánh phé với 3 bạn khác; thì cảnh sát gõ cửa , xét nhà. Lẽ dĩ nhiên, Nguyên không có tên trong Sổ gia đình; bị bắt đưa ra xe về nằm tại 'bốt'; quận 1.
Khung cảnh thẩm vấn được Thế Phong viết lại; vô cùng xác thực, đã nói lên được cái không khí nghẹn thở của hà nội; trongt hời gian Pháp tạm chiếm thành phố :
".Trưởng ban điều tra chững chạc hỏi:
" Tên cậu là gì?"
" Thưa ông, Tạ mạnh Nguyên "
" Làm báo?"
" Vâng" ...
Một lát sau , hình như nhớ ra điều gì, trưởng ban 'rờ-sẹt' gọi một thanh niên trẻ lại:
" Xem sổ có tên này không ?"
Nguyên mừng thầm. Đến khi ông trưởng ban quta phắt lại, gọi:
" Hoàng ơi, 'affaire' đây rồi. Nhà báo, c'est lui. "
Nguyên bắt đấu hơi lo, chưa biết chuyện gì đây? Nhớ lại: lúc gần sáng, anh nhìn qua khe cửa bên kia: nhân viên điều tra thay nhau đánh đập; đàn bà có, đàn ông có, choai choai có ... Những tiếng khóc thét lên, im bặt tiếng van lạy như tế sao . " Con đau quá! ..." văng vẳng trong tiềm thức anh.
" ...
" Mày buôn lậu Aspirine, Quinine, Steptromycine đem đi đâu? Tiếp tế cho Việt minh, khai đi, đúng rồi lại là Quinines jaunes ... "
" Con lạy quan, con chó dại buôn, lấy tiền nuôi gia đình..."
" Lớn có thể đẻ con hàng mấy đứa, con chót dại ... Thằng gì đâu ... đánh cho nó khai. Allez ..."
" Dạ ...
" Này gia đình này, không khai này; này không khai này, địt mẹ chúng mày... Ông đánh cho bằng chết, có chửa này; thì .. thòi con ra này... kh...ai k... h ...a..i; hay không?"
Tiếng người đàn bà ban nãy; bây giờ chỉ còn giãy giụa, vang ra từ trong căn phòng điều tra. Nguyên và Hiển (thằng bạn bị bắt cùng khi chơi xì-phé) cùng nhìn thấy cảnh người hành hạ người vừa qua. Họ không nói; nhưng, cả 2 đều biết rằng :'người đàn bà có đôi mắt đẹp lúc nãy; nay chỉ còn là một thân xác lõa thể, bị dày vò'. Hiến chương Liên Hiệp Quốc! Hiến chương Liên Hiệp Quốc bảo vệ nhân quyền, ở đâu? ...
" Đánh cho bỏ mẹ nó đi -- một người ra lệnh -- dí điện vào 'số ta' nó ."
" Trời ơi ! con lạy quan, con chết, chết mất ..."
' Chết đâu dễ thế, khai đi, nhanh lên; quan tha. Marie hay Jacqueline, Ngọc, Tuyết, Nhung ... da trắng thế kia, hoài của ... khai đi để mà sống chứ . Khai đi ..."
" Con chết mất, xin quán... chớ hại đời con gái của con ... con khai, con khai, quan tha con ... Trời ơi ... Trời ời ! "
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 267- 268)
Đọan văn đã vẽ lại trước mắt người đọc một pha tra tấn, thường xảy ra ở bất cứ quận Cảnh sát nào; dưới thời Pháp chiếm lại Hà Nội; sau khi đã đẩy lui Trung Đoàn Thủ Đô qua bên kia bờ Hồng Hà; và, đi xa nữa ...
Nguyện đã chán nghể viết báo; có ý định vô Sài gòn làm cuộc phiêu lưu. Nguyên xuống Hải Phòng,; lên tàu Ville de Saigon, vào Nam; với số tiền do mưu mẹo của Hiển, người bạn tốt. Vào Nam, Nguyên không quen ai; ngoài hành lý tùy thân + đôi lời gửi gắm của bạn bè -- với lá thiếp của Minh (nhà văn Nguyễn Minh Lang) giới thiệu với một làm báo ở Sài gòn.
Trong suốt phần II của Nửa đường đi xuống; sự thật cũng chẳng có dữ kiện nào đặc biệt để má nói; ngoài chuyện quấy phá, nghịch ngợm của tuổi trẻ, với vài lỗi lầm nặng nề dục vọng. Nhưng, vì tác giả muốn trình bày sự diễn tiến của một đời người dấn thân vào văn chương; với những mốc vui buồn của nó một cách trung thực-- nên sự việc được nói tới, viết ra; đều ở ngoài văn chương.
Phải qua đến phần III (quyển truyện thứ 3), Thế Phong mới thực sự đi vào môi trường dự định, Từng khuôn mặt anh em, bạn bè, người tình đã mất đi vĩnh viễn; hay, còn sống trong cùng kích thước, không gian Sài gòn; đều được vẽ lại, với những hận thù + tiếc thương đằm thắm. Sóng gió bắt đầu thổi từng cơn giận dữ.
Những ngày đấu ở miền Nam trôi đi trong khốn khó. Đêm cô đơn lo ngại ngày mai; đến nỗi từ chối cả đàn bà mời chung vui.
Nơi đây, Nguyên gặp Hồ Hán Sơn, người chuyên viết lý thuyết Cách mạng; sau cũng chết tối tăm.' bị rói chặt thả xuống giếng ở Bến Kéo, một trại lính Quân đội Cao Đài; vì bị nghi là ' tay trong' của chính phủ Ngộ Đình Diệm. ..
.
Rồi cuộc đời đẩy đưa; vì có viết mấy cuốn sách về chính trị, Nguyên được giới thiệu; để giữ chức ủy viên Báo chí & bí thư tổng trưởng thông tin Phạm Xuân Thái. Miếng đỉnh chung này cũng chẳng hưởng được bao lâu; sau câu chuyện xích mích, Nguyên xin thôi; để sau này phải thốt lời oán trách gay gắt; khi bị Phạm tổng trưởng không cho mượn tiền :
" ... Thuê nhà được hơn 1 tháng, Nguyên bắt đầu thất nghiệp. Chính anh từ bỏ việc làm. Nguyên biết ngày mai chẳng còn gì để bấu víu; nhưng anh đành bỏ. Ban đầu, anh còn tiền ăn; dần dần không xoay sở vào đâu được; anh đến nhà một họa sí, ăn nhờ. Tân ngạc nhiên, khi thấy bạn không còn bút máy Parker treo ở túi áo như mọi lần.
" Sao, bút đâu? bán rồi sao."
"Tất nhiên. Nếu tao không cầm bộ 'complet', bút máy, đồng hồ; thì không có tiền để thuê nhà. Tao xin vay Phạm tổng trưởng; nhưng lão ta kêu không có. Chúng nó làm chính trị, chỉ cần mình khi chúng cần. Vậy thì, kinh nghiệm dạy cho biết: khi chúng vời tới mình đến; phải cắt cổ chúng má lấy tiền. Nếu không nắm cơ hội ấy, đừng hòng moi được tiền của chúng. ..."
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 305- 302)
Câu chuyện túng thiếu, chuyện thường xuyên đối với hầu hết những người làm văn nghệ; sự túng thiếu ở Nguyên; một phần do tính hào phóng; lúc có tiền ăn chơi cho đã, ngày mai xét sau; đến lúc xét được, thì đã muộn ! Biết bao nhiêu lần lỡ đà, quá trớn về tiền bạc , cũng như tình ái; chẳng lần nào giúp Nguyên được mảy may kinh nghiệm; để vượt thoát. Trên thực tế, Nguyên có thể kiếm ra tiền bằng nhiều cách; khi làm ủy viên Báo chí; nhưng tuổi trẻ, nhìn đời qua lăng kính lý tưởng; Nguyên đã đễ lỡ -- chắc không bao giờ còn tìm thấy cơ hội đó nữa !
Cái nghề viết văn, có gì đâu mà nhiều người ham mê vì nó; chịu cực cả một đời. Có lẽ, nó là cái nghiệp thật ! Sách viết xong mang bán; đi rạc cẳng, không chắc đã bán nổi; dù bán với món tiền chết đói :
" Bằng hẹn với anh đã nhiều lần lắm. Không còn xe đạp, anh đi bộ từ Tân Định vào Chợ Quán. Nhưng, phải đi làm sao chop đỡ mệt; đầu tiên đi bộ đến nhà Tấn (ngoài đời nhạc sĩ Y Vân, tên thật Trần Tấn Hậu] ), hy vọng có tiền uống nước mía. Tấn đi vắng, anh nhìn con đường dài , rồi trẩy bộ. Đến nơi, Bằng lại lỡ hẹn với anh;' mặc dầu cuốn sách in được mấy chục trang. Mỏi mắt đợi, ông quản lý nhà in thương hại, bảo:
" Tôi chưa thấy ai chịu khó hơn anh. Mười lần đi bộ là cả 10 lần không gặp. Đừng buồn, rán lên; sau này nổi tiếng, đỡ cực hơn !"
Ông ta đưa cho Nguyên 10 đồng, biết rằng Nguyên hết nhẵn tiền. Trở lại nhà bạn; mong gặp đúng bữa; quả là trong đầu hý hứng khoan khoái, thèm muốn. Nguyên bị nhịn đói là thường. Nhiều buổi hết tiền, anh nằm ngủ; hay, cựa mình; để nhớ mùi thơm xưa kia, ở tửu quán xa hoa. Ngày ở xóm Chùa Tân định; Nguyên đã không chỉ nhờ bà hàng xôi cho chịu mỗi sáng; mà, còn nhờ bá bán bánh chưng vào buổi chiều. Lỡ hôm nào; họ đau ốm; không qua đây, Nguyên chỉ còn chờ ... đói ...
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 308)
Cứ như thế, nhà văn kéo dài cuộc sống trong khốn quẫn triền miên; hỏi, làm sao không căm giận cuộc đời ? Tác phẩm bán đắt, bán rẻ; thì quanh quẩn cũng tiêu hết; trong khi đó vẫn phải ăn, phải trả tiền thuê nhà, phải tiêu một vạn thứ linh tinh; làm gì còn tinh thần ca tụng cuộc sống.
trích NHẬT KÝ CỦA NGUYÊN :
' tháng 1 đến tháng 12- 1957 ':
"... Lại hết tiền rồi. Bắt đầu chịu tiền cơm. Chưa biết ngày mai phiêu điêu; rồi, định đoạt cuộc sống ra sao ? Chị chủ nhà giục tiền quá. 3 tháng rồi. Xuống nhà bạn, xoay tiền không ra. Anh ta đưa mình lên quán Văn Sửu; anh ta định giao cho mình trông nom 'một loại sách văn nghệ' ;nửa tháng ra 1 kỳ'. Cuốn đầu tiên là truyện ngắn của mình. Sau, công việc không đi tới đâu, phát hành tập truyện ngắn 'Làm lại cuộc đời/ Thế Phong' ,dày 32 trang, bìa Tạ Tỵ' ; rồi ngưng. Trong khi ấy, mình nợ quán Văn Sửu thêm 2 ngàn đồng rồi.
...
Thằng Văn đưa về nhà nó; nuôi 1 tháng thôi; để tiếp tục viết nốt bộ sách dang dở. Rồi, nảy ra ý định ra thăm bà cô ở Bà- rịa; để vay tiền bà trả nợ vậy. Văn xem bói bài tây; nó bảo mình: 'mày đi chơi xa, có tiền đấy'. Mình chẳng tin bói toán; sao lần này lại hy vọng có tiền; như quẻ bói; liệu bà cô có cho vay tiền? Đồng thời, ra Cap Saint Jacques [Vũng tàu] thăm một bạn yêu văn nghệ, gửi thư cho mình; sau khi phát hành tập truyện mỏng dính 'Làm lại cuộc đời', do thi sĩ Tuấn Giang (Hồ Bá Cao) bỏ tiền in. Thư bạn yêu văn nghệ ở Vũng tàu cho biết:
' mời nhà văn ra chơi, tha hồ sơi bí-tết; trong thư, anh ta viết giọng châm biếm: ".. xưa kia nhà văn Vũ Trọng Phụng chết; than là không được ăn miếng bí-tết. Tôi rất kính trọng, và, xin nói thật vậy đấy.". Lời anh ta ở cuối thư' tái bút' vậy ..."
Người bạn văn nghệ quý tài Nguyên, mời ra Vũng Tàu ăn bí- tết; ai ngờ, anh ta bị Nguyên ăn cắp một số tiền 10 ngàn đồng [của nhà triệu phú tương lai Trần Hoài dành dụm trong phong bì . Sau, trong cuốn 'Nhà văn, tác phẩm & cuộc đới' Thế Phong có viết lại lần nữa về việc này.
'Ăn cắp' 2 chữ đó xấu lắm. -- một người biết tự trọng & chút lương tâm thôi; dù đói khổ cách mấy cũng không làm vậy.
Thế Phong đã làm, vì quá túng thiếu, nợ nần: nào tiền nhà, tiền cơm, , tiền cà-phê, tiền nợ thuốc lá quá nhiều -- đến nỗi người chồng nghi vợ anh ta có tình ý với Nguyên, không ráo riết đòi nợ tiền cơm+ thuê nhà đã 3 tháng.
Việc bất chính, 'ăn cắp tiền 10 ngàn đồng của nhà triệu phú tương lai Trần Hoài'; đã giải thoát cho nguyên được 1 khoảng thời gian ngắn trong vần đề 'sống'. Nhưng, những dằn vặt, lo âu sợ bị tù tội hằng đêm vẫn lởn vởn trong tâm trí, làm khổ Nguyên không ít.
Những người xung quanh đối với Nguyên không hoàn toàn xấu cả; còn có chị Năm Hưởng, vẫn thỉnh thoảng dành cho Nguyên phần thức ăn; như xôi & chè & quả chuối.
Chị Năm Hưởng có số phận lận đận, qua mấy đời chồng con rồi. Ý nghĩ đen tồi về xác thịt bắt đầu nhen nhúm; để đốt cháy lưng tri Nguyên trong cơn thèm khát dục tình. Mỗi lần Nguyên thức khuya để viết, những dòng chữ nào xuống mặt giấy; [thì], đuôi con mắt + nụ cười tình chị Năm như mời mọc ân ái. Chính vì muốn xâm chiếm thể xác chị Năm; Nguyên để ý từng tí một, đâu là cách thức mở cửa ra sao cho êm, không kêu cót két; để chui vào mùng chị cách nào cho êm thấm? Đêm khuya, chờ cho anh chị chủ nhà ngũ kỹ, Nguyên thi hành dự định.
Mọi việc được giải quyết một cách suôn sẻ.
Sáng hôm sau, hàng xóm nghe tiếng chị Năm Hưởng nói, như phân bua; với chị Hai Nụ, chủ nhà của Nguyên:
"... con mẹ ngủ nhờ đêm qua lười như hủi; ai lại giận chồng comn àm lại nằm lì ở nhà mình." -- Nguyên nghe thấy, cười thầm trong chăn.
Nhưng rồi, khốn khổ thay cho người đàn bà ấy -- một mầm sống đã hình thành trong bụng -- để rồi sau này, khi sinh nở; chỉ nhận được một hộp Hépatrol, thuốc bổ máu, gía chỉ hơn trăm bạc !
Thế Phong đã gieo vào cuộc đời vài mầm sống với dăm người đàn bà gặp gỡ, trong cách hoàn cảnh đặc biệt khác nhau .
Những đứa trẻ không may này, nếu Trời để cho lớn lên; không biết chúng có đọc 'lời nhắn trong cuốn sách; để tìm thấy bố'. Chung sẽ nghĩ gì về trường hợp khốn nạn, ở đó; chúng đã góp mặt !
Nguyên không hoàn bất nhẫn đối với đàn bà cả đâu; Nguyên đã dám từ chối tình yêu cô Nam Châu Đốc, người đàn bà cùng xóm tình nguyện dâng hiến. Cô Năm Châu Đốc cũng lỡ dở đường chồng con; chỉ vì Nguyên nghĩ đến chị Năm Hưởng + cái bào thai; đã mấy lần dùng thuốc phá thai không được; hối hận hối hận chất chồng !
Đời sống cứ thắt dần từng nút, từng nút; như sợi dây oan nghiệt đang xiết từ từ vào xuống họng kẻ chán đời; Nguyên đã cố gắng đến cùng, vẫn không giải quyết được vấn đề cơm áo. Cuốn sổ ghi nợ cứ chồng chất những con số nặng nề; làm Nguyên muốn gục mặt xuống. Một chiều, chị chủ nhà Hai Nụ , nói:
"... Cậu Nguyên ơi; chiều hôm nay không thể nấu cơm cho cậu ăn nữa rồi-- nói xong, chị đưa tay lên trán lau mặt. Anh Hai nói với tôi thế này, có khổ cho tôi không ? Bảo là 'tôi với cậu có tình ý với nhau; nên tôi sợ, không đòi nợ cậu ! ..."
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 349.)
Qua phần IV của Nửa đường đi xuống (Quyển Truyện Thứ 4) ; Nguyên đành rời bỏ Sài gòn đi Rạch Giá; để kiếm sống bằng nghề dạy học. Cũng chẳng được bao lâu; lại trở về thành phố, như con thiêu thân không xa rời được ánh sáng. Những kỷ niệm đau đớn, hay oán hận; đều được nhắc nhở minh bạch; kể cả chuyện bị bệnh phong tình, do cô gái làng chơi gửi tặng.
Nhiều người cho rằng Thế Phong 'cynique'; nhưng đó là bản chất Thế Phong, nhà văn không ngụy tạo; nếu khác thế, chẳng còn Thế Phong hôm nay.
Những ngày vô định tiếp nối, kéo lê trong phiêu bạt; tối nằm ngủ, sợ ngày mai chóng sáng; phải nhìn thấy thực chất cuộc đời + những khuôn mặt chủ nợ.
Nguyên bứt đi khỏi xóm Chùa Tân Định; bằng cách bỏ trốn. để lại rất cả sách vở & đồ nhật dụng. Các tập bản thảo đã được lén lút mang dần ra khỏi nhà, từ mấy bữa trước.
Một cuộc sống tay 3: Tô + Thảo+ Nguyên; những người trai bị đời hất hủi; được tổ chức trong một khuôn khổ không mấy khích lệ; vì họ luôn luôn bị ám ảnh, bị mặc cảm, như ý kiến của Tô:
"... Mày bảo tao không chán chường sao được. Khi tuổi thanh niên của bọn minh đã chết một cách bất đắc dĩ. Chỉ còn sa ngã vào tình yêu, dù trụy lạc; dù phải chà đạp lên luân lý ..."
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 373.)
Vì vững tin như vậy; họ tạo một lối sống riêng -- Nguyên có leo qua vách để làm tình với mụ me Tây về già, trong một đêm nào đó; cũng là chuyện thường. Khổ thay, người đàn bà đã lọc lõi ở đời về đường tình ái; vẫn bị thằng con trai, đáng tuổi 'em út' mình lừa dối !
Trong hoàn cảnh khốn khó như thế , những người ở xa Nguyên không nhìn thấy sự thực; nên vẫn mơ mộng, trong từng cánh thư gửi từ Hồng Kông. Nói rằng yêu, chưa đúng; vì chẳng có lời yêu đương nào được ghi nhận; nói không yêu cũng sai, vì, nội dung lá thư có hàm chứ những ý tình.
Thế Phong đã viết rõ chuyện này trong cuốn tự truyện 'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm, cuộc đời' (Đại Ngã tái bản, Saigon 1970) -- với những ray rứt, đứt nuối ở mỗi dòng, mỗi chữ.
Trong suốt phần IV của tác phẩm, dành để nói về mối tình trên với vài hình bóng con gái khác + những dang dở.
Phần V cũng là phần chót của Nửa đường đi xuống; được viết với tâm trạng vô cùng bi đát. Tình yêu cũng chỉ là hư ảnh. Nghệ thuật còn xa vòi vọi; chân trời vẫn nặng chĩu mây mù. Cuộc sống nối tiếp trong thiếu thốn trường kỳ. Với tình yêu, không phải bao giờ Nguyên cũng là kẻ chiến thắng; dù rằng, có người con gái đã viết thư cho nhà văn, những dòng chữ đằm thắm, chân tình:
" ...Ông Nguyên ơi! ông phải nhớ rằng, giả thử xã hội này; tất cả đều ruồng bỏ ông, ông hãy tự hào sung sướng; có một người bao giờ cũng tìm ông ..."
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 490)
Nhưng đau thay; cũng có giọng khinh bạc đến với Nguyên, qua câu chuyện được thuật lại, cùng trong thư đó :
"...Thưa cô, tôi trông cô quen lắm ".
" Thưa cô, cô có phải là cô Lan, không ạ?
" Thưa cô, cô co nhận được báo gửi tặng cô, chưa ạ?"
" Thưa cô, cô còn nhớ tội không ?"
" Thưa ông; tôi không còn nhớ ông là ai; tôi chỉ quen một anh quét đường cùng ở xóm Chùa với tôi; mỗi lần tôi đi học về, anh ta hay đón. Nhưng lâu nay; tôi không còn gặp nữa, vì xóm Chùa không còn rác, nên anh ta thất nghiệp ..."
(NỬA ĐƯỜNG ĐI XUỐNG, trang 491)
Hình ảnh những cái rủi luôn luôn chờ đợi, rình rập xuang quanh Nguyên; đợi dịp thuận tiện xông ra đẩy Nguyên xuống bùn đen. Đã không tiền, không nơi ở; lại còn gặp nhiều điều rắc rối không như ý ; nên có lời nào viết về bạn hữu -- trừ một vài người, vì quá tốt, hay may mắn -- đều bị tác giả ném vào mặt những lời sỗ sàng, tàn bạo. Mỗi khuôn mặt trong trang sách; đều mang theo tì vết chém của Nguyên.
Nào là thi sĩ Trần Thanh Đạm, nhà văn Thanh Thương Hoàng , v.v. ; trong đoạn kết cuốn sách, với những cái tát cuối cùng & những lời sỉ nhục quá đáng!
Thế Phong đã dùng hết sức mìn, để công phá lần chót; trả thù đời. Khi viết lại thân phận, qua những nét gian truân, oán hận; Thế Phong không dằn được cái 'váng nổi của ý thức'-- khi còn trẻ nên nói hết, viết hết những gì chưa chấp trong tâm tư; mặc kệ hậu quả. Câu mà thi sĩ Trần ThanhĐạm nói, " tất cả đều sợ anh", trong buổi tối mà Nguyên đánh Thanh Thương Hoàng; vì anh ta đã nói xấu khi vắng mặt, là như thết đó!
Cuốn sách tạm ngưng với vài lời cảm ơn bạn bè; dù tốt, hay là phản phúc; nhưng họ đã cho 'nhà văn cái vốn sống để hoàn thành sự nghiệp'.
Thế Phong luộn luôn khát vọng & mơ ước mình sẽ trở thành một Maxime Gorky Việtnam. Maxime Gorki [1868- 1936] sinh ra tại Nijni- Novvgorod, một thành phố nằm ở ngã 3 sông Volga + Oka. Thành phố có bến tàu lớn, cũng là trung tâm kỹ nghệ thép, xe hơi + cơ xưởng lọc dầu. Những tác phẩm nổi tiếng hoàn cầu, như Tuổi thơ ấu của tôi (Ma vie d'enfance), Những kẻ lang thang (Les Vagabonds), Người Mẹ (La Mère) v.v... đều được dịch ra nhiều thứ tiếng -- nhà nước miền Bắc cũng đã dịch ra việt ngữ. Thân thế & cuộc đời Maxime Gorki cũng đã gánh chịu vô vàn tủi nhục, hận thù giai cấp tư bản, phong kiến; nên ông dấn thân vào cách mạng Vô sản; dùng văn chương để trình bày cái xấu của một xã hội thoái hóa, bóc lột; đề cao những tấm lòng vàng trong manh áo rách.
Maxime Gorki đã kích động căm thù + dương danh vai trò vô sản trong mọi tác phẩm. Ông cũng đóng góp rất nhiều cho công cuộc Cách mạng Nga, tháng 10- 1917. Do đó, ông được nhà nước Liên xô tôn xưng là 'đại anh hùng văn nghệ vô sản'. Hoàn cảnh Việt nam khác; dĩ nhiên mơ ước lại càng khác nữa.
Trở về với Thế Phong, của Việtnam Cộng Hòa; thì sao?
Thế Phong: nhà văn, tác phẩm & cuộc đời' là sự nối tiếp những trang đời của tác giả.
. Ở Nửa đường đi xuống, Thế Phong còn ngụy tạo danh tính+ các nhân vật được đề cập; nhưng, ở 'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm& cuộc đời'; nhà văn đã cho người đọc biết tên thật của mỗi vai trò. Có nhiều chuyện được nhắc lại trongNửa đường đi xuống , với nhiều chi tiết hơn; những chi tiết nhức nhối làm chết sững nhiều người.
Người con gái làm thơ: Cao Mỵ Nhân [1939- ] đã cho Thế Phong nguồn đam mê tình ái & làm khổ nhà văn không ít trong suy nghĩ.
Cuộc tình đằng đẵng, có lẽ sâu đậm nhất; sau mối tình vô vọng với nữ sĩ Linh Bảo.[ Võ Thị Diệu Viên 1926- ]
Linh Bảo [ i.e. Võ Thị Diệu Vên 1926 - ]
( courtesy- photo of Đinh Thạch Bích / USA)
Gió Bấc / Linh Bảo
tác phẩm đầu tay, Nhất Linh chọn, in ấn
.
Cao Mỵ Nhân [1939 - / [hiện ở Mỹ ]
" ... Cao Mỵ Nhân đã cho Thế Phong một nguồn tình ái ....
tất cả nguồn cảm hứng sáng tạo trong thời gian này này dành cho Cao Mỵ Nhân"/ (Tạ Tỵ).
Tất cả nguồn cảm hứng sáng tạo trong thời gian này dành cho Cao Mỵ Nhân. Cuộc sống của Thế Phong vẫn chưa tìm thấy chân trời.
Nhà xuất bản Đại Nam Văn Hiến in ronéo; lấy số kiểm duyệt ma; vẫn ra đời; nhưng với nợ nần, thiếu thốn.
Trong khi đó, sách bán rất chạy, dù in lem nhem; vì kỹ thuật ấn loát kém.
Thế Phong,
ảnh : nữ nhà văn Nguyễn Thị Bích Nga tới thăm,
sau khi tác giả bị tai nạn giao thông (4-8-2008)
.
Vừa lo sống, vừa lo công việc nghệ thuật; vừa lo yêu -- ngần thứ ấy lúc nào cũng đeo đẳng vào số phận nhà văn; để hành hạ.
Anh em, người này đi; người khác đến; cả những khuôn mặt đàn bà cũng vậy -- như nàng Oanh, người tình cũ; gặp lại ở một trường hợp đặc biệt,
[Sau], Oanh đã tự tử, không chết, bỏ chồng; ĐẶNG NGỌC OANH
[ Hanoi 1935 - Saigon 2015] đòi làm lại cuộc đời với Thế Phong -- trong khi đó, tình yêu với Cao Mỵ Nhân đang nồng nàn. Nhưng Thế Phong vẫn cùng Oanh đi Vũng Tàu; rồi những trận tình, làm Oanh mang bầu. Nhà văn trốn tránh trách nhiệm, bằng cách thay đổi chổ ở. Đến Tết gặp nhau, Thế Phong đã chán, xô nàng xuống
đường ! ...
Thế Phong viết lại rất lạnh lùng, tàn nhẫn. Mỗi dữ kiện được nhắc tới, bao giờ cũng gói ghém trọn vẹn 2 chữ: 'thù hận', không phải với cá nhân; mà, với cuộc đời.
Thế Phong mê mải làm việc; có thể ngồi cả tháng trước máy chữ, đánh bản thảo trên giấy xáp (stencil) để in ronéo. Sự thực trong dòng sống; Thế Phong cũng có chuyện tình chua xót, với một người đàn bà góa, gặp gỡ ở giữa đường.
Người đàn bà này đã có con gái lớn; hết lòng chung thủy với chồng đã chết. Nhưng đốm lửa nên duyên; để rồi, ân hận đến cho tới khi nhắm mắt. Trong một đêm vắng; Thế Phong muốn thử xem người đàn bà 40, đáng tuổi chị mình đó, thờ chồng đến mức nào? Nhưng hỡi ôi! con người đâu phải thần thánh; làm sao chống nổi được với đam mê thân xác, bên cạnh một chàng trai khỏe mạnh. Thế rồi sau đêm hoan lạc đó; bà ta ở luôn. Biết cần phải có chồng mới chung sống được; bà bảo tác đưa tiền mua cỗ bài tây, để bà hành nghề bói toán kiếm ăn. Thế Phong đi vay tiền đưa cho bà. Từ đó ngày ngày; bà kiếm tiền nuôi 2 miệng ăn, bằng cỗ bài tây kia.
Nhưng có một buổi; bà không quay về nhà nữa, tác giả đoán được là bà đã bị cảnh sát bắt; vì một tội gì đó -- tác giả xúc động viết bài thơ Cửa mở đón em về :
Nửa đêm anh ôm suốt vòng lưng tưởng tượng
đêm không đèn mở cửa đóm em về ...
SAI BIỆT/ thơ THẾ PHONG
Rồi một tối, bà trở về cho biết: 'bị giam ở khám Chí hòa'; và, báo tin mình đã mang thai, mang thai sau bao năm chờ chồng.
Nhà văn sợ quá; chợt nghĩ đến chị Năm Hưởng & hộp Hépatrol, bèn tìm cách tháo chạy. Chạy bà góa mang thai chưa xong; nghe tin nàng Oanh lại sinh nở. Tác giả muốn có chút tiềnt ặng khi nàng nằm ổ; biết vay không ai cho; thọi đành ăn cắp tiền của bạn cùng nhà; rồi đem tới bệnh viện Hùng Vương cho Đặng Ngọc Oanh.( nhân vật Thương trong tác phẩm của Thế Phong).
Chuyện vỡ lở; Thế Phong lại phải lên đường tìm chỗ khác trú ngụ. Chuyện ăn cắp còn đến với người bạn tốt; thấy nhà văn không có chỗ ngủ; bèn mời đến nhà mình; ở hẻm đường Bùi Viện.
(Saigon 1).
Nửa đêm; nhà văn móc túi quần, mở ví lấy hết tiền; rồi chuồn sớm, chỉ vì quá túng quẫn.
Tất cả tác phẩm ronéo in trong những năm 1960, 1961, 1962 và 1963; đếu có ý hướng chống chính quyền Ngô Đình Diệm; nhất là tập thơ Mây Hà Nội/ Nhị Thu; Vô cùng/ Đào Minh Lượng.
Rồi đến chuyện gây gổ với Nguyên Sa, Hoàng Trọng Miên, Mặc Đỗ, Đỗ Tấn, Nguyễn Văn Trung, Vũ Khắc Khoan , Võ Phiến, v.v. ...; Thế Phong đã nói hết trong tác phẩm 'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm & cuộc đời'.
Nhưng vẫn chưa hết; còn nhiều khuôn mặt nữa; toàn những khuôn mặt anh em + đôi ba người tuy không làm văn nghệ; nhưng dùng văn nghệ phục vụ cho mình; Phạm Xuân Thái, bác sĩ Lý Trung Dung, chủ tịch Mặt Trận Bảo Vệ Tự Do Văn Hóa.
Ngay cả khuôn mặt Nguyễn Đức Quỳnh, thuộc nhóm Hàn Thuyên tiền chiến (Hànội) ; hiện nay chủ trương Đàm Trường Viễn Kiến; mà, Thế Phong đã nhiều lần tham dự, cũng bị kết án làm mật thám cho Pháp; trong cuốn Nhận diện vóc dáng Nguyễn đức Quỳnh.
Còn nhiều, nhiều nữa; cả đàn bà lẫn đàn ông, mỗi người được Thế Phong đeo cho chiếc thẻ bài & dòng chữ số .
Mối tình Cao Mỵ Nhân, tuy cuối cùng tan vỡ; nhưng có lẽ là mối tình đẹp nhất đời; Thế Phong đã làm nhiều thơ vì nàng.
Để tỏ bày lập trường văn nghệ & sự kiên trì thái độ; Thế Phong viết,
"... Những ngày có dấu chân của chàng kỵ mã văn nghệ, là tôi đây; quang cảnh miền Nam đã thay đổi. Tôi như là mũi tên, không tha thứ một tên nào; dù có quyền hành móc sau đời sống văn nghệ, tôi cũng lao những mũi tên tẩm thuốc độc để cảnh cáo; hoặc, khử trừ. Những tên làm 'văn nghệ xấu'; như đạo văn, làm mật vụ; chúng phải nghĩ tới đối tượng tôi, trước khi bắt tay vào việc. Có thể ghét bỏ tôi; chung quy thì phải nể + kính trọng tôi. Tôi đòi phải thừa nhận lỗi lầm, nhơ nhớp của họ; mới có thể tránh + sửa chữa tội lỗi ..."
(THẾ PHONG; NHÀ VĂN, TÁC PHẨM & CUỘC ĐỜI,
trang 199/ bản tái bản của Nxb Đại Ngã/ 1970)
Thephong: The writer, the work & the life'
'bị"Amazon.com = Amazon.co.uk.=
WorldCat = Rulon-Miller Books (ABBA) ... v.v...
$ 650,00 / USED
Những dòng trên, có chủ quan lắm không ? Với tuổi trẻ, cái gì cũng có thể đúng -- ngay cả mặt trời kia, nếu nổ vỡ & nhiệt độ rớt xuống, có làm cháy tan trái đất này; họ cũng coi như chuyện thường, vì họ không có gì để mất; ngoài tự ái! Nhưng rồi thời gian& tuổi đời chín dần; họ mới thấy, mới nhận biết: 'văn nghệ hay gì gì nữa cũng là thừa cả, trước vũ trụ'.
Lão Tử đã nhìn rõ, mới cất lên 2 chữ 'vô vi'.
Phải nhận rằng Thế Phong rất yêu nghề; nguyện sống & chết với nghiệp. Dù gặp bao nhiêu khốn khó; dù đói cơm, rách áo, dù tình yêu tội lỗi quây chặt tâm hồn, dù đời có phụ rẫy, dù bạn bè tốt xấu, dù mình có hư đốn; nhưng không bao giờ Thế Phong xao lãng văn nghệ, thứ 'văn nghệ đắng' không nuôi nổi mình.
Thế Phong viết ra cái xấu bản thân; của xã hội, để ghi dấu khoảng đời, chuỗi thời gian góp mặt. Công việc nghĩ rằng dễ; nhưng thực khó!
Đã có lúc'nhà văn muốn tự hủy đời sống của mình' ; trong những ngày ở xóm đạo Tân Sa Châu (Quận Tân Bình) , vì quá tuyệt vọng! Nhưng với tuổi trẻ & Trời phú cho sức chịu đựng; Thế Phong đã vượt thoát, dù vượt thoát với ngàn vạn cay đắng, nhục nhằn ! ...
Ngoài 2 tác phẩm tự-sự-kể 'Nửa đường đi xuống' &'Thế Phong: nhà văn, tác phẩm & cuộc đời'; được ghi nhận như những bài học đắt giá của văn nghệ, Thế Phong còn dùng văn chương để nói về đời sống tình cảm của một nữ văn sĩ nổi tiếng tử thời tiền chiến.
để tránh những khó khắn về kỹ thuật dựng truyện, Thế Phong phải dùng 'Lời nói đầu' trong cuốn 'Truyện người của tình phụ' :
" Đây chỉ là thể hiện cuôc đời qua tiểu thuyết; mà, xã hội cỏn con ấy không liên hệ gì; hoặc xa, gần với đời sống một cá nhân nào, trong xã hội thực. Nói như thế, tác giả không trách nhiệm, biện giải; khi có ai muốn thể hiện tiểu thuyết này có sự liên hệ đến họ ."
Câu trên, thực tình viết ra; mà, chẳng viết gì cả. Câu chuyện tình của người đàn bà có chút học vấn; vì gia đình hay duyên nợ (?) phải lấy anh chồng nhà quê không ưng ý; gặp người đàn ông hơn thế; mê liền, bỏ chồng đi theo ; để rồi lại mê nữa,tới người thử, thứ 4 ...
Sự mê đắm một phần do nhục thể, một phần vì hào quang sự nghiệp văn hoá & chính trị từ người đàn ông tỏa ra. Cái tâm trạng đứng núi này trông núi nọ; rốt cuộc ngọn núi nào lúc đến gần, cũng ngàn ấy thứ xấu xa, ghê tởm; làm cả cuộc đời tan nát trong đam mê, ước vọng !
Toàn bộ cuốn truyện không mấy xuất sắc; vì tình tiết cũng như cốt truyện: không nằm ở môi trường chung của mọi thành phần xã hội, nó là ngoại lệ -- nên chỉ có thể gây xúc động ở một vài tâm sự đồng cảnh ngộ nào đó. Hơn nữa, các sự kiện nói tới; được tiểu-thuyết-hóa quá độ, trở thành giả tạo. Nghệ thuật một khi giả tạo, khó gây ảnh hưởng sâu đậm trong lòng người đọc.
Thế Phong: 'nhà văn có khuynh hướng xã hội'...
... những cảnh sống khốn cùng của một lớp người chỉ trông vào 'đồ thừa'; quân đội Mỹ thải ra, cũng đủ nuôi sống phong lưu cho cả gia đình: những thân phận con người ngoại ô. Những thảm trạng xã hội ở đấy; chỉ vì chút lợi lộc, con người có thể căm thù nhau mãn kiếp; có thể hy sinh luôn danh dự + thể xác, để đánh đổi lấy quyền lợi; dù quyền lợi nằm trong đống rác nhơ bẩn, thối tha.
Truyện Khu rác ngoại thành được viết bằng cả nước mắt, bằng nỗi nghẹn ngào; trong mỗi trạng huống được đề cập. Phải xác nhận, từ ngày có sự hiện diện Quân đội Mỷ ở Việt Nam, sinh hoạt thành phố đã thay đổi theo mức độ đáng ngại. Các 'bar' mọc lên tua tủa + ổ mãi dâm lan tràn trong mọi ngõ ngách; ngay cả trung tâm thành phố. Giá sinh hoạt tăng vùn vụt; muốn ông còn, bắt buộc mỗi cá nhân, mỗi gia đình phải kiếm thêm bằng mọi cách.
Truyện Khu rác ngoại thành với đống rác cao như núi+ những ti tiện + bỉ ổi trong vấn đề giành mối lới, cái mối lợi do quân dội Mỹ vứt đu; được viết ra với những tình tiết vô cùng càm động. Hình ảnh người lính không quân, tên Tiết; với những hình ảnh GI( Di-Ai) & vợ Tiết, gái điếm hoàn lương & nhiều vóc dáng khác, quay tròn xung quanh đồng tiền; làm chóng mặt ;
" ... Tôi nhớ lại những buổi tối, mấy người Mỹ đến nhàTiết chơi. Mỗi lần nhìn thấy tắc-xi. đậu trước cửa, vợ Tiết sai thằng con đem tiền ra trả; cho rằng cử chỉ đó là một thái độ chiều chuộng. Sau đó, chị thường đem chuyện người Mỹ đến nhà chị chơi ra sao, kể lại với hàng xóm; coi như đó là một vinh dự; và, lên mặt với mọi người. Năm gian nhà khu chúng tôi không rào giậu gì; bếp nước chung nhau một gian nằm dài sau dãy nhà chính. Giấy má, thư viết bằng tiếng Anh. Tôi tò mò đọc. Nội dung lá thư đại khái như thế này:
" Bạn không phải mua quà tặng vợ tôi làm gì. Tôi chỉ muốn phiền bạn mua giúp tôi 50 'tút' Pall Mall, Lucky, Salem& 20 hộp thuốc píp 79. Nô-en năm nay tôi sẽ dẫn bạn tới một chỗ tuyệt vời; ' Con gái Việtnam đẹp lắm !'
Thân kính 'TIẾT' "
(KHU RÁC NGOẠI THÀNH, trang 20/
bản tái bản của Nxb Trình bày, Saigon 1966.)
Tiết là lính không quân, nhưng ăn mặc 'luých' như một công tử miền Nam , gốc giàu có. Trong nhà có đủ thứ sang trọng của một gia đình sung túc; nào là nho, cam, táo, đào hộp, thịt bò, bánh kem, kẹo, cà-phê bột, chocolat, xà-bông bột , v.v. ... Nhưng vì miếng ăn, cái 'đống rác' ấy lục đục với nhau :
"... Xe ngoại kiều càng ngày càng đổ nhiều vỏ đạn rốc-kết, những thùng đạn đôi khi còn mới nguyên. Bọn Tàu ve chai, đi mua đạn để lấy đồng, với gái rẻ mạt. Bác Chánh bắt đầu làm đon khiếu nại, nhưng không cho tôi biết; khác hẳn với mọi lần -- mỗi khi làm việc già, bác cũng thăm dò ý kiện tôi trước. Chủ căn nhà A ( tức nhà bác Chánh) khiếu nại rằng : 'đổ rác làm mất vệ sinh'. Tôi chắc Trần có đóng góp vào việc thảo lá đơn này. Trong khi đó; ở một mặc khác, tôi được biết Trần cũng làm đơn tố cáo với tòa đại sứ Mỹ + cơ quan quân sự Mỹ, về việc xe ngoại kiều đi đổ rác đều được Tiết ve vãn: cho tiền , dẫn gái; nên đem đi đổ rác mà toàn là những đồ nhà binh còn mới toanh. Tôi thấy không cần phải đóng góp thêm một ý kiến nào .."
(KHU RÁC NGOẠI THÀNH, trang 26 ...)
Rồi cũng quanh đống rác; người ta chửi nhau, đánh nhau, thưa kiện để giết chết nguồn sống của nhau. Tiết bị quân cảnh bắt giữ, vì dính líu vào vụ rác Mỹ. Trong khi Tiết bị hoạn nạn; ở nhà, vợ Tiết lao đầu vào tội lỗi :
" ... Bây giờ không phải là mùa xuân nữa; mặc dầu chưa hết tháng 2 âm lịch. Thằng bé càng hát lớn; con bé càng khóc to hơn. Rồi, thằng bé lại hát bài quốc ca để ruc háu nữa. Nhịp đi hùng mạnh của đoàn quân, hình như không thể làm cho đứa bé hài lòng. Gần sáng mẹ nó mới trở về. Xóm lao động ở bìa rừng cao su, anh Bẩy loan tin về chuyện thức, xảy ra trong đêm qua trong 'rừng ái-ân': " Vợ thằng Tiết đêm qua cặp kè với ngoại kiều suốt sáng; ở chiếc mả cũ trong rừng cao su. Đ.M. thằng chồng mới bị bắt ít bữa, mà làm vậy rồi. Đồ chó điến mà, bọn bây ! Con đó trước làm điếm ở Lăng Cha Cả, gái chơi bời mà ...! "
(KHU RÁC NGOẠI THÀNH, trang 36 )
vợ Tiết, người đàn bà lai Tàu đã dày dạn tình đời, bướng bỉnh thừa nhận:
"... Đ.M. tụi bây. Tao không có tiền, tao nghèo, tao 'đi' cho Mỹ đụ đấy... Bọn bay thối miệng, học làm chi đây. Đ.M. tụi bây, chồng tao bị bắt, tụi bay sướng ghê !":
Đời sống cứ tiếp tục chiều quay của nó. Nhưng vui buồn cũng trở thành tầm thường như mưa nắng.
Tác giả vẫn phải nhìn ngấn ấy sự việc, trong khuôn khổ đống rác + sự tàn nhẫn chính mình; khi không thích con chó khôn ngoan yêu quý; đi lang thang kiếm ăn, tìm đực. Con vật bé mọn bị quất một cây gậy lớn đến trụy thai; từ đó, nó ốm đau, lê lết. Tác gỉả muốn mua thuốc cho nó; mà, không tiền; bởi thân chủ nó còn phải ăn bám bác Chánh; đã bi phẫn, than:
" ... đời sống khốn nạn này không cho phép tôi làm; để tự kiếm đủ miếng sống cho chính bản thân + một con
chó cái ! ..."
Trong từng hoàn cảnh; hoặc, trường hợp nào; hễ Thế Phong dấn thân vào, đều bị bao phủ bởi những oán thù, bất mãn. Óan thù những luật lệ xã hội + bất mãn thân phận làm người.
Tập truyện Khu rác ngoại thành gồm 3 truyện ngắn * ; mỗi truyện đều khuấy động, tự đáy tâm tư những dằn vặt, đau đớn; chẳng phải cho bản thân tác giả; mà còn cho xã hội.
----------
* bản in đầu tiên do Đại Nam Văn Hiến xuất bản, mang tựa 'Con chó liêm sỉ,' gồm 5 truyện ngắn. Khi nhà xuất bản Trình bày tái bản, giám đốc Thế Nguyên giao cho Phạm Văn Rao (Diễm Châu [1937- France 2006]) biên tập, loại bỏ 2 truyện:'Nôi nuôi mình vợ chồng Tàu' & 'Con chó liêm sỉ').
- sau 1975, Nxb Thanh Niên (Hà nội)cấp phép, sách in đủ 5 truyện 'Khu rác ngoại thành/ The Rubbish Tip outside the City'.
(Thế Phong chú thích)
Khu rác ngoại thành
( bản tái bản của Nxb Trình Bày, Saigon 1964)
The rubbish tip outside the city
translated by Đàm Xuân Cận
do các nhà xuất bản ở Mỹ,
rao bán trên mạng toàn cầu.
Khu rác ngoại thành/
The rubbish tip outside the city
jaquette bìa trước
jaquette bìa sau
". sau 1975, Nxb Thanh niên (Hà Nội) cấp phép; in đủ 5 truyện:
Khu rác ngoại thành / The Rubbish Tip outside the City'
Từ khuôn mặt Thu, người đàn bà xứ Huế, vợ bạn; đã nhiều đêm, nhà văn muốn mở cửa ngang, lẻn sang buồng nàng để tỏ tình-- trong lúc người chồng đi dạy học xa; đến người đàn bà xứ Quảng lặn lội vào Sài gòn tìm việc làm tôi tớ; việc không tìm được, lại gặp đúng anh thanh niên lãng tử; để Một đêm tình ái xảy ra. Người đàn bà xứ Quảng cũng thuộc nòi tình, 'điều ấy' được nói ra một cách bình thản:
"... Có thiệt chi đâu anh, tôi và anh đều buồn về cuộc đời cả mà. Ngủ với nhau nói chuyện cho vui. Nhất là đêm nay trời lại mưa lâm râm ... "
câu nói như đưa Thế Phong vào khung trời ước muốn; như kẻ đi giữa sa mạc, gặp hố nước; gục đầu, uống no nê. Tuy cái hố nước ấy đã có người uống trước; nhưng đấy không phải điều hệ trọng; cái [quan] trọng là người đàn bà đã biết rõ cuộc tình này chỉ là chuyện tạm bợ; xong rồi, rất vui vẻ chia tay, chị xin được địa chỉ thật; để nếu có mang thai, sinh con trai; sẽ báo tin chung sống lậu dài -- nếu hoàn cảnh cho phép.
Trong những câu chuyện nhà văn kể ra, viết ra; đều ẩn nấp những ý nghĩ chống đối, những chua chát não bề; dù đã được ngụy trang, bằng đam mê nhục dục. Những chữ, những câu dùng để tự sỉ vả; buồn thay, nó lại là những lời nguyền rủa một xã hội, một chế độ, một thế hệ-- vì những thứ ấy đã tạo cho tác giả trở nên như thế, trở thành như thế !
Thế Phong viết rất nhiều truyện ngắn. Mỗi truyện trình bày một nhức nhối về cuộc đời; dù ân tình, hay, thất vọng. Từng vết roi do cược đời quất vào mặt, Thế Phong nghiến răng chịu đựng; rồi trả thù bằng ngôn ngữ. Nhà văn không tạo ra cuộc sống; hoặc, dùng cuộc sống như điểm tựa -- nhưng đích thực, Thế Phong đã ném vào cuộc sống những vốc bùn; vì cuộc sống đối với nhà văn như một địa ngục.
Đi suốt cả cuộc đời thanh niên; tìm không thấy lý tưởng, Thế Phong uất hận; viết thành thơ :
" Chợt nhớ rằng tổ quốc đang lầm than nên trời Saigon quanh năm không cân áo ấm kiếm miếng sống đợi chờ trong đống rác ngoại nhân. Tôi đứng bên tiềm thức Ngã Tư Bẩy Hiền thấy trẻ con lớn lên bằng những miếng bánh mì con sót và, quà đưa anh tặng em, miếng sô-cô-la lượm ...
(THẾ PHONG: NHÀ VĂN, TÁC PHẨM & CUỘC ĐỜI , trang 360)
Thế Phong, nhà văn tác phẩm cuộc đời/
(Đại Nam Văn Hiến -- Saigon 1964)
Thế Phong:
nhà văn tác phẩm & cuộc đời
( Nxb Đại Ngã, Saigon 1970)
Nhận diện vóc dáng Nguyễn Đức Quỳnh
Thế Phong
- South Vietnam, the Baby in the Arms of the American Nurse /
- Nam ViệtNnam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ /Thế Phong
( bilingual ).
Asian Morning Western Music / Thé Phong
with the preface of Lloyd Fernando ,
professor of English, Dept. of English,
University of Malaya (Malaysia)
- Uplifting poems / The Phong
translated by Đàm Xuân Cận
- dịch giả Đàm xuân Cận [1939- / hiện ởc Úc ]
- ban biên tập TENGGARA
giới thiệu dịch giả Đàm Xuân Cận
".... The poems reprinted here here are taken from a mimeographed collection of poetry by the Vietnamese poet, Thê Phong, entitled Vietnam: the sky under fire and flames, published in Saigon in May 1967. The collection wa obtained for TENGGARA by the young Indonesian writer, Bur Rasuanto, who was on a visit there recently. Thê Phong was born in 1932 at Yên Bái, and spent his childhood in the northernmost part of Vietnam. He took part in the resistance at an early age and has been a farmer, soldier, school teacher and editor, besides writing stories, poetry and critiques. Dam Xuan Can, in his presenting his English translations of Thêphong's poems in Vietnam : the sky under the fire and flames, wrote: " Thêphong's poems are particularly difficult to translate, and I have no illusion whatever about my command of English. I trust that one day a poet of talent will revise this version and do more justice to the original. " Readers are bound to feel that Dam Xuan Can does not himself justice.
( TENGGARA/ APRIL 1968)
Bị ám ảnh vây hãm quá lậu trong túng thiếu; căm phẫn -- nên mỗi dòng, dù [là] thơ hay văn , cũng gói ghém trọn vẹn những đối kháng tự thâm tâm của một 'con người đã có qúa khứ'
Tác phẩm của Thế Phong còn được dịch sang Anh ngữ, phổ biến ở ngoại quốc -- và, đăng tải. trong tờ TENGGARA ( Malaysia) :Vietnam: under Fire & Flames (Việt Nam, Vùng Trời Khói Lửa) ; South Vietnam, the Baby in the Arms of the American Nurse ( Nam Việt Nam, đứa trẻ thơ của vú em Huê Kỳ) ; Thephong by Thephong: the witer, the work & the life ( autobiography/ tự-sự-kể) ; Asian Morning Western Music ( Sáng Á Đông, Nhạc Tây phương/ thơ ( với lời tựa của giáo sư Lloyd Fernando).
Phải chăng, Thế Phong đã mang hình ảnh một Don Quichotte, chàng hiệp sĩ lang thang có gương măt trầm buồn; đánh nhau điên cuồng với những chiếc cối xay gió, trên khắp nẻo đường phiêu bạt -- nhân vật điển hình trong Don Quichotte de La Manche, cuốn tiểu thuyết triết lý, châm biếm bất hủ của đại văn hào Tây BanNnha, Miguel De Cervantès. (1547- 1614).
-nhưng tiếc thay, không có Sancho Panca tượng trưng cho ý thức, hiện diện đằng sau hay bên cạnh Thế Phong .
Tạ Tỵ
[ Hanoi 1921- Saigon 2004]
http://phannguyenartist,blogspot.con/2016/08/the-phong.html
- bài tu chỉnh ( có đọc lại) 18 /8/ 2022
==================
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ