AN NINH THẾ GIỚI - AN NINH THẾ GIỚI CUỐI THÁNG - VĂN NGHỆ CÔNG AN
Nhà văn Băng Sơn: Người đi tìm những vẻ đẹp "khuất lấp"
Giản dị như muốn lẫn vào đám đông, trong văn học ông cũng chọn một lối như thế, một lối rất nhỏ, xinh và bình thản, ấy là tùy bút, tản văn. Và ông ghi dấu tên mình vào đời sống văn học như hình ảnh một con ong cần mẫn ngày lại ngày cóp nhặt cho đời chút tinh túy mật ngọt. Ông là nhà văn Băng Sơn.
Giới viết văn thừa nhận Băng Sơn là một trong nhóm "ngũ hổ" có sức viết dẻo dai, bền bỉ nhất của Hà Nội. Bốn người còn lại là các nhà văn, nhà thơ Lê Bầu, Phong Thu, Tạ Hữu Yên và Lữ Giang (nhà thơ Lữ Giang hiện đã mất). Một năm có 365 ngày, Băng Sơn viết khoảng chừng 300 bài, mà hầu hết là được in trên các báo chí khắp trong Nam ngoài Bắc.
Tuần nào ông cũng thong dong đến các tòa soạn báo lĩnh nhuận bút, gặp gỡ bạn bè văn nghệ, và ngắm nghía, quan sát đời sống Hà thành, để rồi về nhà, ngồi vào bàn viết, một vài trang bản thảo mới lại ra đời.
Cho đến hôm nay, Băng Sơn đã xuất bản 36 tập tùy bút, đoản văn, 2 tập thơ và một số vở kịch. Cố nhiên văn học không phải là chuyện số lượng. Nhưng nhìn vào số lượng tác phẩm để thấy rằng ông đã miệt mài, đam mê, và nghiêm túc với công việc như thế nào.
Băng Sơn bắt đầu đến với văn học từ năm 17 tuổi. Khi đó người ta biết tới Băng Sơn như một nhà thơ. Thế rồi đến một ngày Băng Sơn nhận ra một lối đi khác: viết tùy bút.
Ông kể lại: "Tôi đã có 30 năm làm thơ. Thế rồi tôi nhận ra có quá nhiều người làm thơ, thơ hay thì ít mà thơ dở lại quá nhiều, đọc rất nhàm. Tôi chuyển qua viết kịch. Một vài vở kịch của tôi gây được ấn tượng tốt, thậm chí được nhận giải của Hội Nghệ sĩ Sân khấu nữa.
Nhưng tôi cũng không hào hứng vì thấy rằng, viết kịch khó ở cả "sự viết" lẫn "sự dùng". Người ta dựng vở kịch của mình méo mó đến nỗi mình không dám nhận mình là tác giả kịch bản nữa. Thế là tôi viết tùy bút và nhận ra tạng của mình rất hợp với thể loại này.
Càng viết càng say mê và càng được bạn đọc đón nhận. Rồi tôi nghĩ tới một thể loại ngắn hơn tùy bút nữa, tôi gọi đó là đoản văn. Tôi xác định rõ ràng, tùy bút, tản văn từ đây sẽ là sự gắn bó lâu dài của mình".
So với nhiều nhà văn cùng thế hệ, Băng Sơn có một may mắn, là ông không phải cầm súng ra chiến trường. Đời sống của ông rất êm đềm. Ông trải qua các nghề như dạy học, cán bộ tuyên truyền và làm báo.
Suốt 60 năm gắn bó với mảnh đất Hà Nội, ông chưa bao giờ xa mảnh đất thân thương này quá một tháng. Ông thuộc tên từng con phố, nhớ vị trí của từng gốc cây, và dường như là cả từng gương mặt con người ông đã từng gặp nữa.
Điều này giải thích vì sao tâm hồn ông luôn ưa thích những gì nhè nhẹ, thoang thoảng. Thơ và tùy bút là hai thể loại rất gần gũi với nhau và cũng thật gần với tâm hồn đa cảm của Băng Sơn.
Trong lịch sử văn học Việt Nam đã có rất nhiều nhà văn ghé chơi "địa hạt" tùy bút và được độc giả mến mộ như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam và sau này là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhưng các nhà văn ấy cũng chỉ là "ghé chơi" cho vui chứ không dành toàn bộ đời văn của mình cho thể loại ấy.
Riêng Băng Sơn thì ngược lại, ông quyết định chỉ theo đuổi một thể loại viết ngắn ấy suốt đời. Vì đó là sở trường của ông: "Tôi không có thế mạnh về xây dựng hình tượng nhân vật nên truyện ngắn, tiểu thuyết tôi không dám "bén mảng" tới. Tôi nghĩ người khôn ngoan hãy biết làm những việc phù hợp nhất với khả năng của mình. Cũng có người bảo tôi, ông viết "lắt nhắt" thế thì có gì để lại cho đời? Nhưng tôi nghĩ một tác phẩm có giá trị không bao giờ phụ thuộc vào đề tài to hay nhỏ".
Vâng, đề tài không phải là yếu tố quyết định giá trị một tác phẩm văn học. Điều cốt yếu nằm ở tài năng của người cầm bút. Bất cứ thể loại văn học nào cũng đòi hỏi ở người viết một vốn sống lớn, một khả năng ngôn ngữ dồi dào. Đọc những tập tùy bút, đoản văn của Băng Sơn, tôi cứ hình dung ông giống như một người bán hàng xén ngày xưa.
Trong các tác phẩm của mình, ông "bày" ra nhiều mặt hàng rất nhỏ nhắn, dân dã mà cũng rất đáng yêu. Không có những câu chuyện đại sự, không có những tâm sự lớn lao được đề cập tới trong tác phẩm của ông, mà đơn giản chỉ là một chiếc lá rơi, một chiếc cầu ao, một bông hoa cuối mùa, và rất nhiều thứ bình thường xung quanh đời sống chúng ta mà thường là chúng ta ít để mắt tới.--PageBreak--
Người viết bài này thiết nghĩ, viết về những thứ cực kỳ bé nhỏ, khuất lấp trong đời sống mà hay, mà được bạn đọc trầm trồ đón nhận, mà "chở" được một sức nặng nào đó, thật không dễ dàng chút nào.
Trước tiên nó cần đến một óc quan sát vừa tỉ mỉ vừa tinh tế, và cả rất nhiều kiên nhẫn nữa. Cùng với đó là những trải nghiệm đời sống dày dặn thì mới mong có thể "phả" vào những trang viết của mình một "thông điệp" hữu ích. Người ta nói mọi vật đều có thần. Và nắm bắt cái thần ấy của sự vật không dễ dàng chút nào.
Nói về "tham vọng" của mình khi viết tùy bút, đoản văn, nhà văn Băng Sơn bộc bạch: "Hồi mới bắt đầu viết tùy bút, tôi có đọc một cuốn sách của một tác giả người Nga, cuốn "Bốn mùa lịch thiên nhiên", và vô cùng xúc động. Chỉ với những đoạn văn ngắn, người viết đã cho ta một bức tranh đẹp đẽ về nước Nga.
Đối với tôi cũng vậy, viết về bất cứ điều gì cũng chỉ nhằm hướng tới một mục đích là ca ngợi vẻ đẹp đất nước mình. Đồng nghiệp khác có thể quan tâm những vấn đề lớn hơn, nhưng tôi thì muốn cúi xuống để ngợi ca những vẻ đẹp tưởng như đã bị chìm khuất.
Tôi muốn mang tới cho độc giả một chút cảm nhận về cái đẹp từ những nơi, những thứ mà họ không ngờ tới. Mà cái đẹp cũng là cái thiện. Nghe một tiếng chim hót trong một buổi trưa, người ta không thể làm ác với con chim. Hay đi bên cạnh một con chó, người ta không đánh con chó. Văn học phải nói cho con người, bất kể anh viết về thứ gì, lớn hay nhỏ".
Thiết nghĩ trong đời sống ồn ào, tốc độ như hôm nay, những trang viết đầy chất thơ của Băng Sơn là một món ăn cần thiết cho con người, là phút giây để họ được chìm lắng trong những xúc cảm nhẹ nhàng, để ngoái lại nhìn đời sống xung quanh với những vẻ đẹp mong manh nhưng kỳ diệu mà có lúc họ đã lãng quên vì sự vội vã.
Tôi nhớ mãi một câu viết của Băng Sơn khi ông viết về con ngõ Tràng An yên ả vô cùng giữa phố xá Hà Nội tấp nập, sôi động: "Ngõ Tràng An đã ghi tên mình vào tịch mịch". Chỉ một câu đó thôi cũng đã đủ để bắt được cái "thần" của một ngõ nhỏ. Và người đọc tưởng đâu như mình đang lắng xuống đôi chút.
Với Hà Nội, Băng Sơn có một món nợ suốt đời. Ông đã viết nhiều cuốn sách về ẩm thực, về thú ăn chơi tao nhã của người dân Hà thành. Mảnh đất này đã chứng kiến mối tình thời son trẻ của ông với một thiếu nữ Hà thành. Ông có thể nói chính xác về những gốc cây me, cây muồng, cây gạo ở Bờ Hồ thay đổi ra sao mỗi ngày.
Ông viết về chuyện ẩm thực của người Hà Nội theo một cách rất riêng. Đọc văn ông thì cứ ngỡ ông là "kẻ sành ăn có tiếng", nhưng sự thực lại không phải như vậy. "Tôi không biết uống rượu, không mấy khi ăn uống ở ngoài đường. Tôi ăn phở thì không ăn thịt. Cái dạ dày của tôi chủ yếu là do bà vợ Mai Phương của tôi "bảo hộ".
Về chuyện ẩm thực, từng có ý kiến cho rằng ông viết hơi bị văn chương, cường điệu quá. Ví dụ tả một con cá chép kho, ông ví khúc giữa của nó giống như một chiếc thoi đang dệt thời gian, những cái vảy cá cong lên như những miếng gỗ gụ.
Thay vì tả món ăn cho người ta muốn ăn thì ông lại làm cho nó đẹp như một tác phẩm và người ta lại muốn để...ngắm. Ông cười xuề xòa, đó là cách cảm nhận của riêng ông.
Nhà văn Băng Sơn còn là một "ông già tương đối cực đoan nữa". Ông luôn luôn giữ cho đời sống của mình thuần Việt nhất. Ông dị ứng với những thứ văn hóa nước ngoài du nhập thời kỳ đổi mới. Ông không ăn đồ Tây.
Trong gia đình, ông dạy các con phải biết sử dụng tiếng Việt hay và giỏi. Ông không đồng ý khi các cháu chào nhau theo kiểu "hê-lô" hay "bai-bai". Thậm chí ông giỏi tiếng Pháp nhưng gặp người Pháp ông cũng không sử dụng tiếng Pháp. Những chuyện lai căng Tây- Tàu rất dễ khiến ông bực mình.
Trong cuộc sống, phương châm của ông là khoan dung. Ai muốn lên phía trước, ông nhường chỗ ngay, không bao giờ tỏ ra khó chịu vì người ta có cái hơn mình. Ông bảo: "Người làm văn học phải luôn giữ cho tâm hồn mình trong sáng thì văn học mới ở lại lâu dài với mình được".
Nhà văn Băng Sơn tuổi đã ngoài 70, nhưng ông vẫn viết không ngừng nghỉ. Căn bệnh Parkinson khiến ông không thể đi xe đạp thong dong trên phố mỗi ngày được nữa. Ông đánh bạn với một bác xe ôm đầu ngõ, và cứ đi đâu thì đã có bạn chở giùm.
Đêm đêm ông lạch xạch với chiếc máy chữ cổ. Và những trang viết cứ dày hơn lên mỗi ngày. Ông bảo: "Văn chương là một món nợ không bao giờ tôi có thể trả hết được. Và tôi sẽ còn phải viết tới khi nào đôi tay rời rã không thể đánh máy được, miệng không thể đọc được nữa... thì tôi mới chịu đầu hàng"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét