Tố Hữu
Tố Hữu | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 7 tháng 2 năm 1980 – 21 tháng 6 năm 1986 6 năm, 134 ngày |
Chủ tịch (Thủ tướng) | Phạm Văn Đồng |
Kế nhiệm | Võ Chí Công |
Vị trí | Việt Nam |
Ủy viên Bộ Chính trị khóa IV, V | |
Nhiệm kỳ | 1980 – 1986 |
Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị khóa IV | |
Nhiệm kỳ | 1976 – 1980 |
Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 1968 – 1982 |
Tiền nhiệm | Trường Chinh |
Kế nhiệm | Bùi Thanh Khiết |
Chủ nhiệm Văn phòng Văn giáo Chính phủ | |
Nhiệm kỳ | 1960 – 1/1963 |
Tiền nhiệm | đầu tiên |
Kế nhiệm | Lê Liêm |
Bí thư Trung ương Đảng khóa II, III, IV | |
Nhiệm kỳ | 1958 – 1980 |
Thông tin chung | |
Sinh | 4 tháng 10, 1920 Thừa Thiên Huế |
Mất | 9 tháng 12, 2002 |
Tố Hữu | |
---|---|
Công việc | Nhà thơ, chính khách |
Ngôn ngữ | Tiếng Việt |
Quốc tịch | Việt Nam |
Dân tộc | Kinh |
Học vấn | Trường Quốc học Huế |
Giai đoạn sáng tác | 1946-1999 |
Thể loại | Thơ cách mạng |
Chủ đề | Cách mạng |
Trào lưu | Phong trào Thơ mới |
Tác phẩm nổi bật | Từ ấy, Việt Bắc |
Giải thưởng nổi bật | Giải thưởng Hồ Chí Minh Huân chương Sao vàng |
Phối ngẫu | Vũ Thị Thanh |
Con cái | (3) Nguyễn Thanh Hoa (con gái cả) Nguyễn Vũ Phương (con trai thứ) Nguyễn Minh Hồng (con gái út) |
Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (4 tháng 10 năm 1920 – 9 tháng 12 năm 2002) quê gốc ở làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời ông còn là một chính khách, một cán bộ cách mạng lão thành. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Phó Thủ tướng thường trực Chính phủ) nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nguồn gốc bút danh Tố Hữu[sửa | sửa mã nguồn]
Theo lời Tố Hữu tự giải thích về bút danh của mình thì năm 1938, ông sang Lào thăm một người anh. Ở đây ông gặp một cụ đồ người Quảng Bình. Cụ đồ đã đặt cho ông bút danh "Tố Hữu" (chữ Hán: 素有), lấy từ câu nói của Đỗ Thị[1] "Ngô nhi tố hữu đại chí" 吾兒素有大志. Tố Hữu 素有 có nghĩa là "sẵn có, ý chỉ khí phách tiềm ẩn trong người". Tố Hữu nhận tên gọi này nhưng hiểu theo nghĩa là "người bạn trong trắng", viết bằng chữ Hán là "素友", khác với tên do cụ đồ đặt ở chữ "hữu".
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Thiếu niên[sửa | sửa mã nguồn]
Tố Hữu tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành. Ông sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, là con út trong gia đình. Đến năm 9 tuổi, ông cùng cha trở về sống tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là một nhà nho nghèo, không đỗ đạt và phải kiếm sống rất chật vật nhưng lại thích thơ, thích sưu tập ca dao tục ngữ. Ông đã dạy Tố Hữu làm thơ cổ. Mẹ ông cũng là con của một nhà nho, thuộc nhiều ca dao dân ca Huế và rất thương con. Cha mẹ đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn thơ Tố Hữu.[1]
Mẹ ông mất vào năm ông lên 12 tuổi. Năm 13 tuổi, ông vào trường Quốc học Huế. Tại đây, được trực tiếp tiếp xúc với tư tưởng của Karl Marx, Friedrich Engels, Vladimir Ilyich Lenin, Maksim Gorky,... và qua sách báo, kết hợp với sự vận động của các đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam bấy giờ (Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu), Nguyễn Kim Thành sớm tiếp cận với lý tưởng cộng sản. Năm 1936, ông gia nhập Đoàn thanh niên Dân chủ Đông Dương.
Hoạt động cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1938, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4/1939, ông bị bắt, bị tra tấn dã man và đày đi nhà lao Thừa Phủ (Huế) rồi chuyển sang nhà tù Lao Bảo (Quảng Trị) và nhiều nhà tù khác ở Tây Nguyên. 3/1942, ông vượt ngục Đắc Glêi (nay thuộc Kon Tum)[2][3] rồi tìm ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với Đảng (về hoạt động bí mật ở huyện Hậu Lộc và thôn Tâm Quy, xã Hà Tân, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa). Đến năm 1945, khi Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, ông được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Thừa Thiên – Huế.
Năm 1946, ông là Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa. Cuối 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên huấn. Từ đó, ông được giao những chức vụ quan trọng trong công tác văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà nước:
- 1948: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam.
- 1952: Giám đốc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thuộc Thủ tướng phủ.
- 1954: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền.
- 1963: Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.
- Tại đại hội Đảng lần II (1951): Ủy viên dự khuyết Trung ương; 1955: Ủy viên chính thức.
- Tại đại hội Đảng lần III (1960): vào Ban Bí thư.
- Tại đại hội Đảng lần IV (1976): Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị, Bí thư Ban chấp hành Trung ương, Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương, Phó Ban Nông nghiệp Trung ương.
- Từ 1980: Ủy viên chính thức Bộ Chính trị.
- 1981: Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, rồi Phó Chủ tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng (nay gọi là Phó Thủ tướng) cho tới 1986. Ngoài ra ông còn là Bí thư Ban chấp hành Trung ương.
Trong thời gian phụ trách mảng văn nghệ, ông là người đã phê phán quyết liệt Phong trào Nhân văn – Giai phẩm (1958)[4]. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ khác như Hiệu trưởng Trường Nguyễn Ái Quốc, Trưởng ban Thống nhất Trung ương, Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương, Trưởng ban Khoa giáo Trung ương. Ông còn là Đại biểu Quốc hội khóa II và VII.
Năm 1969, ông được giao là người sửa cuối cùng bản điếu văn trong tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tố Hữu đã dùng ngòi bút và tâm huyết của mình để giúp cho bản điếu văn hay hơn, đi vào lòng người hơn:
- Bản dự thảo viết: '"Thưa đồng bào, thưa các đồng chí và các bạn". Tố Hữu sửa lại thành: "Thưa đồng bào và chiến sĩ cả nước, thưa các đồng chí và các bạn".
- Bản dự thảo viết: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất lớn lao này không gì bù đắp được". Tố Hữu sửa lại thành: "Hồ Chủ tịch kính yêu của chúng ta không còn nữa! Tổn thất này vô cùng lớn lao, đau thương này thật là vô hạn".
- Bản dự thảo viết: "Phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết". Tố Hữu sửa lại thành: "Phong trào cộng sản quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc, một người bạn chiến đấu kiên cường và thân thiết".
- Bản dự thảo viết: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sản sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta". Tố Hữu bỏ chữ "sản", trở thành: "Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng vĩ đại, và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta".
Sau năm 1986, Việt Nam tiến hành Đổi mới nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế toàn diện. Ông bị mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ những năm 1980 nên bị miễn nhiệm các chức vụ về quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội và các chức danh lãnh đạo về văn học nghệ thuật.
Năm 1996, ông được Nhà nước phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật ngay trong đợt xét tặng đầu tiên (1996).
Ông qua đời lúc 9 giờ 15 phút 7 giây, ngày 9 tháng 12 năm 2002 tại Bệnh viện 108.
Đóng góp văn học[sửa | sửa mã nguồn]
Ở Tố Hữu có sự thống nhất đẹp đẽ giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ, giữa lý tưởng trong trái tim và những câu thơ trên đầu bút. Chặng đường thơ của Tố Hữu là chặng đường lịch sử của cả một dân tộc. Ông được coi là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, được tôn vinh là "nhà thơ của cách mạng", "nhà thơ của nhân dân", "ngọn cờ chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam", "người có công đầu xây dựng nền thơ ca cách mạng Việt Nam", "một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ thuật - Tình yêu", "nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng".[5]
Trong 2 cuộc kháng chiến, Tố Hữu đã sáng tác rất nhiều bài thơ để cổ vũ tinh thần cho chiến sỹ và nhân dân, gắn liền với suốt chiều dài lịch sử kháng chiến. Nổi tiếng nhất là những bài thơ như Việt Bắc, Lượm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Từ Cu-ba,...
Thơ Tố Hữu thanh đạm, dịu ngọt, thấm sâu vào tâm hồn mọi thế hệ, từ người "đã ngã xuống cánh rừng trai trẻ" hay "người đến với thơ ông suốt thời thơ ấu" (nhận xét của Nguyễn Khoa Điềm), được lưu giữ và phát huy như một sức mạnh tinh thần, một giá trị văn hóa tiềm ẩn trong con người thời đại Hồ Chí Minh.[6]
Các tác phẩm chính[sửa | sửa mã nguồn]
- Từ ấy (1937 – 1946), 72 bài thơ
- Việt Bắc (1947 – 1954), 26 bài thơ
- Gió lộng (1955 – 1961), 25 bài thơ
- Ra trận (1962 – 1971), 35 bài thơ
- Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
- Máu và Hoa (1972 – 1977), 13 bài thơ
- Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
- Một tiếng đờn (1978 – 1992), 74 bài thơ
- Ta với ta (1992 – 1999)
- Nhớ lại một thời (hồi ký, 2000)
- Một khúc ca xuân (thơ, 1977)
Bài thơ tiêu biểu của ông[sửa | sửa mã nguồn]
Phong tặng và Giải thưởng văn học[sửa | sửa mã nguồn]
- Giải nhất Giải thưởng Văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955 (tập thơ Việt Bắc)
- Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật (đợt 1, 1996)
- Huân chương Sao Vàng (1994)
- Nhiều giải thưởng, danh hiệu khác...
Sự kiện rắc rối sau khi ông mất[sửa | sửa mã nguồn]
Ông qua đời năm 2002 vì bệnh nặng. Bài phỏng vấn Tố Hữu với tựa đề: "Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng" của Nhật Hoa Khanh được công bố sau khi ông mất đã gặp phải sự phản đối từ gia đình ông. Vào tháng 4 năm 2004, tài liệu này bắt đầu được phổ biến trong giới văn nghệ, báo chí tại Việt Nam. Vào tháng 5 năm 2004, báo Quân đội nhân dân trích đăng 3 kì từ tài liệu này với nhan đề "Tố Hữu" và "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên" (kì số 3 vào ngày 7/5/2004). Ngoài ra bài này cũng được đăng thành nhiều phần nhỏ trong các báo khác như Nhân dân, Tiền Phong Chủ Nhật, Người Hà Nội... Nội dung bài phỏng vấn có nhắc tới các sự kiện văn hóa trước đây như Nhân văn-Giai phẩm, phong trào sáng tác thơ văn cách mạng, ông Tố Hữu có những lời ca ngợi các người này.
Bài phỏng vấn thực hiện năm 1997, nhưng đến khi phổ biến thì bị bà Vũ Thị Thanh, vợ của Tố Hữu, phủ nhận và cho đó là những tài liệu giả mạo "pha chế nhiều ý kiến riêng, mượn danh Tố Hữu, biến Tố Hữu thành người phát ngôn cho ý mình". Bà yêu cầu cơ quan chức năng vào cuộc để điều tra làm rõ sự giả mạo của tài liệu này, nhưng ông Nhật Hoa Khanh nói có đầy đủ băng ghi âm ghi lại cuộc nói chuyện của ông với Tố Hữu. Bài phỏng vấn là thực hay giả chưa rõ, nhưng thực tế nó đã được các tờ báo chính thống ở Việt Nam phổ biến. Sau đó sự kiện này không được các cơ quan báo chí, văn nghệ nhắc tới nữa[8].
Bị xuyên tạc thơ[sửa | sửa mã nguồn]
Trên mạng internet sau này, một số nhân vật có tư tưởng chống Cộng, chống Nhà nước Việt Nam đã lan truyền những câu thơ mà họ nói là của Tố Hữu: "Lửa trường kỳ kháng chiến! / Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ / Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong / Cho đảng bền lâu / Thờ Mao chủ Tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt". Dựa vào những câu thơ này, họ tuyên bố rằng Tố Hữu là người độc ác, nhẫn tâm.
Thực ra, bài thơ "Bài ca tháng 10" sáng tác năm 1950 của Tố Hữu không hề có những câu thơ như vậy, bài thơ này kết thúc như sau: "Hoan hô Hồ Chí Minh / Cây hải đăng mặt biển / Bão táp chẳng rung rinh / Lửa trường kỳ kháng chiến!", toàn bộ những câu thơ sau dòng "Lửa trường kỳ kháng chiến" đều là xuyên tạc nhằm bôi nhọ Tố Hữu. Nhà phê bình văn học Lại Nguyên Ân cũng nói rằng ông chưa từng gặp những câu thơ này trong các tập thơ Tố Hữu đã đọc[9]
Đấu tranh chống Nhân văn – Giai phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Tố Hữu, khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người kiên quyết phản đối và tham gia dập tắt Nhân văn – Giai Phẩm, một phong trào mà ông cho là đã lợi dụng phê bình văn nghệ để tuyên truyền chống phá về chính trị, chống lại sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trong cuốn Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau: "Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ"
Báo cáo tổng kết vụ "Nhân Văn – Giai Phẩm" cũng do Tố Hữu viết có kết luận về phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm như sau: Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo, phản đối văn nghệ phục vụ chính trị nhưng thực ra là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân, muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động, đả kích nền văn nghệ kháng chiến, đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.
Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng, trong nhật ký của mình, sau khi nhắc tới tên một số người trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm cũng đã cho hay: "Bọn họ có người nói: Đừng viết nữa, để dành cho trẻ viết. Vô luận một bài, một sáng tác nào của anh em mà họ gọi là "cây đa cây đề", họ đều gạt đi, cho là tồi. Trong khi đó thì họ tâng bốc những bài của họ mà phần lớn là không ngửi được!" (trích nhật ký ngày 23 tháng 1 năm 1956).
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
- Phu nhân là Vũ Thị Thanh, nguyên Phó Trưởng ban Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương). Mối tình của hai người được họ tự khen ngợi là một mối tình đẹp và bà Thanh đã viết hồi ký về Tố Hữu mang tên Ký ức người ở lại.[10] Bà qua đời năm 2012.
- Vợ chồng Tố Hữu có ba người con, hai gái và một trai.[cần dẫn nguồn]
Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]
- Hiện nay, tên của ông được đặt tên cho một tuyến đường ở thủ đô Hà Nội, nối từ ngã tư Khuất Duy Tiến - Lê Văn Lương đến ngã tư Vạn Phúc - Đại Mỗ - Thanh Bình. Tại thành phố Đồng Hới, Quảng Bình, đường Tố Hữu là một con đường chính nối ngã tư chợ Ga Nam Lý đến đường Hữu Nghị đi qua bến xe Nam Lý. Ở Huế cũng có một con đường mang tên ông. Còn có một ngôi trường mang tên Tố Hữu ở huyện Quảng Điền (nơi ông sinh ra).[cần dẫn nguồn]
- Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Thực ra câu "Ngô nhi tố hữu đại chí" 吾兒素有大志 không phải là của Khổng Tử mà là lời của Đỗ thị (杜氏) nói về con trai của mình là Triệu Khuông Dận (趙匡胤) (陳邦瞻,宋史紀事本末,卷十 金匱之盟 Lưu trữ 2020-09-20 tại Wayback Machine。[2013年8月14日]。). Nguyên văn như sau:
- Hán văn:
- 吾兒素有大志,今果然矣。
- Phiên âm Hán Việt:
- Ngô nhi tố hữu đại chí, kim quả nhiên hĩ.
- Dịch nghĩa:
- Con ta sẵn có chí lớn, nay quả nhiên như vậy.
- Hán văn:
- ^ Lê Quang Hồi (12 tháng 9 năm 2008). “A Nhic đưa Tố Hữu vượt ngục Đắc Glei”. Quân đội Nhân dân. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2019. Truy cập 29 tháng 1 năm 2021.
- ^ Liễu Hạnh; Hoài Tiến (22 tháng 2 năm 2016). “Đầu xuân, đến thăm Ngục Đăk Glei”. Báo Kon Tum. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2018.
- ^ Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại "Nhân Văn - Giai Phẩm" trên mặt trận văn nghệ, Nhà xuất bản Văn Hoá, 1958
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênnhandan
- ^ Lỗi chú thích: Thẻ
<ref>
sai; không có nội dung trong thẻ ref có tênnhandan.com.vn
- ^ “Thơ của Tố Hữu về Joseph Stalin”. BBC tiếng Việt. 31 tháng 10 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2012.
- ^ “Mượn danh nhà thơ Tố Hữu truyền bá quan điểm riêng”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. 29 tháng 11 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2021.
- ^ http://lainguyenan.free.fr/TungDoanDuongVan/ToHuu.html
- ^ Tâm Linh (18 tháng 10 năm 2010). “Bà Vũ Thị Thanh viết hồi ký về Tố Hữu - Mối tình đẹp trong đời và cả trong thơ”. Báo Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2017. Truy cập 29 tháng 1 năm 2021.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Sinh năm 1920
- Mất năm 2002
- Tố Hữu
- Nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc
- Nhà thơ Việt Nam thời kỳ 1945–1975
- Nhà cách mạng Việt Nam
- Người Thừa Thiên Huế
- Học sinh Quốc học Huế
- Phó Thủ tướng Việt Nam
- Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Ủy viên Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa II
- Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VII
- Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa
- Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
- Huân chương Sao Vàng
- Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Việt Nam
- Nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20
- Người họ Nguyễn tại Việt Nam
- Nhà thơ Việt Nam thế kỷ 21
- Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét