10. MỤC SƯ PHAN VĂN TRANH
Nếu đặc điểm của Cụ Mục sư Trần Xuân Hỉ để nhận ra Cụ qua vóc dáng là mái tóc bạc trắng rất đẹp, thì đặc điểm nhận ra Cụ Mục sư Phan văn Tranh là mái đầu hói tóc, vầng trán đã cao càng cao thêm.
Mục sư Phan văn Tranh xuất thân từ Trà-ôn, một vùng quê kề cận sông Hậu, nhưng là nơi Tin Lành in dấu sớm ở miền Nam. Dáng người của Mục sư nhìn vào tự nhiên người đối diện sẽ cảm nhận vẻ nhàn nhã, ngay cả cách nói chuyện khoan hòa, cử chỉ không thấy có lúc nào phải vội vã. Chính những nét đặc sắc nầy thể hiện qua chức vụ lãnh đạo và giảng dạy của Mục sư Phan văn Tranh.
Một lần tôi đến Văn phòng Địa Hạt Đông Nam Bộ có việc cần của Hội thánh, đang lúc có một Truyền đạo ngồi bên cạnh chiếc bàn làm việc của Mục sư Tranh trình bày một việc gì đó với vẻ không vui, nói hơi lớn tiếng. Mục sư Phan văn Tranh là Chủ Nhiệm Địa Hạt. Có thể nói Địa Hạt Miền Đông Nam Bộ là Địa Hạt lớn nhất trong 7 Hạt của Hội thánh Tin Lành Việt Nam trước năm 1975:
1. Địa Hạt Trung Trung Bộ là từ Quảng Trị xuống đến Quyi Nhơn.
2. Địa Hạt Nam Trung Bộ là từ Phú Yên vào đến Bình Tuy (Bình Thuận ngày nay).
3. Địa Hạt Đông Nam Bộ là từ Biên Hòa đến Long An.
4. Địa Hạt Trung Nam Bộ còn gọi là Địa Hạt Tiền Giang từ Mỹ Tho đến Vĩnh Long.
5. Địa Hạt Tây Nam Bộ còn gọi là Địa Hạt Hậu Giang từ Cần Thơ xuống đến Cà-mau.
6. Nam Thượng Hạt với Đà-lạt làm Trung Tâm dành cho các Hội thánh người Dân tộc nói và hiểu được tiếng Kơ Ho.
7. Trung Thượng Hạt với Ban-Mê-Thuộc là Trung Tâm dành cho các Hội thánh người Dân tộc nói và hiểu tiếng Ra-đê.
Sở dĩ tôi nói Địa Hạt Đông Nam Bộ được xem là Hạt lớn nhất vì Sài gòn nằm trong Hạt nầy, có nhiều Mục sư Truyền đạo và đa số các Hội thánh có nền tài chánh mạnh. Thêm nữa, Mục sư Phan văn Tranh là một trong những Vị Mục sư được Hội thánh chung dành cho sự kính trọng cao.
Tôi ghi lại một trường hợp để thấy uy tín của Mục sư Phan văn Tranh giữa Hội thánh chung. Hội Đồng Tổng Liên Hội họp tại nhà thờ Thánh Kinh Thần Học Viện, trong giờ xét sổ trước giờ Bầu cử Ban Trị Tổng Liên Hội, hai Soát sổ viên của Hội Đồng sau khi trình bày sổ sách, đã chất vấn một vị Mục sư lãnh đạo một Hạt việc tài chánh không minh bạch, dù số tiền thất thoát không nhiều lắm. Trong lúc bầu không khí chất vấn căng thẳng vì hai Soát sổ viên từng nổi tiếng xưa rày là khó tánh, còn người bị chất vấn thì có vẻ lúng túng, Hội Đồng biết người bị chất vấn lúng túng không phải vì thâm lạm mà vì làm sai nguyên tắc khiến gây hiểu lầm, ngay khi đó, Mục sư Phan văn Tranh đã đứng lên nói vài lời đề nghị cách giải quyết cho Hội Đồng. Cảm ơn Chúa, với tiếng nói ngắn gọn của Mục sư Tranh, hai Soát sổ viên dù khó tánh cũng đồng ý và người bị chất vấn cũng thấy được lỗi của chính mình để hứa chấn chỉnh.
Lý do tôi dài dòng nói đến các Địa Hạt và sự kính trọng của Hội thánh chung dành cho Mục sư Phan văn Tranh là vì đang lúc ngồi đợi, tôi để ý thấy vẻ mặt của Mục sư Tranh không có gì thay đổi, vẫn khoan hòa, nụ cười nhẹ nhàng vốn có xưa nay vẫn nở, dù Mục sư Chủ Nhiệm đang nghe những lời không vui của một Truyền đạo người và chức vụ vẫn còn quá trẻ. Tôi chỉ nghe tiếng của Mục sư Tranh lúc thì ậm ừ, lúc thì hỏi lại vài lời, còn lại đều lắng nghe. Sau cùng, khi Thầy Truyền đạo nói xong, Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh nhìn Thầy và nhẹ nhàng nói:”Thầy nhờ ơn Chúa bỏ qua đi”, tiếp theo là những lời cầu nguyện ngắn. Thầy Truyền đạo bước ra, Mục sư Tranh lại tiếp tôi, Cụ Mục sư hoàn toàn không nhắc tiếng nào về chuyện vừa rồi, và tôi cũng không nghe Thầy Truyền đạo đó bị trù dập hoặc gặp rắc rối nào từ lãnh đạo.
Bây giờ đến cách giảng dạy của Mục sư Phan văn Tranh. Với quan niệm Đông phương, người nghe muốn tìm một Người Giảng Đạo phải ở thế tĩnh, đạo mạo, trầm tư theo Đạo Gia Lão Trang, thì đó là Mục sư Phan văn Tranh. Qua Cụ Mục sư Tranh, người nghe sẽ nhìn thấy một Diễn giả với:
· Dáng đứng thẳng, không hò hét, không đập bàn, không chạy qua chạy lại, hoàn toàn đứng yên một chỗ.
· Mặt luôn hướng về phía trước, chỉ thỉnh thoảng xoay qua lại nhẹ.
· Tay trái cầm quyển Kinh thánh khép lại cặp sát người – cá nhân tôi chưa từng thấy Mục sư Tranh mở ra lúc giảng.
· Giọng nói như đang nói chuyện tâm tình với một vài cá nhân hơn là giảng cho một hội chúng đông người.
· Âm lượng cũng không lớn lắm, chỉ vừa cho một phòng nhóm hơn là một nhà thờ lớn.
Tuy nhiên, đặc điểm là Mục sư Tranh dùng từ ngữ rất thân mật, hiền hòa. Mục sư Trần Xuân Hỉ thì dùng từ “các bạn”, còn Mục sư Phan văn Tranh thì dùng từ “chúng mình”. Nhưng đừng nghỉ rằng dễ ngủ khi nghe Mục sư Tranh giảng, ngoài việc được ơn Chúa, người nghe còn tìm thấy sự thân mật ngọt ngào của một người thân, nói như Phaolô là một người Vú Nuôi hơn là một người vị Sư quở trách; sự nhẹ nhàng an ủi của một Điều Dưỡng viên chuyên môn hơn là một Bác sĩ. Nét mặt Mục sư Tranh khi giảng luôn biểu lộ niềm vui, cảm thông. Có lẽ do từ ngữ quá gần gũi, nghe giọng nói ngọt ngào không quở trách, nên người nghe khó ngủ khi Mục sư Tranh giảng.
Dù dáng vẻ và tư cách hiền hòa, nhưng Mục sư Tranh có những ý tưởng thâm trầm khi lãnh đạo.
(1) Câu nói của Mục sư Tranh làm tôi nhớ mãi đến giờ mỗi lần cầm một phong bì thư lên: “Muốn làm người phải học dán tem”, Cụ Mục sư nói phải tập dán tem bên góc phải để Bưu điện đóng dấu. Thật là chí lý trong một việc làm tưởng rằng quá nhỏ.
(2) Có một vị ngang hàng tuổi tác với Mục sư Tranh đã phàn nàn với Mục sư Tranh việc con trai của vị nầy ra Trường không được bổ nhiệm phục vụ ở Sài gòn, dù vị đó đã vận động nhiều cách. Sau khi phàn nàn, trách móc do vị nầy cho rằng Mục sư Tranh đã không giúp đỡ, vị nầy nói: “Tôi biết trong mắt của Anh (Mục sư Tranh) không bao giờ có tôi”. Thật bất ngờ, Mục sư Tranh trả lời ngay: “Đúng rồi, trong mắt tôi làm sao có Anh. Trong mắt tôi chỉ có Nhà Tôi thôi”.
(3) Sau năm 1975, một người tên Nguyễn Thành Long dựa vào sự thân quen với một người bà con bên vợ giữ chức vụ cao cấp trong Chánh quyền mới, đã xướng lên việc lập Tin Lành Thống Nhất, lấy thế lực đời nầy muốn ép các hệ phái Tin Lành nhập lại và điều quan trọng là y sẽ đứng đầu tổ chức nầy. Đã có những hệ phái Tin Lành rải rác đó đây ủng hộ. Nhân một dịp, Hội thánh tại Túc trưng chúng tôi mời Cụ Mục sư Tranh từ Sàigòn lên giảng bồi linh cho Hội thánh, lúc đang đứng nơi cửa nhà thờ, tôi hỏi Cụ Mục sư về việc ông Nguyễn Thành Long đòi sáp nhập các hệ phái Tin Lành? Cụ Mục sư Tranh cười nói: “Nhập chớ. Nhưng họ nhập với mình, chứ mình làm sao nhập với họ?”. Thật bản lãnh khi đối đầu thế lực đời nầy trong tay những Giu-đa! Không dễ đâu bạn, nhất là thời kỳ đó, mắt tôi đã thấy có nhà thờ treo bảng Tin Lành Thống Nhất và dành nơi làm Văn Phòng cho Nguyễn Thành Long.
Cụ Mục sư Phan văn Tranh là một người lãnh đạo theo tình của người cha, không phải một người cầm quyền. Cá nhân tôi trải nghiệm cái tình đó.
Năm 1972, tôi rời Bến Cát về Sàigòn chờ bổ nhiệm, khi đến Văn Phòng Địa Hạt gặp Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh. Mục sư Tranh nói: “Vì sức khỏe của Thầy, tôi muốn Thầy ở lại Sàigòn, không cho Thầy đi xa nữa” Vì lúc đó tôi ốm yếu lắm, nghe mà ấm lòng làm sao, thì ra Lãnh đạo vẫn quan tâm sức khỏe của mình.
Ngày 22 tháng 6 năm 1972, tôi được Địa Hạt bổ nhiệm đến Túc trưng lo công việc Chúa. Tôi chưa biết Túc trưng là ở đâu và cũng chưa biết sẽ đến đó bằng cách nào. Buổi sáng, tôi ra Văn Phòng xin ý kiến Mục sư Chủ Nhiệm Phan văn Tranh. Cụ Mục sư bảo tôi đến nhà thờ Sàigòn nói với một vị mục sư hiện có xe hơi của Giáo hội, nói là Cụ Mục sư Tranh nhờ giúp chở giúp đồ đạc của tôi đến Túc trưng. Vị mục sư đó vô cùng ngạc nhiên và nói: “Cái nầy lạ à nghen, xưa nay Địa Hạt đâu có giúp ai chở đồ đến nhiệm sở. Thầy nói lại với Mục sư Tranh Chủ Nhiệm là tôi bận không giúp được”.
Khi nghe tôi trình lại, Cụ Mục sư Tranh lắc đầu buồn, nghĩ một chút, Cụ nói: "Thầy ra bến xe Pétrus Ký, thuê một xe chở, hỏi bao nhiêu tiền, TÔI TRẢ!” Nhờ đó Chúa cho tôi đến Túc trưng hầu việc Chúa 9 năm.
Một điều không hiểu được là vào cuối đời của Cụ Mục sư Phan văn Tranh, đồng lúc với tình trạng của Cụ Mục sư Hội Trưởng Ông văn Huyên bị mù sau nhiều lần giải phẫu cũng không khỏi; còn Cụ Mục sư Phó Hội Trưởng Đoàn văn Miêng lại bị lãng tai hầu như không còn nghe được; thì Cụ Mục sư Phan văn Tranh bị lãng trí không nhớ gì cả
. Câu hỏi được trình lên cho Đức Chúa Trời và Chúa Jêsus Christ là Chủ của Hội thánh Chúa tại Việt Nam:
Tại sao Những Người Đi Trước Tôi được Chúa cho kết thúc thế hệ của họ bằng ba cái khóa khó hiểu như vậy: Không Thấy – Không Nghe – Không Biết? Kết thúc một Thế Hệ công việc Đức Chúa Trời trên Đất Nước Việt Nam trong tình thế mới mẻ quá, không ai trả lời cho tôi. Tôi đành mượn lời của Phaolô nói: "Ngày nay tôi biết chưa hết; đến bấy giờ tôi sẽ biết như Chúa đã biết tôi vậy” (I Côr. 13:12).
mục sư TRẦN THÁI SƠN
( còn tiếp)
===========
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét