" cuộc đời & sự nghiệp của Phạm Duy [ i.e. Phạm Duy Cẩn 1921- 2013 ] -- nguồn: Nhạc Xưa Blog
Cuộc đời và sự nghiệp của Phạm Duy
(1921-2013)
NHẠC XƯA biên soạn
Nhạc sĩ lớn nhất của Tân nhạc Việt Nam 2020/01/27 in Bàn Tròn Âm Nhạc Phạm Duy là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam. Ông được coi như nhạc sĩ lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam với lượng sáng tác đồ sộ cũng như đa dạng về thể loại, trong đó có rất nhiều ca khúc trở nên kinh điển và quen thuộc với người Việt. Có thể nói nếu như thế hệ nhạc sĩ thập niên 1930 có công khai phá ra thể loại tân nhạc, thì nhạc sĩ Phạm Duy là người có công lớn nhất trong việc xây dựng và định hình cho tân nhạc Việt Nam thời kỳ thập niên 1940 trở về sau, đặc biệt là trong thể loại tình ca, viết về tình yêu con người, tình yêu quê hương và đất nước. Nhạc của ông thường sử dụng những yếu tố nền tảng của âm nhạc cổ truyền Việt Nam kết hợp với những kỹ thuật, cấu trúc của nhạc hàn lâm Tây phương, tạo nên một phong cách riêng với nhiều tác phẩm lớn có tính đột phá, giàu ảnh hưởng đối với các nhạc sĩ thuộc nhiều thế hệ. Ông cũng là người khởi xướng, định hướng nhiều trào lưu, phong cách mới mẻ cho nền tân nhạc Việt. Nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác kể từ thời kỳ tiền ᴄhιến thập niên 1940, với những ca khúc đầu tiên của sự nghiệp là Cô Hái Mơ, Cây Đàn Bỏ Quên, Khối Tình Trương Chi…
Đó là thời kỳ mà ông có cơ hội đặc biệt để đi dọc theo chiều dài đất nước khi tham gia vào gánh hát Đức Huy, đi hát rong khắp mọi miền, có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhiều lối sống văn hóa, là dịp hiếm có để nhạc sĩ Phạm Duy học hỏi, thu thập được rất nhiều chất liệu âm nhạc làm giàu tri thức và làm vốn liếng để sau này có thể trở thành nhạc sĩ thành công nhất của Việt Nam. Cuối thập niên 1940, thời điểm tham gia khán ᴄhιến, ông đã viết nhiều bài cổ vũ tinh thần yêu nước và hăng say lao động, tiêu biểu là Nương Chiều, Nhớ Người Ra Đi, Nhớ Người Thương Binh, Gánh Lúa, Quê Nghèo, Bà Mẹ Gio Linh…
Sau khi rời bỏ kháng ᴄhιến để về thành vì bất đồng quan điểm về sáng tác nghệ thuật, từ đầu thập niên 1950 nhạc sĩ Phạm Duy bắt đầu sáng tác mạnh mẽ, đặc biệt là khi vào đến Sài Gòn năm 1952, tiêu biểu nhất của thời kỳ này là Tình Ca, Tình Hoài Hương, Bà Mẹ Quê, Em Bé Quê, Vợ Chồng Quê, Thuyền Viễn Xứ, Ngày Trở Về, Người Về…
Có thể thấy thời kỳ này chủ đề tình yêu chưa xuất hiện nhiều trong nhạc Phạm Duy, và vẫn chủ yếu là những ca ngợi con người, ca ngợi quê hương. Đây cũng là thời gian mà nhạc sĩ Phạm Duy sang Pháp du học, nghiên cứu sâu hơn về âm nhạc thé giới, ông sang Paris trong hơn 3 năm (1952-1955)
. Sau khi trở về nước, dòng nhạc của Phạm Duy có phần khác biệt hơn, ngoài việc tiếp tục sáng tác những bài nhạc mượn chất liệu dân gian, ông sáng tác thêm dòng nhạc về tình yêu đôi lứa, về thân phận con người, với nhạc điệu hiện đại hơn, mang nhiều cung bậc cảm xúc hơn: Nước Mắt Rơi, Đường Chiều Lá Rụng, Một Bàn Tay…
Thời kỳ này, dù đã có vợ con, gia đình đầm ấm, nhưng với một người đào hoa như nhạc sĩ Phạm Duy, ông đã có nhiều cuộc phiêu lưu ái tình mà chính ông đã kể lại trong hồi ký cuộc đời mình. Cuộc phiêu lưu ái tình dài nhất trong số đó (kéo dài tròn 10 năm) đã trở nguồn cảm hứng cho nhiều bài hát được ra đời, và đều là những bài tình ca quyến luyến yêu thương: Thương Tình Ca, Tìm Nhau, Cho Nhau, Con Đường Tình Ta Đi, Đừng Xa Nhau, Cỏ Hồng… Khi cuộc tình đó chấm dứt, thì lại có một loạt bài tình ca nữa ra đời, lần này là tình ca buồn chia xa: Nghìn Trùng Xa Cách, Chỉ Chừng Đó Thôi, Nha Trang Ngày Về
… Quãng thời gian thập niên 1960 và nửa đầu thập niên 1970 là thời kỳ sáng tác sung mãn nhất của nhạc sĩ Phạm Duy mà trong lịch sử âm nhạc Việt Nam khó có ai sánh bằng. Nếu nói ông là số 1, thì người ở số 2 phải ở một khoảng cách khá xa, bởi vì không chỉ sáng tác nhiều, có rất nhiều bài hát được yêu thích và trở thành bất hủ, mà Phạm Duy còn sáng tác rất đa dạng thể loại, hầu như không có chủ đề nhạc nào mà không có dấu chân mang tính khai phá của ông.
Danh ca Thái Thanh đã gần như dành cả cuộc đời và sự nghiệp của mình để gắn bó với nhạc Phạm Duy, click để nghe Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy thu âm trước 1975 Ngoài nhạc quê hương, tình tự dân tộc và nhạc tình ca đã nhắc đến, nhạc sĩ Phạm Duy còn sáng tác nhạc thiếu nhi, nhạc trẻ, nhạc trường ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca… Về thể loại nhạc vàng đại chúng, ông cũng góp mặt với các bài nổi tiếng là Ngày Em Hai Mươi Tuổi, Anh Hỡi Anh Cứ Về…
Nhạc sĩ Phạm Duy cũng là một trong những nhạc sĩ phổ thơ nhiều nhất, nổi tiếng nhất, điển hình là phổ thơ Cung Trầm Tưởng, Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Hoài Trinh. Nhờ nhạc Phạm Duy mà công chúng yêu nhạc biết đến những nhà thơ Phạm Văn Bình, Vũ Hữu Định…
Ngoài ra, Phạm Duy cũng là một trong những người đầu tiên viết lời Việt cho nhạc ngoại, từ thời kỳ thập niên 1940 ông đã viết lời cho nhạc cổ điển, đến thập niên 1960-1970 thì viết lời cho nhiều bài nhạc Mỹ đương đại.
Thời kỳ sau năm 1975, nhạc sĩ Phạm Duy vẫn tiếp tục sáng tác tại hải ngoại. Tuy nhiên đó là thời gian lưu vong, ông phải bận nhiều công việc để mưu sinh nuôi gia đình trong thời gian đầu (chủ yếu là ca hát lưu diễn), không còn thảnh thơi như trước nên số lượng tác phẩm thời gian sau này không còn nhiều. Ngoài sáng tác và biểu diễn, nhạc sĩ Phạm Duy còn có những công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị.
Ông từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại Trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Ông còn được coi như một nhà văn với 4 tập hồi ký về cuộc đời viết vào đầu thập niên 1990 được giới phê bình đánh giá cao về giá trị văn học lẫn giá trị tư liệu.
Với hơn 70 năm sự nghiệp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước, ông được coi là “cây đại thụ” của nền âm nhạc Việt Nam. Tuy vậy bên cạnh đó, các quan điểm nhìn nhận về ông cũng khác biệt, chủ yếu là do các vấn đề chính trị. Sau đây là những cột mốc đáng nhớ trong cuộc đời nhạc sĩ Phạm Duy:
Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 tại số 40 Rue Takou (nay là Phố Hàng Cót), Hà Nội, trong gia đình văn nghiệp. Cha ông là Phạm Duy Tốn thường được coi như là nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới đầu thế kỷ XX. Anh của ông là Phạm Duy Khiêm, giáo sư – thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine
. Lúc nhỏ, ông là cậu bé hiếu động, tính tình “văng mạng, bất cần đời”, tuy vậy lại thích diễn kịch, làm trò, và mê nhạc. Ông biết dùng guitar, mandolin để chơi nhạc Tây Âu, bên cạnh đó còn tiếp thu các nhạc điệu dân ca miền Bắc, hay những bài ca Huế như Nam Ai, Nam Bình, Tứ Đại Cảnh…
Ngoài nền văn hóa mang tính nhân bản của Pháp, ông còn được tiếp xúc với văn hóa cổ truyền, qua các tác phẩm của cha Phạm Duy Tốn, hay cuốn “Tục ngữ phong dao” của người anh họ Nguyễn Văn Ngọc. Nhạc sĩ Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học Tiểu học tại trường Hàng Vôi.
Tính ông nghịch ngợm, học không giỏi, thường hay bị phạt. Đến năm 13 tuổi (1934), vào được lớp nhất, ông mới học giỏi dần, trở thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp. Năm 1936, ông vào học trường Thăng Long, một trường trọng điểm của thời kỳ kháng ᴄhιến. Thầy dạy ông có các nhân vật nổi tiếng như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Tuyên, Phan Anh, Khuất Duy Tiến. Trong những người bạn cùng lớp, có người sau này trở thành nhà thơ như Quang Dũng.
Một năm học trung học giúp ông hấp thụ thêm những cái hay cái đẹp của nền văn chương Pháp, của Victor Hugo, André Chenier, Alfred de Vigny, Bernadin de Saint Pierrre… Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông theo học dự thính hội họa tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, học thầy Tô Ngọc Vân, cùng lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng,
… Tuy nhiên, ông sớm nhận ra mình không có niềm đam mê thật sự đối với hội họa. Thời gian sau đó, nhạc sĩ Phạm Duy đã qua nhiều công việc khác như phụ gánh xiếc, thợ sửa radio, coi sóc trang trại… tại nhiều tỉnh thành, nhưng đều bỏ nghề và dời chỗ ở sau một thời gian ngắn. Tuy rằng không có nghề nào lâu dài, nhưng việc sống ở nhiều nơi, trải qua nhiều hoàn cảnh sống khác nhau cũng là những chất liệu quan trọng giúp ích cho sự nghiệp âm nhạc sau này
. Cùng với giai đoạn lang thang vô định này, ông cũng dần nhận ra niềm đam mê âm nhạc của mình. Phạm Duy tự mày mò học nhạc cổ điển, rồi tập sáng tác. Trong cuộc đời của mình, ông chưa từng học chính quy một trường lớp âm nhạc nào.
Năm 1941, Phạm Duy thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Thời kỳ hát rong, ông được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông,… và nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết trong đời sống lẫn trong âm nhạc
. Năm 1942, ông khởi nghiệp sáng tác nhạc với tác phẩm hoàn chỉnh đầu tay là Cô Hái Mơ phổ từ thơ Nguyễn Bính, trong thời kỳ phong trào Tân nhạc bắt đầu nở rộ. Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, ông cùng hai kép trong gánh hát Đức Huy bị bắt vào tù khi đang lưu diễn ở Cà Mau. Cũng năm này, ông theo kháng ᴄhιến, trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó. Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng tại ᴄhιến khu Việt Bắc, người chủ trì của hôn lễ này là tướng Nguyễn Sơn. Vợ chồng nhạc sĩ Phạm Duy – Thái Hằng.
Năm 1951, ông bỏ về Hà Nội. Sau khi sinh con đầu lòng Duy Quang, Phạm Duy đưa gia đình di cư vào Nam, sinh sống tại Sài Gòn. Cuối năm 1951, bị một số nhạc sĩ ghen tị tố cáo là có quan hệ với Việt Minh, ông cùng với Lê Thương và Trần Văn Trạch bị bắt giam ở khám Catinat, Sài Gòn trong 120 ngày.
Năm 1953, ông qua Pháp học dự thính hai năm về âm nhạc, tại đây, ông chơi thân với Trần Văn Khê, người sau này trở thành giáo sư dân nhạc nổi tiếng. Hai năm sau, ông về Việt Nam thì đất nước đã chia cắt sau hiệp định Genève. Từ đó, ông ở miền Nam tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long cùng với Thái Thanh, Hoài Nam, Hoài Bắc, Hoài Trung tại phòng trà Đêm màu hồng.
Thời gian này ông cũng có những hoạt động trong ngành sân khấu và thông tin đại chúng, như viết nhạc kịch, viết nhạc cho phim và cộng tác với đài Phát thanh. Năm 1956, nhạc sĩ Phạm Duy bị vướng vào một vụ bê bối gây xôn xao khắp Sài Gòn. Năm 1958, ông đi vào mối tình đặc biệt với Alice, con gái của Helen – tình nhân cũ của ông. Đây là mối tình “giữa hai tâm hồn”, “không đụng chạm thể xác”, được xây dựng trong 10 năm và chính là nguồn cảm hứng lớn để ông viết nên nhiều tác phẩm nhạc tình nổi tiếng.
Gia đình ông chuyển đến căn nhà nhỏ ở cư xá Chu Mạnh Trinh ở ngã tư Phú Nhuận, nơi có nhiều gia đình nghệ sĩ tới ở, như gia đình Nguyễn Mạnh Côn, Năm Châu, Duyên Anh, Hồ Anh, Anh Ngọc, Trần Ngọc, Hoàng Nguyên, Minh Trang, Kim Tước. Không còn hợp tác với ban Thăng Long, Phạm Duy vào làm việc ở Trung tâm Điện ảnh.
Thời gian này ông hay lui tới quán Chùa (La Pagode), gặp gỡ Vũ Khắc Khoan, Cung Trầm Tưởng, Võ Đức Diên, Mặc Thu, Tạ Tỵ, Lê Ngộ Châu…
Ông được Võ Đức Diên và các bạn bè giúp đỡ đi một chuyến từ Sài Gòn ra vĩ tuyến 17 để hoàn thành nốt trường ca Con đường cái quan. Thập niên 1960, sau khi VNCH được nhiều quốc gia thân Mỹ công nhận, cùng với các bạn nghệ sĩ khác, Phạm Duy được cử đi Philippines, Nhật Bản, Thái Lan để giới thiệu văn nghệ Việt Nam. Và với ít nhiều kinh nghiệm bang giao, ông thường có mặt trong những buổi đón tiếp các phái đoàn văn nghệ nước ngoài, như đoàn vũ trống của Hàn Quốc, đoàn Moral Rearmement của Mỹ…
Nhờ đó, ông có dịp trao đổi tài liệu âm nhạc với các văn nghệ sĩ nước ngoài. Năm 1965, ông tham gia phong trào Du ca với Nguyễn Đức Quang, Giang Châu, Ngô Mạnh Thu,… đi nhiều nơi tại miền Nam Việt Nam để phổ biến các ca khúc nói lên thân phận của tuổi trẻ thời đó. Năm 1966, ông được văn phòng Giáo dục Văn hóa của Bộ Ngoại giao Mỹ mời sang nước này, tại đây ông được mời tham quan các đài truyền hình, nhạc hội, đến ở trong gia đình nghệ sĩ The Beers Family, Petersburg. Ông được đài Channel 13 với Steve Addiss và Bill Crofut, mời tham gia chương trình dân ca của Pete Seeger, nhạc sĩ phản ᴄhιến số một của Hoa Kỳ.
Bốn năm sau ông lại qua Hoa Kỳ lần nữa để làm cố vấn cho Bộ thông tin Hoa Kỳ để “giải độc dư luận Mỹ”. Tại đây ông mới biết thêm thông tin về vụ Thảm sát Mỹ Lai, và phản ứng của ông là ca khúc ”Kể chuyện đi xa”.
Ông cũng hát nhiều ca khúc phản ᴄhιến tại các show truyền hình, sân khấu ở Mỹ. Cuối thập niên 1960, ban nhạc gia đình “The Dreamers” của các con ông ra đời, ông cùng ban này đi biểu diễn tại các phòng trà, nhà hàng Sài Gòn. Đây cũng là thời gian băng Cassette thịnh hành, giúp ông có được nhiều khoản thu nhập từ tiền tác quyền, trở nên giàu có. Sau năm 1975, trải qua nhiều khó khăn của hành trình di tản, ông và gia đình cũng ổn định, cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.
Thời kỳ này ông vẫn tiếp tục sáng tác, biểu diễn và tổ chức cũng như tham gia các đêm nhạc về mình. Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, ông quyết định thực hiện những chuyến về thăm quê hương sau 25 năm xa cách.
Tháng 5 năm 2005, ông chính thức trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang, Duy Cường.
Tháng 7 cùng năm, lần đầu tiên kể từ năm 1975, 9 bài hát của ông được cấp phép phổ biến. Thời kỳ này ông vẫn hoạt động âm nhạc, tuy sức khỏe đã có dấu hiệu giảm sút, nhiều bệnh được phát hiện ra.
Ngày 27 tháng 1 năm 2013, sau một thời gian nằm viện, ông qua đời, một tháng sau cái chết của con cả ông là ca sĩ Duy Quang. Tang lễ của ông được tổ chức tại nhà riêng và ông được an táng tại Công viên Nghĩa trang Bình Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 2013.
Ngoài vai trò là một nhạc sĩ nổi tiếng nhất của Việt Nam, Phạm Duy còn là một ca sĩ thế hệ tiên phong của tân nhạc, xuất thân trong gánh hát Cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi nhiều miền trên đất nước, giúp ông mở mang tầm mắt, ngoài ra khiến ông trở thành một nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng.
Với giọng hát điêu luyện, đậm chất Việt của mình, ông đã đưa tên tuổi các nhạc sĩ như Đặng Thế Phong, Văn Cao đi khắp đất nước Việt Nam. Trong bài báo Tài Tử Phạm Duy để giới thiệu ca sĩ Phạm Duy, đăng trên tờ Revue Radio Indochine số 47, ra ngày Tết dương lịch năm 1944, Nguyễn Văn Cổn đã khắc họa: “…
Người thiếu niên này với gương mặt gầy ốm, một cặp mắt hiền từ và mơ màng sau cặp kính trắng, với cách cử chỉ khoan thai và nhã nhặn, đó là Phạm Duy(…) Có lẽ trong tiếng hát của Phạm Duy, chúng ta thấy một cái gì hơi xa xăm, buồn tủi, phải chăng đời của nghệ sĩ như đầy những sự nhớ nhung, thương tiếc, đợi chờ, mà tiếng hát Phạm Duy là tiếng lòng thổn thức (…)
Mỗi lần Phạm Duy lên ca hát tại Đài Vô Tuyến là mỗi lần các thính giả xa gần đều lặng yên để thụ hưởng những sự dịu dàng trong trẻo, như thanh điệu êm ái (…)
Bài Buồn tàn thu mà Phạm Duy hát lên có lẽ ai cũng nhận thấy sự cảm động của một tâm hồn mong mỏi người xa xôi (…) đưa cái bài Buồn tàn thu tới những tâm hồn mong mỏi (…) …Nhưng nói về nghệ thuật, thì có lẽ Phạm Duy là một tài tử thứ nhất hát những bài âm nhạc cải cách với một giọng hoàn toàn Việt Nam, có nhiều tài tử cứ tưởng lầm rằng họ ca hát những âm nhạc mới, tức là phải có một giọng Âu Mỹ, thật là sai lầm (…)
Phạm Duy lại còn là một nghệ sĩ rất có lương tâm nhà nghề trước khi hát, trước khi biểu diễn, Phạm Duy rất chăm chú tập dượt những bài hát (…)
” Một số ý kiến nhận xét về nhạc sĩ Phạm Duy do wiki tổng hợp: “Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam.
Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng ᴄhιến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ XX, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ nàỵ. ” — Lê Uyên Phương “Phạm Duy bàng bạc trong đời sống âm nhạc miền Nam. ” — Trịnh Công Sơn “Nhạc sĩ có biệt tài soạn lời ca rất thơ” — Nguyễn Đức Sơn “Nhạc sĩ Phạm Duy là một trong những nhà thơ vĩ đại nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam thời hiện đại.” — Trần Dạ Từ “Đại vương của nhạc phổ thông Việt Nam” — Eric Henry “
Người nhạc sĩ có một gia tài âm nhạc đồ sộ, và sự đóng góp của ông cho âm nhạc Việt Nam là không thể nào so sánh được.” — Ngô Thụy Miên “Nói về một người đã mất, người ta hay nói đến những ký ức, nhưng với nhạc sĩ Phạm Duy, có lẽ người ta sẽ còn bàn nhiều về tương lai.
Cuộc đời của ông là một ví dụ đầy xao xuyến về trái tim nghệ sĩ luôn lưu luyến cuộc đời, luôn tìm đến những điều mới mẻ và tạo dựng một lối đi khám phá đầy ngẫu hứng” — Tuấn Khanh “Trong kho tàng âm nhạc Việt Nam,
Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ.” — Nguyễn Văn Tý “Người ta ở đời thường muốn sống theo kiểu tiên hoặc kiểu thần. Sống kiểu tiên là ngao du, thỏa chí mình, không quan tâm đến sự đánh giá của thiên hạ. Sống kiểu thần thì muốn xông pha làm nên công trạng hiển hách. Phạm Duy là mẫu người thứ hai.” — Phạm Thiên Thư “Ngôi sao Bắc đẩu của âm nhạc Việt Nam, người nhạc sĩ lớn nhất của âm nhạc Việt Nam qua rất nhiều thế hệ” — Khánh Ly “.
Không có một nhà sáng tác nào khác có thể nói là đa dạng, sâu sắc, và đầy sức tưởng tượng bằng ông.” — Eric Henry “Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ “nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam. Duy đã làm những cuộc phiêu lưu “chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của Duy rồi chăng? Thành công – đối với Duy mà nói – không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật.
Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc… cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng.
Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian.” — Trần Văn Khê “Ngôn ngữ ông giàu có đến độ, bên cạnh những chữ ông đã dùng, người ta tưởng chừng như còn dăm bẩy chữ nữa ông chưa xài tới.” — Nguyễn Đình Toàn
“Theo tôi thấy đối với sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy thì ở Việt Nam(…) khó có người giống với Phạm Duy, có thể nói đó là cái đỉnh cao mà những người thấp cũng phải thấp cách xa chứ không thể gần được cái sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy” — Nguyễn Đắc Xuân “Người nhạc sĩ đã làm bản thân tôi, từ một anh lính làm nhạc “tếu” (để vui đùa giữa núi rừng hoang vu) cho “qua ngày đoạn tháng” bằng những giai điệu, tiết tấu, nhịp điệu, phong cách biểu diễn cóp nhặt từ Bing Crosby, Bop Hope… bỗng “tỉnh” ra sau một đêm tọa đàm văn nghệ ở Hiệu Bộ Trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn 2 (Hà Cháy, Thanh Chương, Nghệ An) là nhạc Việt không phải là những thứ “Swing, Blues, Samba, Rumba, Cha-cha-cha ghép lời Việt”… Và từ đó tôi đã cố gắng để tìm đến những giai điệu, điệu thức, hòa thanh và ngôn ngữ âm nhạc không theo kiểu tiếp nối T, S, D, T chẳng chạy đi đâu thoát như trước nữa…Và tôi đã trở thành một “người làm nhạc cho lính”. Chỉ có cái khác, khác căn bản là lũ chúng tôi trở thành “nhạc sĩ…cách mạng”. Còn anh thì…Không!” — Tô Hải “.
Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng ᴄhιến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc.
Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng ᴄhιến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ… Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi Viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương.” — Nguyên Sa .
“Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi nơi tôi một chút ý tưởng hoà bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải qua nhiều tháng nhiều năm, tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như yêu mến chính nước tôi, sở dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm Duy và một số nghệ sĩ Việt Nam khác.” ...
(...)
nguồn: Nhạc Xưa Blog
=================
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ