bài đọc thêm (1 ) : " Nhà văn Nguyễn Khôi & tác phẩm ' Sống Chụ Son Sao ' " / bài viết: Phạm Cao Phóng ( Paris) -- source: nhịp cầu thế giới online
NHÀ VĂN NGUYỄN KHÔI VÀ TÁC PHẨM “SỐNG CHỤ SON SAO”
Thứ hai - 11/12/2017 03:30Nhà thơ Nguyễn Khôi tại nhà riêng ở Hà Nội
Tôi gặp nhà văn Nguyễn Khôi tại Hà Nội. Ông là tác giả với bài “Về Hà Nội” nhận giải thưởng thơ của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội năm 2005 nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, giải thưởng Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2008 cho bộ sử làng “Cổ Pháp Cố Sự” và gần đây là “Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại”. Một việc làm can đảm, khó khăn khi phải cô đọng văn tài và dấu ấn của các khuôn mặt góp sức dựng lên hình hài văn học Việt Nam mỗi người trong bốn khổ thơ. Nhận định và đánh giá một số lượng đến chóng mặt (99 nhân vật), những cá nhân làng văn theo ông đúng lời nói là mến mộ, tạc chân dung những người có tài, thành danh, từ những “soái ca” của thi đàn như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Sóng Hồng, Lê Đức Thọ… và những nhà thơ mới chạm ngõ làng văn như Phạm Lưu Vũ.
Ông họa chân dung Tố Hữu:
Tự cho mình là Lành
mọi người thấy rất dữ
Mác Lê bọc bằng thơ
đã đâm chỉ có tử.
Hay một Chế Lan Viên
Anh là tháp Bayon bốn mặt
giấu ba mặt còn đó là anh
chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc
làm đau ba mặt phía ẩn hình.
Người đương chức đương quyền, như Chủ tịch Hội Nhà văn Hữu Thỉnh cũng được ông vạc với những chữ: “… Ghế cao anh ngồi”, “Điếu văn hót tới đỉnh”.
Nói qua những dòng này để nhấn thêm cá tính của ông. “Văn là người”, thêm một góc độ để nhìn vào bản dịch, cũng có thể nói đóng góp chính của nhà văn Nguyễn Khôi cho sự khai phá gia tài văn học độc đáo, có một không hai của dân tộc Thái trong gia đình các dân tộc Việt Nam với tác phẩm “Sống chụ son sao”.
Ông họa chân dung Tố Hữu:
Tự cho mình là Lành
mọi người thấy rất dữ
Mác Lê bọc bằng thơ
đã đâm chỉ có tử.
Hay một Chế Lan Viên
Anh là tháp Bayon bốn mặt
giấu ba mặt còn đó là anh
chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc
làm đau ba mặt phía ẩn hình.
Người đương chức đương quyền, như Chủ tịch Hội Nhà văn Hữu Thỉnh cũng được ông vạc với những chữ: “… Ghế cao anh ngồi”, “Điếu văn hót tới đỉnh”.
Nói qua những dòng này để nhấn thêm cá tính của ông. “Văn là người”, thêm một góc độ để nhìn vào bản dịch, cũng có thể nói đóng góp chính của nhà văn Nguyễn Khôi cho sự khai phá gia tài văn học độc đáo, có một không hai của dân tộc Thái trong gia đình các dân tộc Việt Nam với tác phẩm “Sống chụ son sao”.
Khi ông tặng tôi “Sống chụ son sao”, tôi đã cầm nó hờ hững đúng như một thằng người Kinh. Cảm giác đối nghịch, xấu hổ thế chỗ cho điều này sau khi đọc hết cuốn sách. Xấu hổ về nhận thức mông muội, mang chất thực dân khi đánh giá các sắc dân khác. Điều day dứt ấy bắt tôi phải đi đến những bản dân tộc miền núi phía Bắc, gặp gỡ người dân và ngắm những phong cảnh núi rừng bằng một cảm nhận hoàn toàn mới, như thu nhận sự rộng lượng của đất trời mà chiếu sáng cho những góc còn tăm tối trong suy nghĩ. Tôi còn quay lại gặp nhà văn Nguyễn Khôi thêm một lần nữa, trao đổi với ông để đoạn tuyệt với những ấu trĩ cá nhân.
Từ những vần thơ trong “Sống chụ son sao”, tôi cảm động như bắt gặp một giọt nước từ ngàn xưa theo cánh mây mầu cánh bạc rơi xuống lòng bàn tay. Giọt nước phôi thai cả ngàn năm trước, hoặc xa xưa hơn nữa đã một lần chạm xuống trái đất này, thấm qua những tầng đất, róc rách theo dòng suối nhỏ, nhập vào đại dương cuộn sóng, hẹn hò với những cơn dông vần vũ, rồi chợt nhớ đến mảnh đất đầu tiên đã đáp xuống mà lần tìm về. Và hôm nay tôi nhìn thấy giọt nước ấy long lanh trong lòng bàn tay, rồi bồi hồi lật từng trang thơ được ví như “Truyện Kiều” của dân tộc Thái.
Những vần thơ không giấy giáng sinh, những vần thơ người nghệ sĩ viết lên không để lại một chữ ký. Và cả ký tự lưu giữ cuộc đời, lưu giữ khắc khoải, đau đớn viết về thân phận, về ngang trái ấy có bao nhiêu năm tuổi?
Tôi không biết. Tôi chỉ đọc được những vần thơ cổ như lịch sử của mảnh đất Việt từ một bản dịch. May thay, còn những người tìm lại hình hài của một văn hoá thể hiện qua ngữ nghĩa, hình hài một dân tộc ghi nhận thăng trầm, thơ ca của họ qua chữ viết. Không nhiều dân tộc, đất nước có may mắn như vậy. Nếu không, việc biết đến những câu chuyện thần thoại, những vần thơ chỉ tồn tại từ thế hệ này qua thế hệ khác qua văn học truyền miệng. Và ai khẳng định vốn liếng đó không bị méo xệch đi?
Chẳng hạn bây giờ chúng ta nghe thấy một dị bản, Thánh Gióng sau khi thắng giặc đi tắm ở Hồ Tây.
Người mắc nợ lịch sử
Người dịch thơ đôi khi như người mắc nợ cái nghiệp của lịch sử. Làm thơ, ừ thì chỉ phải nhận câu khen hay câu trách. Dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác người khen chưa thấy đâu, đã bị ám cái bóng của kẻ giết người, tội đồ làm hỏng gia tài mang nặng đẻ đau của nhà văn, nhà thơ khác máu. Dịch hỏng, chuốc hoạ vào thân, nhận ngay gạch đá tanh lòng, đắng mật.
Thơ mà dịch là mắc nợ bậc tiền bối, kẻ đương thời. Hiểu cái ý của người xưa, đong đầy câu chữa mà xao xuyến lòng người nay. Bước từ thời con người chỉ lấy trăng làm bạn bắc cầu qua thời đương đại, con người khắc khoải nhìn vào không gian xanh thẳm, băn khoăn “không lẽ chỉ trái đất này sự sống là độc nhất”.
Nhọc nhằn, gian truân ấy, ai một lần qua cầu mới tỏ.
Kiếp hoa rơi mang mầu ca dao
Hiếm có một trường ca nào có cái tên “ngộ nghĩnh” như vậy.
Nói là trường ca vì “Sống chụ son sao” gồm tới 1.840 câu thơ. Cái tên cũng gây tò mò “Tiễn dặn người yêu”.
Yêu là yêu, là trái tim xẻ nửa, là nền dân chủ thánh thiện, nhường nhịn, đam mê. Tình yêu là phiêu lưu, chiếm đoạt, nhà đề biển “Có chó dữ” cũng mặc.
Ai lại tiễn dặn người yêu đi lấy chồng? Nhường đam mê, nhường một nửa của mình cho tình địch mà còn tỉnh, căn với dặn? Hay đó là cao thượng giả dối, biết thân, biết phận? Hay sự lên gân dối trá được viết thành lời?
Không phải! Đằng sau những câu chữ ấy là một nền văn hóa mộc mạc, sơ khai, không bị Hán hóa, Kinh hóa, tha hóa… Vẫn nguyên sơ, kỳ ảo như Loa thành An Dương Vương và nàng Mỵ Châu thẫn thờ chờ Trọng Thủy. Ừ mà những câu thơ này chắc cũng được viết cùng thời đó, thời vương quốc Mân Việt hoang tàn, Thục Phán xuôi ghềnh sông Đà, có Long Môn, nước sâu “trăm tầm”, cá chép vượt lên hóa thành rồng. Mảnh đất nhờ núi sông che chắn mới tồn giữ được nền thanh bình trầm tĩnh đi qua thời gian, với ngọn gió khô sảng khoái không làm mục nát những trang chữ, để bây giờ dưới ánh mặt trời uể oải mà sinh trở lại trong những âm vực khác.
Dịch giả Nguyễn Khôi là người mắc nợ ấy
Nợ 21 năm trai trẻ xứ Thái, nợ cái chữ, vần thơ mà ít ra ba lần các bậc lắm chữ, bén duyên càng lần càng thấy tơ vò, chưa đi hết chiều sâu con chữ ngàn xưa để lại. Xuyên từ bản dịch đầu tiên “Sống chụ son sao” với Điêu Chính Ngâu (1914-1958), ra mắt năm 1957, một năm trước khi ông mất. Bản thứ hai của nhà văn Mạc Phi (1928-1996) ra mắt 1960, chỉ ba năm sau bản dịch lần đầu của nhà thơ Thái Điêu Chính Ngâu. Bản này bổ sung thêm 242 câu thơ, so sánh và chỉnh lý từ các văn bản sưu tầm trong các năm 1957, 1958, và năm bản chép tay khác tìm thấy được ở Thuận Châu, Mai Sơn, Mường La.
Nguyễn Khôi đã chuyển thể khác góc chuyển ngữ của hai tác giả trước, mà xuôi theo dòng dân ca, như cái chất quan họ trong ông, để cái hồn, cái chất mộc mạc xứ Thái vào dòng chảy dân ca đất Kinh Bắc, đất Thăng Long, đất Việt.
Phảng phất đâu đây một nàng Kiều của Nguyễn Du.
Cũng “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” phận bạc kiếp hoa rơi người thiếu nữ sinh ra không phải ngày:
Cúng gà người cũng chẳng xem
Cúng voi người ngoảnh mặt xem gọi là
Những thứ ấy sao mà em có
Phận nghèo hèn khốn khó kiếm đâu
Người xui chồng nện thật đau
Gậy phang chập tối, đêm thâu sáng mờ
Chồng đánh em như vồ nện bịch
Như Tạo Mường vui thích đánh chuông
Đuổi em, dao quẳng xuống sàn
Guồng tơ khung cửi đạp tan... đuổi về.
Người con gái về làm dâu bàng hoàng khi thấy lưỡi dao oan nghiệt ném trước mặt như một lời đe dọa sinh tử của kẻ thất phu. Phận bẽ bàng như khung cửi hàng ngày cúi mặt, nuốt tủi cực vào câm nín, mong yên bề trong tan hoang, kiếp rạc, thân đợ nhà người.
Rời nhà này, về làm dâu nhà khác, cũng vẫn chỉ “phận mỏng cánh chuồn”:
Về chồng mới em buồn, cáu gắt
Phơi thóc thì mắng cót chửi sân
Hạch chồng giữa chốn làm quan
Vào nhà cười bác, ra sàn khích anh
Nói xấu mẹ, đành hanh với bố
Vào bếp chân đá đổ chậu nồi
Dỡ xôi làm vỡ mâm xôi
Khách vào, mặc áo để lòi vú ra
Vú quả mướp vòng ba vòng bảy
Ngủ đệm chê... rận chấy như sung
Tỉnh ra lại mắng nhiếc chồng
Tóc em chải ngược, ghế lồng lật ngang
Cha mẹ than: mua nàng dâu dữ
Nhà chẳng yên, xấu hổ, cơm toi
Bạc mười ta trả đủ rồi
Thôi tống ra chợ lấy mươi ba đồng
Đổi gạo chẳng ai màng đến đổi
Đổi muối chẳng ai tới đổi cho
Nghìn lần, chín chợ vòng vo
Lá dong một cuộn đổi cho xong đời...
Con đường nghệ thuật làm dâu trầy trật trong uất ức, tủi nhục. Cô gái Thái mong ngày cưới để được búi tóc lên đỉnh đầu như vệt son đỏ của cô gái Ấn bên dòng sông Hằng, cái hãnh diện yên bề gia thất, lại bị nhà trai coi như cái “chải ngược”, bất cần đời. Cái giá nhà trai mua cô con dâu từ 10 đồng bạc trắng ngày đầu thoắt cái đem ra chợ bán không được nắm gạo, nhúm muối. Thân gái dặm trường chỉ còn mỏng tang như những chiếc lá dong cắt bìa rừng gói tròn một bó.
Cái “duyên mơ” bồng bềnh tình đầu úa tàn trong xa xôi, chợt thức với nghịch cảnh. Người tình thất thế không lấy được vì cái nghèo không đồ sính lễ ngày nào thành kẻ đứng ra mua, đứng ra chuộc “phận lá dong” gói những đau buồn, nhức nhối. Đắng hơn, thời để yêu, thời để say, lấy tiếng khèn bên suối, đầu nương trấn yểm khao khát gặp gỡ thì nay gặp lại cũng chẳng còn nhận ra nhau. Cũng chỉ còn biết gửi lòng vào vô định, gửi hy vọng vào một hẹn hò kiếp sau.
Dù thành vợ người ta, cứ xẻ lòng chờ, em ạ!
Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi ngồi mong
Mùa hoa vông ngắt hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ ngồi chờ
Hoa sắp héo, sương mai em nhúng
Hoa sắp tang, nước rượu em ngâm
Hoa gói khăn đào 20 năm không phai
19 đời Tạo quan vẫn thắm
Đôi ta yêu nhau lấy gì gửi mặt?
Gửi vải sợ vải sờn
Gửi đàn sợ đàn gãy
Gửi bạc vụn sợ không đáng lòng
Gửi bạc nén? Nhưng anh của khó nhà không!
Gửi vật tre mây sợ hóp
Đôi ta yêu nhau, anh gửi chiếc đàn môi đồng
Còn thương anh, đàn môi đồng nhớ mãi
Duyên mai sau, đàn môi đây, hãy lấy nhận người
Cất kỹ trong lòng, em ơi, đừng nhầm lẫn nhận sai!
Con khóc giơ đàn môi dỗ nín
Cho dù đã vợ người ta
Đã yêu xin xẻ lòng chờ đợi nhau
Mùa hoa bưởi hoa ngâu hẹn đợi
Hoa mạ vàng chờ tới tàn phai
Hoa tàn em nhúng sương mai
20 năm gói khăn mùi còn thơm
19 đời Tạo quan vẫn thắm
Mặt thân thương gửi gắm gì hơn
Vải ư? Sợ vải chóng sờn
Đàn ư? Lại sợ gãy đàn ngang cung
Gửi bạc vụn sợ không xứng đáng
Bạc nén ư? Anh kiếm chưa ra
Gửi tre lại sợ tre già
Đàn môi cất kỹ kẻo mà nhận sai
Con khóc lấy đàn môi dỗ nín.
“Sống chụ son sao” như đi vào một cuộc vong thân ngậm ngùi, có hàng nghìn giọt nước mắt, con đường đi tìm một hạnh phúc không thật. Song phải chăng, chính cái hư thực ấy là giá trị thực của tác phẩm
Ngày về Trời theo cánh ngựa bay
Lời thương em nhớ đừng phai
Hồn thương đừng có đổi thay cõi trời
Như hóa phép vàng tươi cánh bướm
Qua hè về đông đến cưới nhau.
Lên cao nguyên Mộc Châu, tôi gặp nhiều nụ cười của những cô gái Thái.
Ai cũng biết “Sống chụ son sao”.
Phải chăng những câu thơ ấy có thể chữa lành và an ủi nỗi đau tâm hồn từ thế hệ này, qua thế hệ khác?
Cám ơn nhà văn Nguyễn Khôi và công sức của ông đã bỏ ra để chúng ta có một tác phẩm cho ngày hôm nay. ./.
Phạm Cao Phong
( Paris)
===============
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ