Thứ Sáu, 16 tháng 4, 2021

bài đọc thêm (4) : " Thái Tuấn " -- source: Phan Nguyên Blog

 


Friday, 22 April 2016

Thái Tuấn (1918 - 2007)













Thái Tuấn
Nguyễn Xuân Công
(11/9/1918 Hà Nội - 26/9/2007 Sài Gòn)
Thọ 89 tuổi
Họa sĩ












Bức tranh cuối cùng trong đời của Thái Tuấn













Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công, sinh ngày 11-9-1918 tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội – trong một gia đình công chức khá giả – đồng tuế và đồng môn với họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Anh có vào học trường Mỹ Nghệ Gia Định, và theo lớp dự bị tại trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, cùng khóa với Phan Tại, Đặng thế Phong, khoảng 1938-1940, rồi bỏ dở.



Thời chiến tranh chống Pháp, Thái Tuấn về sống ở quê ngoại Thanh Hóa, vẽ tranh cổ động, quảng cáo và quan hệ với nhiều nhà văn kháng chiến như Thanh Châu, Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân. Sau hiệp định Genève 1954, anh di cư thẳng từ Thanh Hóa vào Sài Gòn, sống vào nghề vẽ quảng cáo và trang trí. Mãi đến khoảng 1956-1957 anh mới thật sự vẽ tranh sơn dầu nghệ thuật và dùng bút danh Thái Tuấn. Cùng với các họa sĩ di cư khác : Ngọc Dũng, Duy Thanh, Tạ Tỵ, Thái Tuấn đã góp phần xây dựng nền hội họa hiện đại tại Sài Gòn, được xem như có tham vọng làm thủ đô một nền văn hóa mới. Bốn họa sĩ nói trên đều là nhà văn, nhà thơ ; riêng Thái Tuấn thường viết lý luận về hội họa và mỹ thuật trên các báo Sáng Tạo, Bách Khoa, và Văn, thịnh hành lúc đó ; bài viết của anh ít tính cách kỹ thuật và chuyên môn, nên nhẹ nhàng, cởi mở và phổ quát, giúp nhiều độc giả làm quen với hội họa, là một ngành nghệ thuật mới đối với đại chúng. Những bài viết kết hợp với tác phẩm hội họa đẹp và dễ hiểu, tạo cho Thái Tuấn một uy tín : anh tham gia hội đồng giám khảo ở nhiều giải thưởng và phòng tranh. Những cuộc triển lãm cá nhân 1958, 1970, 1973 được dư luận đánh giá cao – về nghệ thuật và thương mãi. 

Thái Tuấn đến với sơn dầu ở tuổi bốn mươi, nên tranh anh ít sắc cạnh, khai phá, mà giàu chất hoài niệm và tính văn học, tạo không gian thoáng rộng, u hoài, thi vị. Đề tài, ưu tiên là phụ nữ trong nhan sắc, dáng dấp, cử chỉ, y phục thuần túy Việt Nam trên nền màu sắc dịu nhẹ, dung dị mà tế nhị.



Nhan sắc ở đây chủ yếu không phải chỉ là nữ sắc mà là một thoáng đẹp giữa trần gian. Thái Tuấn vẽ nét đẹp của phụ nữ hơn là phụ nữ đẹp, người đàn bà hóa thân làm vẻ đẹp trong tranh, diễm ảo mà hư ảo, một thoáng hồng nhan, như một lời thơ. Họa sĩ Đinh Cường, tâm giao và thâm giao với anh từ non nửa thế kỷ, đã có lần nhận xét Thái Tuấn biến bức tranh thành một cấu trúc tiềm ẩn (1). Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu, mà vẫn nhìn ra (ca sĩ) ; anh thường tâm sự : vẽ người mà không vẽ người. Vẽ như không vẽ mới đã... 



Vẽ phụ nữ, Thái Tuấn quan tâm đến mái tóc, đôi khi mái tóc vận hành cấu trúc bức tranh, như bức Cội Nguồn, 1970 ; nhưng mái tóc trong tranh còn là một trời thu tạnh mơ say hương nồng. Anh có bức chân dung thiếu nữ, 1964, đặt tên bằng tiếng Pháp « Tes Yeux » (Mắt Em) , nhắc câu thơ mắt em là một dòng sông ; 1974 bức Bông Hồng Bạch, là hồn của bông hường trong hơi phiêu bạt, như một lẵng hoa vắng cả bông hoa / un bouquet absent de fleurs, theo một ý của Mallarmé.



Đến với hội họa ở tuổi bốn mươi, trải qua nhiều kinh nghiệm văn chương, Thái Tuấn để lại nhiều họa phẩm phảng phất chất văn học – có khi là một bài hát, như Dư Âm, hay Dòng sông cũ (vẫn xuôi niềm thương… )


Tiếng Pháp gọi họa sĩ là artiste-peintre ; ở Thái Tuấn, chất artiste nhiều hơn chất peintre, anh là nghệ sĩ hơn là họa nhân, anh là thi sĩ vẽ tranh, gọi anh là họa sĩ - thi nhân, như một Vương Duy thời Đường, có lẽ đúng. Trong mỗi họa sĩ, có một nghệ sĩ và một nghệ nhân : nghệ nhân lấy bức tranh làm đối tượng, nghệ sĩ lấy Cái Đẹp làm cứu cánh. Mà chữ Đẹp viết hoa là cõi Vô Cùng. Từ đó mỗi bức tranh Thái Tuấn dù đã hoàn tất và toàn bích, vẫn còn, vẫn là nỗi chờ mong – thiếu vắng. Đó là cách đọc những khoảng mông mênh trong tranh Thái Tuấn, những trời thu xanh ngắt, quạnh vắng chiều sông, nắng chia nửa bãi, để mộng tàn lây, nhớ nhà châm điếu thuốc… một không gian tư lự, u hoài và mơ ước trong mùa xuân chưa đi, mùa thu chưa đến. Đời Thái Tuấn là một bức tranh duy nhất và dở dang. Vẽ hoài mãi vẫn chưa xong một vạt trăng tơ, một tà nắng lụa.

Giới phê bình thường nhận xét : tranh hiện đại, tây phương của Thái Tuấn vẫn giàu chất Á Đông và dân tộc. Thật ra anh không mấy chủ tâm vào truyền thống, trường phái hay dân tộc tính, thậm chí trong thời kỳ sáng tác dồi dào nhất, những năm 1960-1970, anh còn hờ hững với dân tộc, định hình trong biên giới và lịch sử. Sau này, 1984, ra nước ngoài, ở tuổi xế chiều, anh mới hoài vọng về cảnh nông thôn và nông dân Bắc Bộ hồi đầu thế kỷ trước. Và đề tài quê hương mới rõ nét như một ám ảnh.

Ngày nay nhiều người đòi hỏi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật, với những luận điệu có khi thô sơ. Để lý luận được khách quan, ta thử đối chiếu với một đề tài tương tợ : nghệ thuật và tôn giáo. Nhà văn công giáo thuần thành Jacques Maritain trong sách Nghệ Thuật và Kinh Viện đã nhắc nhở các nghệ sĩ, đại khái : nếu anh dùng nghệ thuật để phụng vụ đức tin, hay dùng tín ngưỡng để phục vụ nghệ thuật, thì hoặc là anh làm hỏng tranh, hoặc là anh làm rối đạo. Chuyển lý luận ấy sang chuyện dân tộc, cũng vậy thôi. Maritain càng nói rõ : trên lý thuyết nghệ thuật là siêu thời gian và siêu không gian, supra tempus, supra locum.(2) Nhưng trong thực tế, nghệ thuật do đề tài và cội rễ, thuộc một thời đại và một xứ sở. Những tác phẩm toàn cầu nhất, nhân đạo nhất đều mang rõ rệt dấu ấn của tổ quốc.


Về Thái Tuấn, Đinh Cường còn lưu ý: anh là người ngoan đạo nhưng không thấy anh đi nhà thờ. Màu sắc dân tộc e cũng cùng một cội nguồn, là những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra. 
Do đó mà Thái Tuấn vẽ cái gì rồi nó cũng ra dân tộc; vì suốt đời anh chỉ vẽ thuần một giấc mơ. Con người làm chủ, kiểm soát, điều khiển được tư tưởng, thậm chí tình cảm, nhưng không ai làm chủ được giấc mơ. Giấc mơ là cái gì không thể chia chác, và cũng không thể tái lập. Nhưng dường như các nghệ sĩ có khả năng sống lại, và làm sống lại trong một bức tranh. 
Nếu ai cho tôi một từ, chỉ một từ thôi trong tiếng Việt để mô tả tranh Thái Tuấn, tôi sẽ xin chữ « thơ mộng », thơ của tuổi thơ và mộng làm bươm bướm. Nếu là tiếng hán việt, tôi sẽ dùng chữ « hoài vọng » ; hoài những bến xuân xưa và vọng về Miền Đẹp bồng đảo xa khơi.

Tranh Thái Tuấn là miền, là niềm an tịnh vô biên. Mỗi bức tranh Thái Tuấn là một tâm cảnh dạt dào tâm cảm, một thời khắc im lặng dặt dìu âm hưởng. 
Nhưng hôm nay, chiều nay, giờ này , niềm lặng im bổng òa vỡ thành tiếng khóc


Orléans, 20/10/2005, viết lại 26-9-2007



Ghi chú:
(1) Đinh Cường, Thái Tuấn Cội Nguồn, báo Ngày Nay (Mỹ) số 354, ngày 01/11/1996.
(2)Jacques Maritain, Art et Scholastique, báo Les Lettres, tháng 9-10, 1919, in lại 1935, trang 115 va 130, nxb Louis Rougart, Paris

Thư tịch:
Thái Tuấn, Câu Chuyện Hội Họa, nxb Cảo Thơm, 1967, Sài Gòn. 
Thái Tuấn, Tuyển Tập Tranh và tiểu luận, nxb Vaala, 1996, California. (Có phụ lục phần phê bình, giới thiệu của nhiều tác giả khác). 
Thái Tuấn, Nguồn Mỹ Cảm, tạp chí Văn, số 93, 1967, Sài Gòn. 
Thái Tuấn, trả lời phỏng vấn Huỳnh Hữu Ủy, tạp chí Văn, số 199, 1972, Sài Gòn. 
Huỳnh Hữu Ủy, Bóng dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân Bính Tý, 1996, California. 
Phan thị Đỗ Quyên : Xem tuyển tập tranh và tiểu luận Thái Tuấn, tạp chí Thế Kỷ 21, số 91, tháng 11/1996, California.

















Tự họa





















Thái Tuấn





Thái Tuấn hiền hoà mà sôi nổi, dường như trong ông có hai luồng "khí" hạo nhiên và vô vi, như một Công Trứ nằm trong Trang Tử. Đang hồn nhiên ngây thơ như đứa bé với chòm tóc bạc TinTin trước gió; mắt Thái Tuấn sáng rực lên khi bàn đến hội họa, tranh luận về cái đẹp, về nguồn cội nghệ thuật, về mối tương quan giữa hội họa và chữ nghiã. Thái Tuấn, Phạm Tăng là những hoạ sĩ có những tra vấn sâu sắc về họa hình, họa lý. Thái Tuấn, Mai Thảo không chỉ là những người cùng chung một thế hệ mà còn có chung một phong cách: không khoan nhượng về ý chí, tư tưởng, nhưng nhân nhượng trước mọi nhỏ nhoi, toan tính của con người.

Tranh Thái Tuấn khởi đi từ thân chất ấy, một họa sĩ suốt đời tưởng như nhàn du, rong chơi, hoà đời và mộng: Họa sĩ tài tử.

Tranh Thái Tuấn gồm những nét đơn, màu đơn, đến gần như tuyệt đối. Ông hay nhắc đến bức tranh trắng của Malevitch, bởi cái trắng ấy gần với tâm hồn ông và cũng là đỉnh nghệ thuật mà ông muốn đạt: cõi không. Như Mai Thảo cũng đã "tôi không". Cái trắng ấy cũng là cái đơn mạc mà Trang Tử thường nhắc nhở: nghệ thuật tiến tới sự đơn giản tột cùng là đạt. Nhưng màu trắng, theo Kandinsky lại"gợi sự yên lặng đầy quyền uy ẩn giấu", và đó cũng là sự im lặng của Thái Tuấn trong tranh: màu trắng được giấu kỹ dưới những nền khác như xanh lá cây, xanh lơ, xanh tím, chỉ thỉnh thoảng mới lộ ra như một thứ quyền uy vắng mặt. Đó cũng là con người Thái Tuấn: dưới sự tĩnh lặng, hồn nhiên, ngây thơ là một sức mạnh, một định thần, một ý chí. 

Hỏi về nền xanh trong tranh, ông trả lời: "Việc sử dụng màu xanh của tôi, do một thời kỳ tôi chỉ còn rất nhiều màu xanh; cứ sử dụng mãi rồi quen thuộc nắm vững được tính chất và khả năng của nó. Vả chăng tôi không thành công với những màu sắc lộng lẫy chói chan". (Trả lời phỏng vấn của chúng tôi trên RFI, năm 1991).

Như vậy là tình cờ mà Thái Tuấn đến với màu xanh và ở lại, nhưng mọi ở lại đều có nghiã: màu xanh trong tranh Thái Tuấn sau tình cờ là bản chất. Vẫn dựa vào kinh nghiệm Kandinsky một đời dùng màu, thì xanh lơ có nghiã là: yên bình, trang nghiêm, ơ thờ; xanh ve: tĩnh lặng, ôn hoà, thụ động. Thái Tuấn có những "chất" ấy và ông "nhả" ra trong tranh.

Mỗi họa sĩ tạo ra thế giới của riêng mình. Thế giới của Thái Tuấn là thế giới phụ nữ. Thái Tuấn hay vẽ đàn bà, đúng ra ông vẽ một người đàn bà. Người ấy là cô Thái lúc chưa chồng, là bà Tuấn thời mới cưới. Hầu như tất cả những hình vóc phụ nữ trong tranh đều bước ra từ một dáng nét: người vợ. Chung tình. Khuôn mặt trái xoan, dáng dấp dỏng cao ấy chính là chị như chúng tôi thường gọi trong chỗ thân tình. Những năm 90, tóc chị đã trắng mà tôi vẫn mường tượng được mái tóc huyền của chị thủa trước; mái tóc mà họa sĩ đã khắc vào tác phẩm để lại với đời. Mắt trong tranh thường là hai nét đơn: một hình thuyền cho dáng mắt, một dấu huyềncho lông mày đủ tượng trưng cả một "cửa sổ của linh hồn". Mắt ấy không hoàn toàn là của chị mà có "giao lưu": có con ngươi Thái Tuấn nằm trong thuyền chị.Đôi mắt hiền dịu, đoan trang nhưng tiềm ẩn một thứ quyến rũ, buồn bã đến từ cõi khác. Cái buồn bã ấy, tôi đã thấy ở người chị dâu Hồ Dzếnh trong Chân trời cũ, ởCô hàng xén của Thạch Lam, ở chị Trúc của Nguyễn Bính... ở những bà Tú Xương xưa và nay. Thái Tuấn không vẽ Mai nửa chừng xuân, vì Mai "phải" là khuôn giăng đầy đặn; không vẽ Loan, vì Loan "phải" là sắc sảo; không vẽ Mùi, vì Mùi hơi "đĩ ngầm". Những người đàn bà trong tranh Thái Tuấn là hình chiếu từ chị, của chị, về chị, trên nền những năm tháng cũ. Tranh Thái Tuấn kiệm nét, chỉ vài vệt mà gây ám ảnh khôn nguôi. Vóc dáng nữ thường không có mũi: để người xem vẽ nốt những đường dang dở. Chính ở chỗ đó mà chúng ta thấy sự ẩn hiện biến thiên của tác phẩm, khiến mỗi người đứng trước tranh ông có thể hình dung ra một hình ảnh, một tâm sự, một bối cảnh riêng tư, thảng như:

- Trên nền năm tháng cũ, hình ảnh chị dâu tôi vẫn đứng, buồn bã với manh áo màu chàm cũ, mắt nhìn từ quãng trời xa về, bóng hoàng hôn mơ hồ ôm trùm lên sự vật.

- Người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt tấm xuống nong, trong khi trời chiều sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc

-Gió tối bận bịu trong chùm tre, một tấm lửa lung lay châm loe vào bóng đêm bất tận.

Hồ Dzếnh.

- Tâm vội vã bước mau. Trước đình, sân gạch rộng đầy bóng tối và yên lặng, con sấu đá vẫn phục yên trên bệ ở ngoài, hình dáng quen thuộc quá. Bỗng cô dừng lại; cô xuýt va phải một người ở ngõ rẽ ra.

Thạch Lam

Không gian nhá nhem, buồn bã, tĩnh lặng của Thạch Lam, Hồ Dzềnh nằm trong khí và hồn tranh, cho dù ông vẽ rạng đông, Orléans, hay một cánh rừng xa vắng. Cái không gian nhá nhem xanh ấy, dù hiện hữu hay không, luôn luôn bao trùm lên những người đàn bà trong tranh, như một thứ không gian huyền ảo, một thứ tâm gian u hoài, như thể họ bước ra từ Hồ Dzếnh, Thạch Lam, để ẩn hiện trên nền ký ức muôn thủa như những bóng tịch dương, những hồn thu thảo. Xem tranh Thái Tuấn là đọc hồn Thái Tuấn mở ra trong nét vẽ. Những nhận thức độc đoán của Kandinsky về mầu sắc, trở thành độc đáo: đúng là xanh lam, xanh lục, ở đây, khởi dậy những nét ơ thờ, buồn bã trong tâm hồn những người đàn bà tần tảo lúc nhá nhem, dưới mảnh trời chiều đang "sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc".

Nhưng người phụ nữ trong tranh Thái Tuấn không chỉ dừng lại ở tâm gian u buồn điền dã Hồ Dzếnh - Thạch Lam, mà tiến dần về thành thị. Lên tỉnh, nàng gợi dư âm tiếng đàn "dìu muôn tiếng tơ" Nguyễn Văn Tý ( như bức Khúc giao hưởng, 1994); hoặc nàng buông lỏng khăn san Cát Tường Đoàn Chuẩn, nhưng là một Cát Tường Đoàn Chuẩn đã di cư, đã chuyển sang màu lụa trắng Nguyên Sa, dưới nắng Sàigòn anh đi mà chợt mát (Khăn quàng, 1992; Thiếu nữ, 1993); đôi lúc nàng là Phạm Duy ngày xưa Hoàng thị (Nữ sinh, 1992). Đặc biệt hai bức tuyệt đẹp Để em làm gió (1992) và Trăng sầu (1994), người con gái đã chuyển sang tâm thức hương xưa, nguyệt cầm Cung Tiến, nhưng vẫn lưu trữ cả một vòm trời Bắc Ninh quan họ. Thái Tuấn có một bức vẽ về di tản tựa đề Quê người (1995): cô gái "đội gạo" đứng chơ vơ giữa trời, nước, bên một chùm cao ốc: váy Đình Bảng buông chùng cửa Mahattan, hay váy Giang Nam, hồn Đình Bảng? Sau Minh hương Hồ Dzếnh, chúng ta đã Việt hương được hơn nửa thế kỷ rồi...

Không gian Thái Tuấn là không gian chiều tàn, dù vẽ bình minh như Sương sớm (1992), nhưng vẫn hoàng hôn, vẫn nghìn cây chìm trong bóng tối, vẫn những u hoài, buồn bã địu kéo nhau đi. Thế giới Thái Tuấn dường như vô tình, tiền định đã nằm trong thơ Hồ Dzếnh:

Có một nghìn cây rũ rượi buồn,
Một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn.
Dăm thân thiếu nữ gầy như trúc
Đứng chịu tang trời đổ bóng đơn.

Thế giới chị trong tranh Thái Tuấn như thế, đã trở thành một định mệnh, một thời đoạn, một tâm cảnh, một ký ức nội tâm dấy lên từ tiềm thức. Chị là cái cớ để vẽ. Chị cũng là niềm tin độc nhất về hiện hữu, khi con người bơ vơ, nghi ngờ tất cả, cả đến sự hiện hữu của chính mình: Chị là cõi trọ, an toàn, miên viễn.

*
Thái Tuấn vẽ một số chân dung, có thể chia làm hai loại: chân dung màu sắc và chân dung đường nét. Những bức chân dung màu sắc chẳng qua chỉ là một trạng thái tâm hồn của họa sĩ. Một hôm Phạm Duy nhờ Thái Tuấn vẽ bức chân dung để in trên bìa một tập nhạc sắp xuất bản, tranh vẽ xong, Phạm Duy chê xấu không in. Phạm Duy chê cũng đúng thôi, đúng quá là khác, bởi vì Thái Tuấn "lạc đề", ông có vẽ Phạm Duy đâu: Phạm Duy nào gầy yếu, xanh xao đến thế. Thái Tuấn vẽ cái gầy của chính mình, cái xanh xao của núi rừng Việt Bắc, cái ngã nước của những ngọn đồi trọc kháng chiến, cái lãng mạng tử thần của đoàn quân du ca đầu không mọc tóc.

Loại chân dung vẽ bằng đường nét của Thái Tuấn, biểu hiện hơn, thể hiện chỗ quyết liệt trong cá tính Thái Tuấn: đi đến cùng, muốn đạt cái khó nhất. Loại chân dung này thuộc giai đoạn thử nghiệm cuối cùng của ông: vẽ trên vi tính. Vừa mới về kỹ thuật vừa diễn tả được điều mà ông ấp ủ suốt đời: "tiết kiệm tối đa hình sắc, gạt bỏ những cái dư thừa" để đạt tới cái đơn giản tột cùng trong hội họa.

*



Gặp gỡ với ông, luôn luôn có tranh luận sôi nổi về nghệ thuật, kể cả khi đã bị mất giọng, ông vẫn hùng biện đến khản cổ. Nhưng sau những buổi như thế, ông thường viết cho chúng tôi những "lời bàn thêm" về nghệ thuật của mình, có thể là những điều ông "quên" chưa nói hết trong khi tranh luận, thỉnh thoảng ông gửi kèm cho một bức tranh vừa phác trên giấy. Một lá thư không đề ngày, khoảng Tết năm 2003-2004 thì phải, ông viết:

"... Hồi này tôi nổi hứng vẽ lại sơn dầu. Sơn cọ ba năm bị bỏ rơi đã mốc meo. Vẽ trên vi tính phần vì lười phần vì tò mò. Không ngờ do đó thay đổi cái nhìn về hình sắc.

Ước muốn chính vẫn là tiết kiệm tối đa hình sắc. Không chủ trương như cách của môn phái lập thể; kiểu thức hoá sự vật, cũng không như môn phái trừu tượng phủ định sự vật.

Con đường của tôi là tước bỏ, gạn lọc những dư thừa, làm trở ngại cho sự thưởng ngoạn. Chủ trương sự cô đọng, để đạt tới cái trừu tượng không chỉ ở việc cầm cọ; mà khi cầm viết cũng vậy. Tôi bước vào sinh hoạt nghệ thuật cùng lúc với viết, cọ.

Tranh mới kỳ này gần như không màu.

Cuộc sống, cái điều buồn nhất, là không biết mình sinh ra để làm gì.

Có lần tôi than thở: Bị sinh ra mà chẳng ai hỏi ý kiến.

Bà mẹ tôi nghe được; hỏi lại: Chưa có mày thì tao hỏi ai? Cho dù có muốn hỏi cũng đợi mày lớn khôn biết ăn nói. Thì lúc ấy đã quá muộn. Cũng vẫn là một sinh vật. Kéo sợi tơ hay kéo cái mạng nhện- cũng là công việc như nhau. Thiên tai sẽ xoá sạch, chẳng phân biệt.

Rốt cuộc tự tìm cách an ủi, bằng những giá trị mà lòng mình vẫn ngờ vực.

Tranh buồn, thơ buồn, nhạc buồn là như vậy vẫn chỉ một nội dung, một dấu hỏi.

Năm hết, Tết đến lại nhớ lời chúc của cụ Tú Xương. Chẳng dám chúc gì."








Một buổi khác, ông gửi cho bức chân dung Trịnh Công Sơn, với những dòng: 

Orléans 16/1/2004

"Năm 84, ngày tôi rời khỏi đất nước; buổi chiều hôm đó người nghệ sĩ này đến thăm. Anh hát nhiều bài để tiễn chân tôi.
Trong đó có bài ở trọ. Anh có nói đùa là tôi đi ở trọ.
Xúc động bởi tình bạn bè anh dành cho tôi.
Sang tới Pháp, nhớ đến anh tôi đã nhiều lần phác họa một bức chân dung. Nhưng vẫn thấy chưa được.
Trong năm nay, một buổi chiều nghe lại nhạc của anh ấy. Có bài như một lời chia tay.
Từ những lời ca của bản nhạc. Tôi đã chuyển được sang vóc dáng con người nghệ sĩ yêu mến. Nay gửi tặng anh chị.
Buổi chia tay trong một buổi chiều Sàigòn và buổi chia tay vĩnh biệt sau này của anh.
Băng nhạc thu lại buổi chiều tiễn biệt ở Sài gòn tôi đã tặng cho anh Phạm Duy".

Tôi không quen in những trao đổi riêng tư với các nghệ sĩ trên báo, lần này ngoại lệ, mong được ông tha thứ vì những gì ông vẽ và viết chưa chắc đã có phương tiện nào khác gửi đến người đọc, người xem. 

Mãi mãi, chân dung Trịnh Công Sơn sẽ còn gây sửng sốt, bởi Thái Tuấn đã vẽ được cái chết của một nghệ sĩ: Sơn nhắm mắt, thiền. Sơn tiến tới cõi ngoài. Như không, Sơn đi vào vĩnh cửu. Nhưng bức tranh tôi quý nhất, là bức ông gửi cho cùng với bức thư ngày 1/6/2004 (cả tranh và thư in kèm với bài viết này) xin tạm đặt tên là Kiếp nghệ sĩ. Theo tôi, đây là bức chân dung kỳ ảo: Thái Tuấn vẽ chính mình, Thái Tuấn vẽ Nguyễn Trãi, vẽ nỗi buồn trong kiếp nghệ sĩ: vai quẩy nhạc (sáo), tay cầm cái đẹp (hoa), mặt hề, mắt khóc, môi nhếch như cười, lệ nhỏ bên trong.

Viết về ông phải kiệm lời bởi ông thường chắt nét.



Paris tháng 12/2007






































MỘT KHOẢNG KHÔNG TINH KHIẾT




1.- Mùa thu 1995, Orléans, trong căn nhà nhỏ, đơn sơ, họa sĩ Thái Tuấn tiếp những người bạn từ Việt Nam sang, từ Paris đến. Ông đón khách từ ngoài cổng, dáng ông cao, gầy, trang nhã trong chiếc áo len màu xám nhạt, trong số khách, có người ông đã quen, có người ông mới gặp lần đầu nhưng tất cả đều được hưởng sự ân cần, tin cậy nơi ông. 
Ông dẫn khách đi vòng vòng căn phòng nhỏ như đi xem một cuộc triển lãm với những bức sơn dầu của chính ông. Có lúc, người ta như quên rằng mình đang ở trên đất Pháp, bởi cuộc hội nghị kỳ lạ cùng những người phụ nữ thuần Việt với áo tứ thân, thắt lưng bao, yếm sồi, khăn vành dây; với đôi bồ, chiếc lu đựng nước, chiếc gáo dừa, chiếc chõng tre. Việt nam, vâng, Việt Nam từ tận đáy tâm hồn. Có người đã nhận xét rằng cái đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong tranh Thái Tuấn không phải là cái đẹp của từng phần thân thể như khuôn mặt, đôi môi bộ ngực... mà là một cái đẹp toàn thể, đẹp trong cái vẻ đẹp thùy mị, trong ngần riêng tư của mình. 
Mọi người trở lại phóng khách, lặng im như chưa bước ra khỏi cảm giác bàng hoàng trước một vẻ đẹp, một nỗi nhớ, một nỗi thiết tha dường ấy. 
Chính vợ họa sĩ, người phụ nữ có khuôn mặt thuần hậu, mái tóc bạc búi lại sau gáy, giản dị trong chiếc áo cánh trắng, là người đã đánh thứcmọi người . Bà đã bày lên bàn ăn bữa cơm có canh cải nấu thịt nạc, nem rán, thịt rim mặn. Một bữa cơm thuần Việt.

2.- Sinh năm 1918 tại Hà Nội. Lên 5, có lúc Thái Tuấn đã cùng bố mẹ ở trong một căn nhà nhỏ giữa vườn Bách Thảo. Bố ông là một kỹ sư canh nông, lúc này nhận chăm lo vườn cây ăn quả và rau tươi cho mọi người Pháp tại đây. Thế rồi một tai họa xảy ra. Người bố tranh cãi với một người Pháp, bị phạt và bị điều lên Tuyên Quang. Có thể đây là bước đầu tiên cho cuộc di chuyển rày đây mai đó của Thái Tuấn. Thái Tuấn được gửi về Thanh Hóa, theo học tại trường nội trú. Ông yêu những bức tranh trong những sách giáo khoa, yêu những căn phòng, yêu những tủ giường, bàn ghế được bày biện đẹp đẽ. Ông vẽ những bức tranh đầu tiên vào lúc này. Lên 10, ông theo bố về Tuyên Quang. Núi rừng, sông suối, những cậu bé Mường mộc mạc là những gì đẹp đẽ nhất của tuổi thơ còn lưu lại trong tâm hồn ông. 
Rời Thanh Hóa, Nam Định, Sài Gòn. Rồi lại Nam Định, Sài Gòn, Paris... Trên những chặng đường dài hơn 80 năm, mọi cuộc gặp gỡ đối với ông đều tốt đẹp. Ông có thể đón nhận những con người rất khác nhau và rất khác ông, miễn là họ có một tấm lòng, một tài năng. Hồ Dzếnh, Đặng Thế Phong, Bùi Xuân Phái, Thanh Châu, Đái Đức Tuấn, Quang Dũng, Lê Triều Điển, Cù Nguyễn ... Ông nhắc đến họ, nhớ thói quen của từng người, cung cách của từng người, cả những câu chuyện tình duyên, những buồn lo của họ, từ những tháng năm nào. Sau gần ba mươi năm, lúc về Việt Nam, ông mang cho người này chiếc mũ bê rê, người kia chiếc tẩu thuốc, người nọ chiếc khăn màu xám... những thứ mà ông nhớ rằng họ rất thích. Nghe ông, người ta dễ nhớ đến câu nói của nhà văn Pháp nổi tiếng : Kỷ niệm không có mưa . Dường như, ông đã lọc hết bụi bặm, gai góc để chĩ giữ lại những gì sáng trong, tinh khiết .

3.- Đã có nhiều họa sĩ, nhiều nhà phê bình Mỹ thuật nói đến màu xanh của Thái Tuấn. Đó là màu xanh rêu., xanh biển, xanh xám tạo nên một không khí nhẹ nhàng, đạm bạc nhưng trang nhã, tinh tế. Đó là một cái không kh: " Qua làn ánh sáng mờ của những buổi sáng sớm hoặc chiều hôm " ( Huỳnh Hữu Ủy). 
Các bức tranh của Thái Tuấn ít màu, ít nét và thường chỉ có một người, một vật. Đó là một thiếu phụ đang vấn tóc, một cô gái đội quả dưa hấu, một thiếu nữ tựa tay lên cây đàn, một thiếu nữ đứng trước gió với chiếc khăn quàng hoặc một người đàn ông khoác chiếc guitare ngang ngực, một người đàn ông khác cầm tay trong chùm bóng màu... Và, một con chim đậu trên nhánh xương rồng, một chiếc khăn mắc lại trên nhành cây ... 
Thái Tuấn dành phần còn lại của bức tranh cho một không gian rộng rãi, thanh tĩnh. Tưởng như không có gì có thể ảnh hưởng đến không khí riêng biệt đó của Thái Tuấn. Ông đã tạo nên một vẻ đẹp nằm ngoài mọi giải pháp kỹ thuật . Ông thích nhắc đến câu nói của Charles Trenet: " Tôi không theo mốt nào cả nên không sợ lỗi mốt ". tất nhiên, đó chỉ là một cách nói, mộc cách giải thích . Điều chính yếu là ông tạo nên một thế giới - một thế giới không bị ràng buộc bởi bất luận điều gì, một vẻ đẹp không phôi pha theo năm tháng, qua những miền đất, qua những thăng trầm của chính cuộc đời ông .

4.- Và Thái Tuấn còn là một họa sĩ hiếm hoi viết lý luận , phê bình Mỹ thuật. Vựng tập của ông xuất bản năm 1996 có tên Tuyển tập tranh & Tiểu luận. Lý luận suy nghĩ của Thái Tuấn được rút ra từ chính lao động sáng tác của ông. Vì lẽ đó, nó có một sức hấp dẫn riêng, một hơi thở riêng, mạnh mẽ và uyển chuyển. 
Thật thú vị khi đọc những dòng viết về trách nhiệm của người nghệ sĩ; "..."Người nghệ sĩ không làm gì khác hơn, mới lạ hơn là nhờ tác phẩm để hàn gắn lại cuộc đời đã quá tả tơi, rách nát bởi những phân chia. hắn phải vượt khỏi những khoảng cách mới có thề xóa bỏ được những khoảng cách. Khoảng cách giữa nghệ thuật và kỹ thuật, giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và con người " và " Người nghệ sĩ như một tên hề trong trò chơi ảo thuật, làm thế nào hắn có thể từ cái không lấy ra một bông hoa thật ". 
Thật thú vị khi đọc những dòng ông viết về tính dân chủ của mầu sắc: "...Không thể kỳ thị màu sắc, không thể chỉ lựa chọn lấy những màu sắc sáng chói nhất, rực rỡ nhất mà phải đặt mọi màu sắc, hình nét trên cùng thang giá trị... khi nằm trên bức tranh, mọi màu, mọi vẻ đều bình đẳng, bình quyền.." 
Thật thú vị khi đọc những dòng ông viết về lao động sáng tạo nghệ thuật; "...Hình ảnh và màu sắc, ý tưởng và tình cảm, mọi sự chợt đến chợt đi nhanh chóng, đột ngột đến nỗi dù trí óc có thông tuệ minh mẫn tới đâu cũng khó mà điều khiển nổi cây cọ". 
Và thật cảm động khi đọc những dòng này: ".Người làm nghệ thuật đã ước mong đem hết ánh sáng của cuộc sống vào trong họa phẩm, có lẽ tác phẩm nghệ thuật cũng đã le lói được chút ánh sáng; song tất cả ánh sáng của họa phẩm có gom lại cũng không bao giờ có thể châm nổi một điếu thuốc, như ánh sáng của những vì hành tinh trong cõi xa xăm vô tận". 
Với ông: " Tất cả những chủ thuyết trường phái nghệ thuật , tất cả những khám phá về kỹ thuật, những phong cách khác nhau để tạo tác hình thể, màu sắc, chẳng qua cũng chỉ là những thử thách dọ dẫm luôn luôn thay đổi và đều lồng trong sở thích của từng cá nhân và thời đại". Với ông: "Tác phẩm nghệ thuật không là một phương tiện, nó chính là cái đích đã đạt tới:.

5.- Trong bức thư gửi cho một người bạn ở Việt Nam, Thái Tuấn viết; " Ở Sài Gòn nửa năm, tôi đã quen với khí hậu nóng bức, với những sinh hoạt thân ái của bạn bè. Trở lại Pháp, rất nhớ cái không khí sinh hoạt đầm ấm quen thuộc của miền Nam đất nước. Bên này trời đang còn rất lạnh, cả bên ngoài lẫn bên trong. Từ tháng là lại phải dọn sang nhà mới đưa con gái mới mua lại . Đúng ra là một biệt thự lớn, không phải như căn nhà xinh xắn mà chị đã có dịp đến thăm tôi. nhà có rộng, càng thêm sự trống vắng. Tôi nghĩ có lẽ, tôi nên trở về sống ở Sài Gòn". 
Và rồi, một buổi sớm se lạnh của tháng 12 năm 2004, Thái Tuấn lại về Sài Gòn. Ông nói với người bạn ra đón ông ở sân bay; "Lần này tôi về hẳn" . 
Ông lại trở về ngôi nhà cũ, nơi ông ở khi vừa đặt chân lên đất Sài Gòn, năm 1954. Ông bảo, hồi đó người ta gọi vùng này là Bến Tắm ngựa.Trong căn nhà ở chung với con trai và cháu nội, ông thiết kế cho mình gian phòng hơn 10m2 trên gác. Căn phòng này là nơi ông đặt bàn thờ vợ, bà Hà Nguyệt Lan, nơi ông ngủ và cũng là nơi ông về. Hằng ngày ông ra công viên đi bộ, đên quán cà-phê bên lề đường Bà Lê Chân để uống cà-phê và ngắm nhìn phố xá. Ông bảo, nơi vẽ tranh của ông ở Paris cũng nhỏ thôi, có người đùa vui gọi đó là bàn thờ ông Địa. 
Chính trong căn phòng chật chội ở 150/31/5 đường Lý Chính Thắng, Thái Tuấn đã lại vẽ những bức sơn dâu lớn cho cuộc triển lãm cá nhân tại Gallery Tự Do. Một lần nữa, những người phụ nữ Việt Nam của Thái Tuấn lại làm rung động tâm hồn người yêu nghệ thuật. Họ vẫn trẻ. Họa sĩ Thái Tuấn vẫn trẻ.


Tháng 7/2007, Sài Gòn mưa gió liên miên. họa sĩ Thái Tuấn bị ốm. Khi có bạn đến thăm, ông gắng ngồi dậy đón khách. Vẻ mặt xanh xao, mệt mỏi, giọng hơi khàn đục, ông vẫn muốn còn tiếp tục Câu chuyện hội họa. Ông bảo, có những kỹ thuật không cần cho hội họa, ví như Luật viễn cận. Ông bảo, tôi đã 90, không còn ham muốn bất cứ điều gì, chỉ tiếc chưa có nhiều dịp trò chuyện với các họa sĩ trẻ về hội họa. 
Trên đầu giường của ông có một bức sơn dầu lớn. Ông bảo đó là bức tranh dành tặng Kim , cháu đích tôn của ông.Người thiếu nữ trong tranh mặc váy đen, áo cánh trắng, thắt lưng xanh, đi guốc gỗ, tay khoác nón, mặt nghiêng nghiêng như đang lắng nghe điều gì. Phía sau cô là dãy núi xanh sẫm. Họa sĩ kể, lúc vẽ không để ý, lúc xong mới nhận ra dãy núi ấy là cảnh ở Thanh Hóa, nơi ông sống thời trẻ. Im lặng một lúc, ông nói nhỏ như thì thầm: " Hội họa của tôi là hội họa của hoài niệm" . 


2004-2007
(trong Những Gương Mặt / Những Câu Thơ , Nxb Văn nghệ, tp. HCM. 2008). 







Tranh Thái Tuấn










Thiếu nữ



































































































Tà áo xanh 1971











Orleans










Nhà nhỏ bên sông 2004











Ngàn năm mây bay 1973











Làng trung du











Ký ức 1987
























Cổ tích 2004











Chân dung Phạm Duy 1987











Quách Thoại 1995




































THÁI ĐỘ CẦN THIẾT
KHI XEM TRANH



Thái Tuấn
Sáng Tạo, số 12, tháng 9 - 1957, tr. 33-37.



Xem tranh có người đã hỏi tôi:

Bức trình này vẽ người đàn ba ngồi như thế để làm gì? Hoặc sao bức tranh lại vẽ một người đầu nhỏ đến thế, chân tay thì dài loằng ngoằng, vẽ như thế để làm gì?  Sao cái cây lại tím, mặt trời lại xanh?

Thật là khó trả lời, và bối rối cho kẻ bị chất vấn. Nhưng đấy là những câu hỏi thành thực và có thiện chí muốn tìm hiểu về hội họa. Có lần tôi cũng đã tự hỏi tôi như vậy khi nhìn một bông hồng nhung tuyệt đẹp. Bông hoa này được nở ra để làm gì?  Sao cánh nở lại đỏ, nhị nở lại vàng?  Và rồi tôi tìm ra nhiều duyên cớ chính đáng cho sự có mặt và tồn tại của bông hoa. Trước hết, nhà dược sĩ có thể dùng nó để bào chế ra một thứ thuốc (như thuốc ho chẳng hạn), nhà hóa học dùng nó trong kỹ nghệ chế dầu thơm, người mộ đạo dùng nó để dâng lên bàn thờ làm một lễ vật, v. v... Nhưng đối với tôi hiện tại lúc ấy, tôi chỉ thấy vẻ đẹp của nó. Nên nó đã được tôi cắm vào trong bình hoa của tôi. Mải suy nghĩ vẩn  vơ làm tôi bỏ trôi bao nhiêu giây phút quý báu để thưởng thức vẻ đẹp của bông hoa. Điều đó đối với tôi mới chính là điểm quan trọng và là cái cớ chính đáng nhất.

Nếu một vị tu hành thấy bức họa có một đề tài hợp với giáo lý của minh, thì cứ việc lấy nó làm công cụ truyền đạo cho mình. Nhà chính trị nhận thấy có thể đề tài này hợp với đường lối tranh đấu của mình, thì thiết nghĩ cũng chả sao nếu họ lợi dụng nó làm một lợi khí tuyên truyền cho chủ nghĩa của họ. Đúng ra một bức họa mà có một giá trị nào đứng đắn và xứng đáng thì cũng vẫn chỉ là một giá trị về nghệ thuật, chẳng phải rằng mục đích của nó là làm công việc nghệ thuật  hay sao?

Có những bạn hết sức thành thật, không ngần ngại gì mà thú nhận rằng:  chả hiểu một tý gì về hội họa, phải làm thế nào để hiểu một bức tranh, hay có tiện thì giải thích cho bạn ấy về một bức tranh, mách cho bạn ấy một vài «bí mật» hay «mánh lới» để xem một bức tranh. Chính sự ham muốn hiểu biết và cố gắng trau dồi kiến thức sẽ dần dần giúp các bạn ngày càng tiến bộ. Nghệ thuật không phải xây dựng bằng những công thức hay những phương số. Vấn đề kỹ thuật tuy cần thiết nhưng mới chỉ là những vần quốc ngữ. Muốn thưởng thức một áng văn chương, điều cần tối thiểu là phải biết đọc. Nhưng biết đọc chưa chắc là đã hiểu biết những điều mình đọc được.

Tôi cũng từng biết một số người vào phòng triển lãm tranh, ca tụng bất kỳ một bức tranh nào, mà lối vẽ hết sức cầu kỳ và bí hiểm. Họ không ngần ngại gì mà phát biểu rằng:  lối vẽ tối tân nhất là lập thể hay trừu tượng. Ngoài lập thể và trừu tượng ra đều là xoàng hết;  vẽ gì mà dễ hiểu quá là tầm thường. Họ đoán những hình này, hình nọ ở trong một bức họa lập thể hay trừu tượng. Và coi bức họa như là một cuộc đánh đố giữa người vẽ tranh và người xem tranh. Hiểu
về tranh như vậy cũng là nhầm lẫn, nhưng dù sao cũng là những bộ óc ưa cải cách và tiến bộ.

Đành rằng cuộc đời đòi hỏi phải có sự tiến bộ, nhưng nghệ thuật hội họa thuộc phạm vi tình cảm, và ở địa hạt tình cảm thì không thể nói chuyện tiến hay lùi.

Tình yêu của những chàng trai ở đời Trần đời Lý chắc cũng chẳng kém phần say đắm như ở thời đại nguyên tử của chúng ta, cảm xúc có thể cũng chỉ là một, có khác chăng là ở cách diễn tả. Mà cách diễn tả không bắt buộc phải theo một đường lối. Miễn sao đạt được tới đích.

Khi xem tranh mà chỉ chú ý đến đề tài thì không khác gì kẻ muốn thưởng thức một tác phẩm về văn chương, mà chỉ nóng lòng xem tác giả sẽ kết thúc câu truyện ra sao?

Cách thưởng thức một bức họa có đôi phần khác với thưởng thức một bản nhạc, một bài thơ hay một tác phẩm văn chương. Nghe một bản nhạc ta phải tuần tự nghe từng nốt đàn, từ khúc đầu đến phần chót, cuối cùng ta sẽ có một ý kiến về toàn bản.

Đọc một tác phẩm văn chương, hay nghe ngâm một bài thơ cũng vậy. Ta phải tuần tự đi vào từng chương mục, từng chi tiết. Tất cả hợp lại cho ta một kết luận về toàn thể. Thưởng thức một tác phẩm hội họa, bao giờ ta cũng thu cả toàn thể tác phẩm trong một thoáng nhìn ở giây phút đầu. Cảm xúc đưa lại tuy nhanh chóng nhưng rất rõ rệt, hoặc là bức họa cho ta một cảm giác ghê sợ, buồn bã hay vui vẻ từng bừng, v. v... Giây phút đó hoàn toàn là của cảm xúc, nó đi qua mau hay chậm tùy theo từng người. Sau đó, ta bình tĩnh và ta bắt đầu để ý đến từng chi tiết, ta băn khoăn về chỗ này, ta thú vị ở chỗ kia. Lúc đó là lúc lý trí đã bắt đầu góp phần vào cái việc xem tranh. Khi đã xem xong, ta quay lưng đi, nếu có ai hỏi chúng ta tả lại cảnh trong bức họa, chúng ta sẽ kể rằng đó là một bãi biển, hoặc là một cảnh rừng núi. Nhưng có một điều rất chắc chắn là không có thể nào chúng ta nhớ hết được tất cả mọi chi tiết trong bức họa. Nhưng thử hỏi:  chúng ta nhớ hết tất cả chi tiết để làm gì, và có cần thiết hay không?  Khi quay lưng khỏi bức tranh thì trong đầu ta đã có một bức tranh khác ít chi tiết hơn, nhưng chẳng kém phần linh động và cũng là một cảnh núi rừng âm u, hoặc là biển cả mông mênh. Ở địa hạt văn chương, há cũng chẳng như vậy sao?  Vài đòng chữ có thể gợi lên cho bạn cả một đại dương mênh mông, náo nhiệt, nào có cần gì đến năm bảy trang giấy đầy đủ mọi chi tiết. Tại sao khi xem một bức tranh, ta cứ đòi hỏi phải có chi tiết này, chi tiết kia. Chi tiết ví như những đồ nữ trang, có thể làm tăng vẻ đẹp cho người đeo và cũng có thể làm giảm vẻ đẹp đi, nếu không nói là có hại. Ngắm một người đẹp, mà chỉ chủ ý đến đồ nữ trang thì kể cũng khả nghi.

Bởi vậy khi thưởng thức một họa phẩm, chúng ta nên dẹp hết mọi thành kiến, mọi băn khoăn của lý trí. Để cho phần cảm xúc của ta làm việc tự do hơn. Thưởng thức một bức tranh không đòi hỏi đến sự hiểu biết kỹ thuật hội họa. Việc nghiên cứu một bức họa là phần của các người chuyên môn. Khi nghe máy vô tuyến truyền thanh, nếu bạn hiểu rõ những máy móc bộ phận trong máy đó thì càng hay, nhưng nếu bạn không hiểu rõ thì không phải vì thế mà bạn không nghe được, hay là nghe kém phần thú vị đi.

Một tác phẩm họa có thể tả lại một đồ vật, một phong cảnh, cũng có thể để diễn tả một tư tưởng, diễn đạt một tình cảm, nhưng cũng rất có thể không diễn tả một cái gì khác, ngoài sự băn khoăn về cái đẹp - mục đích duy nhất của nghệ thuật hội họa. Có thể lấy một trường hợp bức họa của Matisse làm thí dụ. Trong bức tranh «L'Odalisque au tambourin» sáng tác năm 1956[1]. Đó là bức họa một người đàn bà lõa thể ngồi trong một chiếc ghế bành, với dáng điệu kiểu cách, giữa một gian phòng màu sắc huy hoàng một cách rối loạn. Ở góc phòng, có một cái trống. Qua một khung cửa sổ, người ta thấy một mảng trời. Không tượng trưng một hành động nào, không có đề tài, nếu có thì chỉ có ở cái tên họa sĩ đặt cho bức tranh, không có gì làm cho người ta rõ người đàn bà đó là một cung nữ. Người đàn bà khỏa thân trong một gian phòng, đó là một đề tài hết sức thông thường trong hội họa. Nhưng ở đây họa sĩ Matisse không chú ý đến sự khỏa thân, hay ở chiếc ghế bành hoặc chiếc trống. Điều mà họa sĩ chú ý là việc xếp đặt màu sắc. Việc đó rất rõ ràng khi chúng ta quan sát bức họa.

Ở trung tâm bức họa, Matisse đã dùng những màu rất nhạt khác hẳn với thói thường của ông. Những bóng tối trên hình khỏa thân là màu xám tím, những chỗ sáng trên thân thể người đàn bà là màu nâu rất nhạt. Những khoảng khác là đen hay xám với màu lơ nhạt hay tím nhạt. Tất cả những khoảng màu sắc trên, người đàn bà khỏa thân họp thành một mảng màu nhàn nhạt nằm ở trung tâm bức họa. Xung quanh trung tâm điểm ấy, biểu diễn một vũ điệu của những màu sắc huy hoàng. Màu đỏ tấm thảm, màu xanh của bức tường, những chấm vàng ở sọc ghế, tất cả được tạo nên quý giá chiếu sáng như màu sắc của những viên kim cương ngọc bích. Hình thể đều mở rộng không có đường biên giới. Màu sắc xâm chiếm bức họa không đếm xỉa gì đến hình thể, đường nét, tuy vậy vẫn không quên phần hòa hợp. Hình thù bàn tay và bàn chân của người đàn.bà chỉ là những chấm màu hết sức sơ sài, họa sĩ không cố ý diễn tả bàn chân hay bàn tay, nhưng đã cho nó màu sắc để nó có thể dung hòa với toàn thể các màu khác.

Nhìn người đàn bà khoả thân chúng ta cũng phải công nhận rằng thực quả Matisse đã có một sự hiểu biết rất sâu sắc về hình thể, và đồng thời cũng có một kinh nghiệm vững chắc về sự nghiên cứu những giáng điệu của người khỏa thân. Nhưng tất cả sự hiểu biết đó, ông khéo gói ghém dưới những nét vẽ rất đơn giản và có vẻ như khờ khạo. Tạo thành một hình ảnh ở trong một hình ảnh. Con người khỏa thân mơ hồ như hình dáng ở Liêu trai. Mượn thực tế để rồi tách rời khỏi thế giới thực tế, họa sĩ Matisse dẫn dắt người xem vào một thế giới kỳ lạ, ảo huyền của những truyện thần thoại, ở trong đó sự giàu có, sang trọng, huy hoàng của màu sắc đã khéo xếp đặt, điều hòa khiến cho chúng ta khi ngắm tranh, có một kỳ thú không kể xiết. Nhưng chỉ có thế thôi, sau khi xem tranh chúng ta cũng chẳng có một băn khoăn gì, hay một tư tưởng gì ở bức tranh đưa lại cho chúng ta.

Matisse cũng đã muốn như vậy. Ta hãy nghe ông nói:  «Tôi diễn tả một quãng không gian và những vật trong đó như là trước mặt tôi chỉ là bầu trời và mặt bể, nghĩa là hết sức giản dị. Tôi vẽ không khó khăn chút nào, vì mọi sự đến trong lúc sáng tác một cách rất tự nhiên. Tôi chỉ lo ghi lại những cảm xúc. Cái điều khó khăn nhất cho các họa sĩ trong công việc sáng tác là không phân loại nổi cảm xúc của mình vì lý trí đánh lạc mất hướng. Lý trí chỉ có chỗ dùng để kiểm soát lại khi đã hoàn thành xong tác phẩm».

Về kỹ thuật, Matisse viết:  «Khi tôi vẽ một cảnh trong nhà, trước mặt tôi là một tủ đứng, tôi có cảm giác đó là một màu đỏ, tôi đưa một màu đỏ hợp với ý muốn và vẽ lên vải. Từ màu đỏ ấy đến màu trắng của bức vải nẩy lên một sự hòa hợp. Rồi bên cạnh màu đỏ, tôi vẽ thêm màu xanh của bức tường, và màu vàng của nền nhà. Màu xanh, màu vàng ấy với màu trắng của bức vải cũng vẫn cần đến một sự liên hệ mà tôi mong muốn. Nhưng theo đà tiến triển của sự sáng tác, dần dần các màu sắc sẽ giảm bớt sự liên hệ với nhau. Lúc ấy, tôi phải dùng đến một vài đường nét hoặc màu sắc phụ thuộc để gây lại thăng bằng và điều hòa, mà tránh cho các màu sắc khỏi đối chọi lại nhau. Đôi khi phải thay đổi lại một số màu sắc chính của bức họa».

Về nội dung, Matisse đã viết:  «Cái điều mà tôi mong ước nhất là một thứ nghệ thuật êm dịu và điều hòa, không có những đề tài cầu kỳ và những nội dung làm mệt óc. Một thứ gì, tựa như là một chiếc ghế bành, giúp cho những ai mệt mỏi một sự thoải mái dễ chịu».

Họa sĩ Matisse có đi quá trớn khi cho rằng nghệ thuật hội học chỉ có công dụng như một chiếc ghế bành hay không? Tôi tưởng rằng: sự thành thực của họa sĩ chỉ đáng ta khen ngợi. Đó là lý tưởng của ông, và những tác phẩm của ông chủng tỏ sự thành công của ông với lý tưởng đó. Riêng tôi, tôi nhận thấy ở một sổ tác phẩm của ông một nụ cười rất hồn nhiên, nhưng dù sao cũng là sự hồn nhiên của một triết nhân họa sĩ.

Khi bước chân vào phòng triển lãm về hội họa, tôi biết chắc có rất nhiều người băn khoăn và tự hỏi:  «Không biết bức nào là đẹp?  Bức nào là xấu?  Mình thú bức tranh này có đúng hay không, hay là một sự nhầm lẫn?». Tôi xin trả lời  rằng:  «Bạn thích bức nào, là bức ấy đẹp nhất đối với  bạn;  còn không phải vì ý thích của bạn mà bức họa sẽ được tăng thêm giá trị nghệ thuật hay giảm sút đi. Nhưng điều ưa thích là quyền của bạn, tại sao bạn không thành thực với ý thích của mình? Đây mới chỉ là nhận xét cái đẹp, cái xấu của bức họa để chơi thôi. Chắc có nhiều bạn sẽ thắc mắc hơn khi có ý định mua một bức tranh. Các bạn thắc mắc những gì? Trước hết là ngại rằng bức tranh có xứng đáng với món tiền bỏ ra mua nó không?  Hai là khi treo ở nhà, nếu nhỡ ra bức họa tồi thực thì bạn bè đến chơi sẽ nghĩ chủ nhân như thế nào?  Tôi đã nghe một anh bạn giải đáp như sau:  điểm thứ nhất, mua một ý thích không hao giờ sợ đắt cả. Về điểm thứ hai, bạn bè sẽ nghĩ rằng: chủ nhân và tác giả rất có thể là hai người bạn thân. Về phần tôi, thì tôi nghĩ rằng:  mọi vấn đề cần phải có sự thành thực. Kẻ sáng tác phải thành thực, thì người xem và mua tranh tại sao lại không thành thực làm theo sự ưa thích của mình. Còn về trình độ thưởng thức, nếu ta muốn được sâu sắc, tế nhị hơn, thì đó là một việc đòi hỏi đến sự học hỏi, trau dồi không ngừng và lâu dài về mọi mặt trong địa hạt văn nghệ;  chứ không thể với việc có sẵn một vài «mánh khóe» ở trong túi là được. Tiếc rằng ở nước ta chưa đặt thành vấn đề «giáo dục về thẩm mỹ cho nhân dân». Nghệ sĩ với điều kiện hẹp hòi, với phương tiện thiếu thốn của mình không thể đứng riêng mà làm nghệ thuật cho có hiệu quả được. Việc đó đòi hỏi sự hiểu biết và thiện chí của chính quyền. Và tất nhiên là một bổn phận của nhà nước trong muôn ngàn bổn phận khác. Trong lúc chờ đợi, chúng ta hãy tự kiếm lấy phương tiện .


Thái Tuấn


[1]Tấm hình này có in bằng màu trong cuốn «Matisse» thuộc loại «Le grand art en livre de poche»  của nhà Flammarion, và hiện có bán ở một vài hàng sách ở Saigon.

(...)


--------------------------------------
trích  PHAN NGUYÊN BLOG
--------------------------------------

0 Nhận xét:

Đăng nhận xét

Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]

<< Trang chủ