Vì [ngôi]sao rơi vào bất tận
Hội họa của Ngọc Dũng còn in trong trí tôi là những thiếu nữ mắt tròn to, những tranh phố màu xanh sẫm, những tĩnh vật bình hoa trên chiếc khăn ca-rô. Là thế giới riêng của anh.
Hội họa của Ngọc Dũng còn in trong trí tôi là những thiếu nữ mắt tròn to, những tranh phố màu xanh sẫm, những tĩnh vật bình hoa trên chiếc khăn ca-rô. Là thế giới riêng của anh.
Trong sổ tay của tôi còn ghi:
Tự họa |
Sau cơn mưa, khói mặt đường bốc lên
trưa mùa hè buồn bã
tôi trở về, sau khi đến thăm
người họa sĩ nằm bệnh
mấy ngón tay tài hoa
miết trên mặt bàn
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
(Ngày 5 tháng 7 năm 2000)
Hai ngày sau thì Ngọc Dũng mất. Vào lúc 3 giờ 25 chiều ngày 7/7/2000.
Mất anh, tôi thiếu vắng vô cùng một người bạn vong niên về nghệ thuật, nơi thành phố này.
Thỉnh thoảng buổi chiều, tôi lại nhớ anh. Anh hay gọi tôi qua uống với anh ly rượu mạnh, anh tự tay pha chế, vừa độ. Có chiều anh lại ghé ngang rủ tôi qua quán cà phê Starbucks ngồi. Nhà tôi và nhà anh gần nhau, chỉ cách mấy con đường. Anh thường kể cho tôi nghe về những trái nhãn Hưng Yên ở quê anh (Ngọc Dũng tên thật là Nguyễn Ngọc Dũng, sinh ngày 16/10/1931 tại Hưng Yên) nơi anh rất mong muốn về thăm, mà không kịp nữa...
Hưng Yên mà Mai Thảo đã viết “Hưng Yên với tôi còn mãi là vùng trời đứng đầu trí nhớ. Tôi yêu lắm Hưng Yên qua tâm hồn mình như một cánh bướm, tôi gần lắm với Hưng Yên thuở đó, tâm thức tôi là một dải nắng. Với rừng Hưng Yên, tôi chảy giữa rừng, tôi là một dòng suối. Với đá Hưng Yên, tôi nằm trong đá, tôi là một hạt ngọc. Với lá Hưng Yên, tôi đọng giữa cuống, tôi là một giọt sương…”.
Boats |
Tôi và các bạn vẽ tranh của tôi là lứa sau anh. Đã đến chơi với anh từ những năm 1960 ở Sài Gòn. Nhớ là họa sĩ Nguyễn Trung và tôi thường đến thăm anh ở căn nhà có cây bông gòn trước sân, trong con hẻm nhỏ đường Trương Minh Giảng. Lúc đó anh đang chuẩn bị cho cuộc triển lãm một mình, với 50 bức tranh sơn dầu đầu tiên ở Sài Gòn vào ngày 1 tháng 5 năm 1961 trong mười ngày.
Sau đó, anh ra triển lãm ở Huế. Thời điểm ấy, một phòng tranh vẽ mới mẻ như vậy là luồng gió lạ cho nghệ thuật của miền Nam. Chúng tôi đang ở những năm cuối cùng của Trường cao đẳng Mỹ thuật, nhưng cũng đã tham dự tranh trong các cuộc Triển lãm mùa Xuân với
cách tìm tòi mới lạ.
Nhắc qua về anh những gì tôi đã biết:
- Năm 1953 anh cùng Duy Thanh và một người bạn triển lãm lần thứ nhất tại Hà Nội.
- Năm 1956 anh cùng với Duy Thanh triển lãm tại Sài Gòn và thỉnh thoảng tham dự những triển lãm khác.
- Năm 1959 triển lãm chung với Thái Tuấn, Duy Thanh, Vị Ý, Lê Thị Quang, Đào Sĩ Chu, Phạm Thị Khánh tại phòng Thông tin Đô Thành - Sài Gòn.
Anh cùng Duy Thanh học ở lớp dạy vẽ tư trên lầu Hội quán Trí Tri, phố Hàng Quạt, Hà Nội, gồm các thầy dạy vẽ giỏi và nổi tiếng đã tốt nghiệp từ Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương như Lương Xuân Nhị (1914-2006), Nguyễn Tiến Chung (1914- 1976). Các anh học nhóm do ông Chung hướng dẫn.
Ngày đầu mùa đông |
Anh kể, cũng đi vẽ ngoài trời, vẽ cảnh trong Văn Miếu, chùa Láng, đền Voi Phục, phố Hà Nội, và nhất là hý họa. Đó là phương pháp căn bản nhất. Vẽ xong, cuối tuần, có khi mời những họa sĩ giỏi khác, chẳng hạn như Bùi Xuân Phái, đến xem và cho ý kiến, nên sau này anh thường thích xem lại tranh của các ông Chung, ông Phái…Anh rất quý những người thầy. Anh thường nói, chữ Lễ là quan trọng. Anh chơi với bạn, dù nhỏ tuổi hơn, luôn hiền hòa đằm thắm là vậy.
Từ bước căn bản đầu tiên ấy, cộng với cách nhìn trong nghệ thuật hội họa là nhìn và nhìn thấy, chứ không là sao chép như thật. Những
ý kiến chính xác của các bậc thầy cộng với tài hoa riêng và nhất là tâm hồn đã đưa những dessin, những tác phẩm hội họa của anh có
một dấu ấn riêng, không nhầm lẫn được.
Anh thương cây cỏ và chim chóc, anh nói trồng những khóm bông như vẽ một bức tranh vậy. Và những bầy chim có hay người xây nên thành phố thơ mộng cho chim đã bỏ dở dang một công trình của Hoàng Tử Bé. Anh luôn thơ mộng như tranh anh vậy.
Ngọc Dũng còn là một người vẽ biếm họa nổi tiếng với tên TUÝT trên nhật báo Chính Luận, cũng là một nét riêng, cũng là thơ mộng trong biếm họa.
Amellia |
Hội họa của Ngọc Dũng còn in trong trí tôi là những thiếu nữ mắt tròn to, những tranh phố màu xanh sẫm, những tĩnh vật bình hoa trên chiếc khăn ca-rô. Là thế giới riêng của anh. Không nhầm vào đâu được.
Một bức tranh lớn, tôi mê và ám ảnh tôi nhất, là bức “Nu Campuchia” của anh. Tranh này vẽ thiếu nữ nằm dài từ hai góc chéo của tấm toile với gam màu nâu sẫm, vàng sậm và đỏ, không gian màu trắng ngà, với chiếc xà-rông của cô gái Campuchia lửng lơ. Làm nhớ Gauguin với những thiếu nữ ở đảo Tahiti, nhưng với anh là một rung động gần gũi. Bức tranh này gần đây nghe nói bán rất đắt giá cho một người sưu tập (thuộc một sưu tập khác ở Sài Gòn bán lại).
Anh thích căng một tấm toile lớn để vẽ, những lần như vậy tôi thường đến phụ anh để căng. Tấm tranh lớn gần đây của anh là bố cục những thiếu nữ. Những thiếu nữ trong tranh anh vẫn thắm tươi một mùa xuân hạnh phúc.
Anh thích dùng màu trong. Khi đến tôi, thấy những tranh màu xám đen, anh thường hỏi: “Lòng cậu không yên?”. Đúng là có những lúc buồn bã. Nghệ thuật là sự cô đơn cùng tận, như Samuel Beckett đã nói.Trong tranh có những lúc tìm không ra những ý tưởng và gam màu đúng với tâm trạng. Anh đã tinh tế thấy như vậy.
Mùa thu Virginia |
Trong hội họa, anh là con người nuôi nguồn sáng tạo mãnh liệt, khó tính. Anh đã từng như Rouault, đốt hết cả chục bức tranh khi một cơn không vừa ý, mà khi nói thì anh cứ cho “vẽ là bôi ấy mà!” một thứ nhị nguyên- dualisme mà không phải ai cũng nhìn ra cái căn nguyên ấy.
Về quan niệm hội họa anh từng phát biểu:
Khỏa thân |
“Người làm hội họa như một cốc nước đầy, tự nó tràn ra, muốn thành hình thể gì không biết. Cái quyết định cuối cùng của tác giả là xác nhận những hình thể đó. Hội họa có sự tình cờ (sự tình cờ được xác định) và có những cái ngố của đường nét, màu sắc. Nếu ở một bức
tranh tất cả màu sắc, đường nét đều vừa vặn, hợp lý, bức tranh sẽ biến thành công trình của một người thợ khéo tay. Tôi thù ghét sự
khéo tay. Danh từ này tự nó đã loại bỏ tính chất nghệ thuật”.
(Thảo luận, Ngôn ngữ mới trong Hội họa, trang 49, Sáng Tạo xuất bản 1965, Sài Gòn).
Và anh ghi trong phần tiểu sử quyển Nghệ thuật Việt Nam hiện đại do Nguyễn Văn Phương biên soạn năm 1962, anh thuộc trường phái Dã thú (Fauvisme) và Biểu hiện (Expressionisme). Bức tranh cuối cùng của anh, “Tuyết ở Virginia và Thi sĩ” (ghi ngày 1/10/1999), vẽ
đôi tình nhân thơ mộng nép vào nhau đi dưới tuyết. Mùa tuyết cuối sau hơn 25 năm ở Mỹ.
Anh đã đi làm, đã vừa mới gần ba năm về hưu. Đang bắt đầu hưng phấn, vẽ tranh, thì lại buông tay…
Có phải hai câu thơ của bạn anh, Thanh Tâm Tuyền, mà anh yêu thích, anh đã từng đọc nhỏ, đã từng ghi ra trên tấm ván lớn để sau hiên nhà:
Sẽ chết như sao rơi vào bất tận
Sẽ yêu như giọt nước hân hoan
là một điềm báo, mà vì sao rơi vào bất tận chính là anh.
./.
ĐINH CƯỜNG
[1939- 2016 Hoa Kỳ]
=============
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét