Nguyễn Huy Thiệp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới điều hướngBước tới tìm kiếm
Nguyễn Huy Thiệp
Sinh29 tháng 4 năm 1950
Hà Nội
Công việcnhà văn
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịchtruyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Nguyễn Huy Thiệp quê huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, sinh tại Thái Nguyên. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc.
Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ, huyện Thanh Trì (nay là phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và theo ông bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp, cho nên lý lịch ông vì vậy bị xếp vào loại "không sạch”.[1] Năm 1980, ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và Đào tạo, sau đó, làm việc tại Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, Cục Bản đồ cho đến khi về hưu.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là "tiểu thuyết đầu tay" - cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông được chính thức xuất bản bởi Nhà xuất bản Công an nhân dân.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những người lao động. Sở trường của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi hướng huyền thoại và cổ tích, xã hội Việt Nam đương đại, xã hội làng quê và những người lao động.
Ngoài ra ông còn viết kịchthơ (chưa xuất bản tập thơ nào, nhưng xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông) và tiểu luận phê bình đăng trên nhiều báo, tạp chí trong nước.
Năm 2004, bài viết "Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn" đăng trên Tạp chí Ngày này của ông tạo ra những tranh luận sôi nổi trong giới văn chương trong một thời gian dài trên Báo Văn nghệ và một số trang mạng tại Việt Nam.

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Quan niệm[sửa | sửa mã nguồn]

  • "...Nhìn vào danh sách 1000 hội viên Hội Nhà văn Việt Nam người ta đều thấy đa số đều già nua không có khả năng sáng tạo và hầu hết đều..."vô học", tự phát mà thành danh. Trong số này có tới hơn 80% là nhà thơ tức là những người chỉ dựa vào "cảm hứng" để tùy tiện viết ra những lời lẽ du dương phù phiếm vô nghĩa nhìn chung là lăng nhăng, trừ có dăm ba thi sĩ tài năng thực sự (số này đếm trên đầu ngón tay) là còn ghi được dấu ấn ở trong trí nhớ người đời còn toàn bộ có thể nói là vứt đi cả..."[3]
  • "Tôi đã sống như một con thú" [4]

Phê bình[sửa | sửa mã nguồn]

  • "Anh có một hỗn danh đầy vinh dự mà hình như phải là người thấu hiểu Phật tính mới dám nhận – nhiều người gọi anh là Thiệp "cứt"- Văn chương phải bất chấp hết. Ngập trong bùn, sục tung lên, thoát thành bướm và hoa, đấy là chí thánh",[5]

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Giải Nonino Risit d’Âur (2008)[6]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn] (...)



Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]